Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO - DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.25 KB, 102 trang )

DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
Dân tộc, quan hệ dân tộc là một trong những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng
ảnh hưởng không nhỏ đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, khu vực và quốc tế.
Bởi vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, ông
cha ta đã luôn quan tâm và giải quyết khá thành công vấn đề dân tộc. Trong công
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới, đặc biệt là trong
công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết tốt vấn đề dân tộc cả trên bình
diện nhận thức lý luận và cả trên bình diện tổ chức thực tiễn, nhờ đó, công tác dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta trong mấy chục năm qua đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Đất nước được độc lập, nhân dân các dân tộc Việt Nam được giải phóng khỏi
ách áp bức, được tự do sinh sống trong hòa bình. Đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào các dân tộc ngày càng được nâng cao, khối đại đoàn kết toàn dân tộc
ngày càng được củng cố, tăng cường. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, quan hệ dân
tộc ở Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định. Các thế lực thù địch
luôn tìm cách chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc nhằm chống phá cách mạng
Việt Nam.
I. NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN TỘC
1. Dân tộc, đặc trưng của dân tộc
Dân tộc là vấn đề phức tạp không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn.
Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc
gia dân tộc. Cho đến nay, trên thế giới, dân tộc được quan niệm với hai nghĩa chính:
dân tộc theo nghĩa tộc người (ethnic, ethnie) và dân tộc theo nghĩa quốc gia dân tộc
(Nation).
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân tộc thường được sử dụng với nhiều nghĩa khác
nhau.
Thứ nhất, thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng tộc người (ethnic,
ethnie). Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát triển
trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có chung nguồn gốc nhân chủng, ngôn
ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác dân tộc, ví dụ như dân tộc Thái,


dân tộc Chăm, dân tộc Khmer... Trong mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa
phương có tên gọi khác nhau, nhưng có đặc trưng về ngôn ngữ, văn hóa… gần gũi
nhau. Chẳng hạn, dân tộc Mông có các nhóm Mông hoa, Mông xanh, Mông đen…,
dân tộc Chứt có các nhóm địa phương như Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng. Với
cách nói thông thường, từ dân tộc có thể thay bằng từ "người", chẳng hạn như người
Tày, người Hoa, người Ê Đê… đều để chỉ dân tộc Tày, dân tộc Hoa, dân tộc Ê Đê…
Cũng có khi từ "người" còn được sử dụng để chỉ cư dân của một quốc gia, ví như
người Việt Nam, người Trung Hoa, người Pháp…
Dân tộc trong nghĩa cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie) thường được nhận biết
qua các đặc trưng sau:
Các thành viên trong cùng một dân tộc đều có một ngôn ngữ chung (thường là
tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp nội bộ dân tộc và ngăn cách, phân biệt với dân tộc khác.
Đây là đặc trưng cơ bản đầu tiên để nhận biết, phân định dân tộc. Tuy nhiên, không
phải trên thế giới có bao nhiêu ngôn ngữ là có bấy nhiêu dân tộc. Hiện nay, trên thế
giới có khoảng 4.000 ngôn ngữ nhưng chỉ có 2.000 dân tộc.


Các thành viên trong cùng một dân tộc đều có chung đặc điểm sinh hoạt văn
hoá, tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc, phân biệt với văn hóa các dân tộc khác.
Trong xem xét, so sánh văn hóa dân tộc - tộc người, người ta thường phân chia một
cách tương đối thành các thành tố văn hoá như văn hóa sản xuất, văn hóa bảo đảm
đời sống, văn hóa nhận thức và văn hóa xã hội.
Các thành viên trong cùng một dân tộc đều có chung một ý thức tự giác dân tộc,
tức là ý thức tự cho mình, tự thừa nhận mình là thuộc một cộng đồng dân tộc, đều tự
hào mình thuộc dân tộc này mà không thuộc dân tộc kia, tự hào về ngôn ngữ, văn
hóa của dân tộc mình, luôn có ý thức bảo lưu, gìn giữ ngôn ngữ, văn hóa, lợi ích của
dân tộc mình mà biểu hiện cao nhất là việc tự nhận tên dân tộc của bản thân mình.
Thông thường, mỗi dân tộc đều có 2 loại tên gọi: Một tên do các dân tộc khác gọi
mình, thường căn cứ vào một đặc điểm nào đó của dân tộc mình như y phục,
trang sức, nơi cư trú (cao, thấp), thời gian cư trú (trước, sau), v.v…; một tên do

dân tộc tự gọi. Tên tự gọi này nói lên ý thức tự giác dân tộc. Nó có tác dụng, một
mặt cố kết lại thành một khối cộng đồng những người cùng chung một nguồn gốc
lịch sử, cùng sử dụng ngôn ngữ, cùng chung những đặc trưng văn hoá, một vận
mệnh lịch sử; mặt khác, nó làm cho cộng đồng người đó tách ra và phân biệt với
các cộng đồng người khác. ý thức tự giác dân tộc có sức sống bền vững, tồn tại
dai dẳng khi cộng đồng mang tên nó trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Theo nhiều nhà khoa học Việt Nam, cùng với ngôn ngữ và đặc trưng văn hoá, ý
thức tự giác dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt, là một trong ba tiêu chí căn bản
để xác định thành phần dân tộc trong quốc gia dân tộc Việt Nam. Tên gọi dân tộc
và tên tự gọi thông thường là khác nhau, ví dụ người ta cũng có thể gọi người
Việt là người Kinh nhưng cũng không hiếm trường hợp tên dân tộc tự gọi đồng
thời cũng là tên gọi dân tộc, ví như Bru - Vân Kiều.
Một dân tộc được biểu hiện ở phức hợp các đặc trưng, tiêu chí đó. Trên thực tế,
có thể có dân tộc có đầy đủ đặc trưng, nhưng cũng có dân tộc không còn đủ các đặc
trưng; trong trường hợp đó, ý thức tự giác dân tộc sẽ là tiêu chí nhận biết còn lại
cuối cùng của dân tộc.
Thứ hai, thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cùng sinh sống
trong một quốc gia dân tộc (Nation). Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng
chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất
định. Ví dụ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp... Trong quá trình
lịch sử lâu dài, các tộc người cùng sinh sống trên một địa bàn có nhu cầu tồn tại và
phát triển đã cố kết thành dân tộc quốc gia. ở các nước phương Tây, dân tộc quốc
gia ra đời gắn liền với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành thị trường
dân tộc; ở các nước phương Đông, dân tộc quốc gia thường ra đời sớm hơn do
phương thức sản xuất châu á, nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm quy định.
Dân tộc trong nghĩa dân tộc quốc gia có các đặc trưng sau:
Có một lãnh thổ chung, được phân định bằng đường biên giới giữa các quốc gia,
mà ở đó có một hay nhiều tộc người cùng sinh sống. Lãnh thổ là tiêu chí, đặc trưng
cơ bản của quốc gia dân tộc. Không có biên giới lãnh thổ riêng thì không có dân tộc
quốc gia riêng. Trong lịch sử và hiện nay, không ít xung đột giữa các quốc gia dân

tộc có liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ.
Có một đời sống kinh tế chung, với một thị trường, một đồng tiền chung thống
nhất… làm nền tảng, điều kiện vật chất cơ bản bảo đảm sự cố kết bền chặt của cộng
đồng quốc gia dân tộc.


Có một ngôn ngữ giao tiếp chung của cả quốc gia dân tộc - quốc ngữ. Trong quốc
gia đa tộc người, mỗi tộc người vừa có ngôn ngữ tộc người riêng để giao tiếp trong
nội bộ tộc người, vừa có một ngôn ngữ chung để giao tiếp trong quốc gia dân tộc.
Ngôn ngữ của dân tộc đa số thường được chọn làm quốc ngữ của quốc gia dân tộc,
ví như quốc ngữ của dân tộc Việt Nam là ngôn ngữ của dân tộc Việt (Kinh), quốc
ngữ của dân tộc Trung Hoa là ngôn ngữ của dân tộc Hán… Trong một số trường
hợp, ngôn ngữ của một dân tộc ở quốc gia khác được chọn làm quốc ngữ, như một
số nước vốn là thuộc địa của Anh trước đây lấy tiếng Anh làm quốc ngữ; một số
nước thuộc địa ở Châu Mỹ La-tinh lấy tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Bồ Đào Nha
làm quốc ngữ của quốc gia mình. Trên thực tế, các tộc người, nhất là tộc người thiểu
số thường sử dụng song ngữ, đa ngữ trong giao tiếp; tiếng mẹ đẻ giao tiếp trong nội
bộ tộc người, tiếng tộc người đa số trong vùng dùng để giao tiếp trong vùng, quốc
ngữ dùng để giao tiếp trong toàn quốc.
Có tâm lý chung biểu hiện ở nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của quốc gia
dân tộc. Đây là yếu tố rất cơ bản, là "quốc hồn'', ''quốc túy", "chứng minh thư" của
dân tộc quốc gia để phân biệt quốc gia dân tộc này với quốc gia dân tộc khác. Cho
nên, bảo vệ văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với các quốc gia dân tộc. Với dân tộc
Việt Nam, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc là một nội dung quan trọng của bảo vệ Tổ
quốc.
Có một thể chế chính trị với một nhà nước thống nhất để quản lý, điều hành mọi
hoạt động của quốc gia dân tộc và quan hệ với các quốc gia dân tộc, vùng lãnh thổ
khác. Đây là thiết chế có vai trò quan trọng trong quản lý, điều hành mọi mặt đời
sống xã hội của quốc gia dân tộc, quy định bản chất chính trị, sự phát triển phồn

vinh hay suy vong của quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa, trong đó trụ cột là nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp
công nhân có đầy đủ điều kiện tốt nhất để quản lý, điều hành mọi mặt đời sống xã
hội, phát triển đất nước, trong đó có việc giải quyết tốt vấn đề dân tộc, đưa các dân
tộc đi lên con đường văn minh, tiến bộ, hạnh phúc.
Trong các đặc trưng của dân tộc, đặc trưng cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội là
đặc trưng quan trọng nhất; đặc trưng chung một nền văn hoá, tâm lý là đặc trưng tạo
nên bản sắc dân tộc.
Trong một quốc gia dân tộc có thể có một hay nhiều dân tộc, một hay nhiều
chủng tộc khác nhau. Hiện nay trên thế giới có hơn 200 quốc gia dân tộc, trong đó
chỉ có khoảng trên dưới 10 quốc gia một tộc người, còn lại là quốc gia đa tộc người.
Trong một quốc gia dân tộc, thường có một đến hai dân tộc có dân số đông được gọi
là dân tộc đa số, ví như dân tộc Kinh ở Việt Nam, dân tộc Hán ở Trung Quốc, dân
tộc Nga ở Liên bang Nga… Các dân tộc có số dân ít hơn được gọi là dân tộc thiểu
số. Thuật ngữ dân tộc thiểu số chỉ thuần túy căn cứ vào số lượng người của dân tộc
này ít hơn trong quan hệ so sánh với các dân tộc khác trong một quốc gia dân tộc
tuyệt nhiên nó không phản ánh trình độ phát triển của các dân tộc.
Ngoài ra, trong ngôn ngữ đời thường, đôi khi (dù ít dùng) thuật ngữ dân tộc còn
hàm chỉ các dân tộc thiểu số. Thuật ngữ "chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước"
mà chúng ta đang sử dụng cũng hướng đến đối tượng thụ hưởng là đồng bào các dân
tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số.
Khái niệm dân tộc có mối liên hệ gần gũi với các khái niệm "nhà nước", "quốc
gia", "chủ nghĩa dân tộc"… Theo Giáo sư Phan Huy Lê, các khái niệm "nhà nước",


"quốc gia", "dân tộc" đều là các từ Hán - Việt mới được sử
dụng phổ biến từ đầu thế kỷ XX và đều có nguồn gốc từ Nhật Bản trực tiếp du nhập
vào Việt Nam hoặc thông qua các sách, báo của Trung Quốc. Từ "quốc" và "gia"
vốn có trong tiếng Hán từ lâu nhưng được ghép lại, tạo thành từ "quốc gia" để chỉ
Nhà nước (State/Etat) hay cộng đồng quốc gia. Trong tiếng Việt, từ State/Etat

thường dịch là Nhà nước, nhưng từ "quốc gia" thường có hai nghĩa: Nhà nước hay
cộng đồng quốc gia. Từ thời Trần, trong di chúc của mình, Trần Quốc Tuấn đã dùng
từ "quốc gia" theo nghĩa là "nước - nhà" trong câu "quốc gia tính lực" nghĩa là nước
và nhà chung sức.
Chủ nghĩa dân tộc (Nationalism/Nationalisme) hiện được hiểu với nhiều nghĩa
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. ở phương Tây, chủ nghĩa dân tộc là sản phẩm
tinh thần của quá trình hình thành và phát triển của dân tộc tư sản. Chủ nghĩa dân
tộc đã từng giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến,
thống nhất quốc gia, dân tộc, giải phóng con người khỏi những quan hệ phong kiến,
xây dựng xã hội dân sự và phát triển văn hoá dân tộc. Tại các nước thuộc địa và lệ
thuộc ở châu á, châu Phi, châu Mĩ La-tinh, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa dân tộc hình thành và phát triển mạnh mẽ, giữ
vai trò động lực của phong trào giải phóng dân tộc.
ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc cũng từng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân xâm lược. Cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam là
chủ nghĩa yêu nước truyền thống được nâng cao trên cơ sở kết hợp với những nhân
tố mới của thời đại, trong bối cảnh và yêu cầu chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng
dân tộc. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từng đánh giá, chủ nghĩa yêu
nước như "động lực lớn của đất nước", đã khơi dậy và thúc đẩy các tầng lớp nhân
dân sôi nổi tham gia các phong trào yêu nước. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, nêu
cao chủ nghĩa yêu nước như một động lực tinh thần để đoàn kết dân tộc, xây dựng
đất nước, chấn hưng dân tộc là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm sai lệch về chủ nghĩa dân tộc, hoặc
do tuyệt đối hóa tính biệt lập, tính đặc thù của một dân tộc, hoặc đề cao dân tộc
mình, phủ nhận hoặc xem thường dân tộc khác. Quan niệm về chủ nghĩa dân tộc này
thường được biểu hiện dưới hai hình thức: chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa dân tộc lớn
và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Sự xuất hiện chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa sôvanh không chỉ ở trong các dân
tộc đi thống trị, áp bức dân tộc khác mà còn có thể xuất hiện trong một dân tộc đa
số, có trình độ phát triển cao hơn các dân tộc khác mà biểu hiện của nó là sự thiếu

tôn trọng hoặc đối xử không bình đẳng với các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển
thấp hơn.
Trái với chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi có
xu hướng khép kín, đóng cửa, biệt lập, không muốn tiếp thu tinh hoa văn hóa,
những mặt tích cực của các dân tộc khác.
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng chính trị
và biểu hiện tâm lí đòi hỏi quyền lợi độc lập, tự chủ và phát triển của cộng đồng
quốc gia dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc hình thành và phát triển gắn liền với quá trình
đấu tranh để xây dựng và bảo vệ cộng đồng quốc gia dân tộc. Tuỳ tình hình, đặc
điểm dân tộc, giai cấp và lịch sử của từng dân tộc, chủ nghĩa dân tộc mang dấu ấn
dân tộc và giai cấp khác nhau. Có chủ nghĩa dân tộc truyền thống thể hiện lòng yêu
nước lâu đời của một dân tộc, có chủ nghĩa dân tộc tư sản, có chủ nghĩa dân tộc


Xôviết, có chủ nghĩa dân tộc sôvanh nước lớn, có chủ nghĩa dân tộc cách mạng,
v.v...
Trên bình diện lịch sử thế giới, bên cạnh nội dung chân chính và tích cực, chủ
nghĩa dân tộc cũng chứa đựng những khuynh hướng phát triển tiêu cực theo chủ
nghĩa sôvanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc... Trong nhiều vụ xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo trên thế
giới hiện nay, chủ nghĩa dân tộc theo các xu hướng tiêu cực trên đang bị khai thác
và kích động. Do vậy, cần có sự phân biệt trong sử dụng khái niệm chủ nghĩa dân
tộc.
2. Quan hệ dân tộc và vấn đề dân tộc trên thế giới
hiện nay
Các dân tộc trong các quốc gia, cũng như các quốc gia dân tộc trên thế giới
không sống biệt lập mà luôn có quan hệ với nhau, tạo nên các mối quan hệ dân tộc.
Quan hệ dân tộc là sự gắn bó, tác động qua lại lẫn nhau giữa các tộc người trong
một quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế,
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội như quan hệ về lãnh thổ, chính trị, kinh tế,

văn hoá, ngoại giao, quân sự... Quan niệm này chỉ rõ, có thể có quan hệ dân tộc tốt
đẹp, có thể có quan hệ dân tộc bình thường, có thể có quan hệ dân tộc xấu, có thể có
quan hệ dân tộc rất xấu... cả ở cấp độ quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia
hay quan hệ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, vấn đề dân tộc thường được hiểu là những vấn đề
nảy sinh trong quan hệ dân tộc, tác động xấu đến từng tộc người và quốc gia dân
tộc, đòi hỏi các nhà nước phải giải quyết.
Thực chất của vấn đề dân tộc là mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các tộc người,
các quốc gia dân tộc, nhất là về các quyền cơ bản của các dân tộc. Quyền dân tộc cơ
bản là cơ sở tối thiểu để bảo đảm cho một dân tộc tồn tại và phát triển bình thường
và là cơ sở để dân tộc đó thực hiện các quyền khác của mình, bao gồm: hoà bình,
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Cụ thể hơn, đó là quyền được
tồn tại với tính cách là một tộc người, dân tộc; quyền độc lập của tộc người, dân tộc;
chủ quyền tộc người, quốc gia mà cơ bản là quyền dân tộc tự quyết, quyền dân tộc
bình đẳng; quyền độc lập về kinh tế và những điều kiện để phát triển kinh tế lâu dài,
bền vững; quyền giữ gìn và phát triển ngôn ngữ tộc người, dân tộc; quyền giữ gìn và
phát triển văn hóa tộc người, dân tộc. Do đó, thực chất giải quyết vấn đề dân tộc
trong chủ nghĩa xã hội là xác lập quyền dân tộc cơ bản tạo nên những quan hệ công
bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân
tộc với nhau trên mọi lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Đặc điểm của quan hệ dân tộc, sắc tộc
Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, quan hệ dân tộc, sắc tộc
ngày càng đa dạng, phong phú, sinh động và không kém phần phức tạp. Trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ dân tộc, sắc tộc cả ở phạm vi quốc gia, khu vực
và quốc tế nổi lên thành vấn đề trọng đại, có tính thời sự nóng bỏng và phức tạp hơn
trước nhiều. Quan hệ dân tộc, sắc tộc được biểu hiện rất đa dạng, phong phú, sinh
động, tế nhị, phức tạp và còn tồn tại lâu dài, phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, diễn ra trên các lĩnh vực, phản ánh cả hiện tại và lịch sử, cả phạm vi quốc
gia và quốc tế.



Quan hệ dân tộc, sắc tộc là mối quan hệ rất phức tạp, được biểu hiện cả ở nguồn
gốc, nội dung của chính những dị biệt giữa các cộng đồng người. Tính phức tạp của
quan hệ dân tộc, sắc tộc là do các cộng đồng người khác nhau có nhiều mối quan hệ
tác động lẫn nhau; có lợi ích khác nhau, mâu thuẫn, bất đồng với nhau về kinh tế,
lãnh thổ, văn hoá, chính trị... Chúng được biểu hiện trong quan hệ dân tộc, thông
qua quan hệ dân tộc cùng với các quan hệ xã hội khác tác động đan xen nhiều chiều,
giằng chéo nhau, không dễ gì giải quyết. Trong xã hội có áp bức, bóc lột, các quan
hệ dân tộc, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp đan chéo vào nhau và diễn ra
càng phức tạp, quyết liệt và gay gắt.
Quan hệ dân tộc, sắc tộc rất nhạy cảm, tế nhị do động chạm tới tâm lý, ý thức tộc
người, tới lợi ích, bản sắc văn hoá và những sự khác biệt của các tộc người. Các
quan hệ đó lại thường gắn với vấn đề giai cấp, vấn đề do lịch sử để lại, đã in sâu vào
tâm lý, ý thức của tộc người, rất dễ bị kẻ thù, các thế lực xấu kích động, lợi dụng.
Trên thực tế, có những xung đột dân tộc hiện nay xuất phát từ những nguyên nhân
lịch sử hàng trăm năm trước để lại.
Quan hệ dân tộc, sắc tộc vận động, biến đổi phụ thuộc vào chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của các nhà nước của giai cấp cầm quyền mà trực tiếp là chính sách
đối với các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số và chính sách đối ngoại của các quốc gia
dân tộc đó. Khi nhà nước quan tâm giải quyết tốt lợi ích các dân tộc, có chính sách
đối ngoại đúng đắn thì quan hệ dân tộc, sắc tộc sẽ từng bước được giải quyết tốt
đẹp, và ngược lại. Cho nên, sự biến đổi sinh động của quan hệ dân tộc, sắc tộc của
mỗi quốc gia dân tộc phụ thuộc trực tiếp vào sự thay đổi của chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, trực tiếp là chính sách dân tộc của các giai cấp cầm quyền.
Quan hệ dân tộc, sắc tộc còn tồn tại lâu dài. V.I. Lênin đã từng nói, ngay cả khi
giai cấp, vấn đề giai cấp mất đi, thì vẫn còn sự khác biệt giữa các tộc người, các dân
tộc và theo đó, các quan hệ dân tộc, vấn đề dân tộc vẫn còn tồn tại. Cho nên, về mặt
phương pháp luận, không bao giờ coi nhẹ, đơn giản hóa các quan hệ dân tộc, sắc
tộc, vấn đề dân tộc, không được tuyệt đối hóa cái chung của quốc gia dân tộc mà

xem nhẹ cái riêng của từng tộc người trong quốc gia đa tộc; cũng không tuyệt đối
hóa cái riêng của từng tộc người trong quốc gia đa tộc mà xem nhẹ cái chung của
quốc gia đa tộc cũng như không tuyệt đối hóa cái chung nhân loại, cái quốc tế trong
quan hệ giữa các quốc gia dân tộc; không bao giờ được coi quan hệ dân tộc, sắc tộc,
vấn đề dân tộc đã được giải quyết xong xuôi. Bởi vì, khi vấn đề dân tộc này, quan hệ
dân tộc này được giải quyết, thì trong quá trình phát triển, các vấn đề dân tộc mới,
các quan hệ dân tộc mới nảy sinh, đặt ra vấn đề mới đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục
giải quyết.
Thực trạng quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay vừa mang tính toàn
cầu nóng bỏng, vừa là vấn đề xã hội phức tạp của các quốc gia, các khu vực và cả
phạm vi quốc tế. Mối quan hệ dân tộc, sắc tộc đã và đang bùng phát thành các cuộc
xung đột, chiến tranh ở những quy mô, phạm vi và cường độ khác nhau, tạo ra các
"điểm nóng", gây nên tình hình mất ổn định, đe doạ hoà bình, an ninh quốc gia, khu
vực và quốc tế. Hiện nay, mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc đang diễn ra ở
khắp các châu lục, đang là mối quan tâm, lo ngại của cộng đồng quốc tế và của các
lực lượng xã hội.
ở châu Âu, mặc dù đã hình thành một Liên minh châu Âu (EU) với sự nhất thể hoá
về kinh tế, chính trị, tiền tệ... song xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi,
điển hình là sự tan vỡ của Liên bang Nam Tư, xung đột giữa cộng đồng người Sécbi
với người Bôxnhia Hécxgôvina, với người Croatia; người ly khai Anbani ở Côsôvô;


căng thẳng, xung đột giữa ácmênia và Agiecbaidan ở Nagorơnưi Carabắc; chiến tranh
ở Bắc Ailen giữa cộng đồng người theo đạo Tin Lành với cộng đồng Thiên Chúa
giáo; phong trào đòi ly khai ở xứ Baxcơ (Tây Ban Nha), ở đảo Coócxơ (Pháp); tranh
chấp giữa cộng đồng Síp (gốc Thổ) với người Síp (gốc Hy Lạp); mâu thuẫn giữa
người Mônđova với Rumani, v.v...
ở châu á, chủ nghĩa ly khai ở Trécnhia đòi tách Trécnhia ra khỏi Liên bang Nga;
phong trào đòi độc lập cho người Cuốc ở Irắc, Thổ Nhĩ Kỳ để thành lập nhà nước
Kuốcđixtan; cuộc chiến ác liệt ở ápganixtan liên quan đến các bộ tộc Pattum,

Uzơbếch, Tazích, Hazrar; cuộc xung đột giữa Ixraen với Palextin; tranh chấp dẫn
đến xung đột giữa ấn Độ và Pakixtan ở Casơmia; cuộc chiến đòi ly khai của "Những
con hổ giải phóng Tamin" ở Xrilanca; vấn đề Achê ở Inđônêxia; phong trào Hồi giáo
Môrô ở Philippin…
ở châu Phi, ước tính có khoảng 1000 dân tộc, mỗi dân tộc có đặc điểm riêng biệt. ở
đây, ảnh hưởng của chính phủ trung ương không lớn mà ảnh hưởng quyền uy và tín
nhiệm của những người tộc trưởng các dân tộc có chi phối quan trọng hơn. Trong quá
trình thôn tính, áp đặt sự thống trị lên các nước ở châu Phi, các nước đế quốc, thực
dân đã chia cư dân các dân tộc bản địa làm công dân của các quốc gia khác nhau một
cách khiên cưỡng, không dựa trên cơ sở truyền thống lịch sử, văn hóa. Cho nên, trong
nội bộ quốc gia đa tộc người kiểu đó thường xảy ra xung đột dân tộc, sắc tộc. Tình
trạng này xảy ra thường xuyên khi chính quyền nhà nước do dân tộc này nắm giữ thì
dân tộc khác chống lại. Trên thực tế, tại nhiều nước ở châu Phi, xung đột sắc tộc luôn
là vấn đề nhức nhối. Đã từng diễn ra các cuộc thanh lọc lẫn nhau giữa người Hutu và
Tutxi ở Uganđa, Bunrundi; phong trào Hồi giáo cực đoan ở Angiêri, Xuđăng, Ai Cập;
cuộc chiến tranh giữa Êrơtêria và Êtiôpia...
ở châu Mỹ và châu Đại Dương, mâu thuẫn và xung đột giữa người gốc Âu với thổ
dân vẫn nổi lên thường xuyên. ở Canađa vẫn thường xảy ra các vụ va chạm giữa cộng
đồng người nói tiếng Pháp và cộng đồng người nói tiếng Anh, v.v..
Các hình thức xung đột dân tộc, sắc tộc diễn ra rất đa dạng: Xung đột mâu thuẫn
quyền lực chính trị giữa các phe phái; xung đột về tranh chấp lãnh thổ, biên giới giữa
các dân tộc; tranh chấp về quyền lợi kinh tế, quản lý và khai thác tài nguyên; xung đột
do phân biệt chủng tộc, v.v...
Nguyên nhân của vấn đề xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay rất đa
dạng, phức tạp, trong đó nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, do mâu thuẫn lợi ích giữa các tộc người, sắc tộc, dân tộc về lãnh thổ,
tài nguyên, chính trị, kinh tế... đã tồn tại lâu đời trong lịch sử hoặc mới nảy sinh. Lợi
ích là vấn đề nhạy cảm nhất trong các mối quan hệ xã hội nói chung, quan hệ dân
tộc nói riêng. V.I. Lênin đã có một chỉ dẫn quan trọng rằng, đằng sau sự tuyên bố có
tính chất khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… của các giai cấp, các đảng phái là

lợi ích của các giai cấp, các đảng phái đó. Kẻ nào không hiểu được điều đó là ấu trĩ
về chính trị và bị giai cấp tư sản lừa bịp. Điều đó cũng đúng với lợi ích dân tộc,
quan hệ dân tộc. Cho nên, giải quyết hài hòa lợi ích giữa các tộc người, các dân tộc,
xét đến cùng là nguyên tắc quan trọng để xây dựng quan hệ dân tộc tốt đẹp, khắc
phục sự xung đột dân tộc. Và theo đó, về bản chất, vấn đề dân tộc chỉ được giải
quyết ngày càng triệt để trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, do âm mưu, thủ đoạn, chính sách vụ lợi ích kỷ của chủ nghĩa đế quốc.
Các nước đế quốc luôn tìm "trăm phương, ngàn kế" để chia rẽ, lợi dụng, kích động
mâu thuẫn dân tộc, gây mất ổn định, làm suy yếu đối phương, kiềm chế sự phát


triển của các dân tộc để dễ bề bóc lột, nô dịch các dân tộc theo kiểu "đục nước béo
cò". Trong chiến lược "diễn biến hoà bình", các thế lực chống chủ nghĩa xã hội
luôn lợi dụng "vấn đề dân tộc" để tiến công chống phá các đảng cộng sản cầm
quyền, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, do quan điểm, chính sách dân tộc của các nhà nước còn thiếu sót, sai
lầm; sự yếu kém trong quản lý xã hội của nhà nước, sự bất lực của nhà nước trước
các vấn đề xã hội nảy sinh; bộ máy chính quyền, công chức nhà nước quan liêu,
tham nhũng, vi phạm dân chủ… dẫn đến việc vi phạm quy luật vận động phát triển
của các tộc người, duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa các dân tộc, tộc người, không
có chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của các dân tộc thiểu số, đồng hoá cưỡng bức, dung túng chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, dùng bạo lực đàn áp các tộc người để áp đặt quan điểm, chính sách của nhà
cầm quyền.
Thứ tư, do thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực, của các lực lượng cách mạng
trên thế giới đã phần nào làm cho các lực lượng tiến bộ trong các dân tộc, tộc người
mất định hướng chính trị, suy giảm chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và bị
phân liệt; thừa cơ đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan
ra sức lợi dụng để kích động chia rẽ dân tộc nhằm mục đích vụ lợi.
Thứ năm, do hệ quả tiêu cực của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại

và các yếu tố thời đại chi phối. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá, một mặt, làm cho xu thế liên kết tăng lên, theo
đó nguy cơ mất độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, mất ý thức tự giác tộc người, dân
tộc cũng tăng lên; mặt khác, để chống lại các nguy cơ trên, xu thế các tộc người,
dân tộc bừng tỉnh, tăng cường ý thức tự giác tộc người nhằm giữ vững độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường của tộc người, quốc gia dân tộc mình cũng tăng lên. Cực
đoan hơn, một số lực lượng chính trị ở một số dân tộc tìm mọi cách chống lại xu
hướng liên kết dân tộc, làm cho các trào lưu xung đột, ly khai dân tộc cũng tăng
lên. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và những nhân tố mới của thời đại
đã thúc đẩy cả hai xu hướng của quá trình tộc người phát triển mạnh mẽ, nhưng
thường bị các nước đế quốc, các lực lượng cực đoan đẩy lên thành các xung đột, ly
khai dân tộc.
Ngoài ra, những vấn đề do lịch sử để lại, sự liên kết, tác động qua lại giữa vấn đề
dân tộc với vấn đề tôn giáo, những vấn đề toàn cầu về môi trường, về khủng bố…
cũng liên quan và làm phức tạp thêm quan hệ dân tộc, sắc tộc, vấn đề dân tộc trên
thế giới hiện nay.
Rõ ràng, vấn đề dân tộc, sắc tộc cả trong lịch sử và hiện nay vẫn thực sự phức tạp
và nóng bỏng. Các cuộc xung đột và chiến tranh dân tộc, sắc tộc gây ra những hậu
quả hết sức nặng nề cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường... cho các
quốc gia, đe dọa hoà bình, an ninh các khu vực và thế giới, làm suy yếu các lực
lượng cách mạng và tiến bộ.


Chương II
DÂN TộC VIệT NAM Và CHíNH SáCH DÂN TộC CủA CáC TRIềU ĐạI
PHONG KIếN VIệT NAM
1. Sự ra đời của dân tộc Việt Nam
Sự ra đời của dân tộc Việt Nam là một trong những vấn đề được giới khoa học
Việt Nam quan tâm đầu tư nghiên cứu từ lâu. Khuynh hướng chung cho rằng, dân
tộc Việt Nam hình thành sớm, thuộc loại hình dân tộc trước dân tộc tư sản.

Các nhà khoa học Việt Nam đã đề cập đến mấy đặc điểm quan trọng của dân tộc
Việt Nam sau đây: Việt Nam là một nước đa tộc người, gồm 54 tộc người, trong đó
người Việt chiếm đa số tuyệt đối với tỉ lệ khoảng 87% dân số và các tộc người
sống xen ghép, không hình thành không gian lãnh thổ riêng của từng tộc người.
Tộc người Việt giữ vai trò trung tâm tập hợp và cố kết các tộc người trong một
quốc gia thống nhất và tiếng Việt dần dần trở thành tiếng nói chung của quốc gia,
tuy trong từng vùng địa - văn hoá tộc người, tiếng nói của từng tộc người vẫn bảo
tồn và tiếng nói của tộc người chiếm ưu thế trong vùng được sử dụng như tiếng nói
trong giao tiếp vùng cùng với tiếng Việt. Do điều kiện khách quan của sự phát
triển nông nghiệp lúa nước gắn liền với nhu cầu trị thủy và nhu cầu tự vệ chống
ngoại xâm, sự liên kết cộng đồng giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của quốc gia dân tộc. Thể liên kết cộng đồng Việt Nam chủ yếu theo ba cấp
cộng đồng theo trục dọc: Nhà - Làng - Nước. Nhà - Gia đình là tế bào của xã hội;
Làng là cộng đồng kết hợp quan hệ láng giềng (xóm làng) với quan hệ huyết thống
(họ), mang tính tự quản cao; Nước là quốc gia dân tộc.
Sau khi hình thành, nhà nước phát triển theo xu hướng chủ yếu là quốc gia quân
chủ tập quyền, thống nhất. Sản phẩm tinh thần được người Việt Nam coi trọng nhất
của quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, quá trình hình thành, phát triển của quốc
gia dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc. Từ thế kỷ XV, Nho giáo được
nâng lên địa vị chính thống và có ảnh hưởng sâu sắc về nhiều mặt, nhưng vẫn được
vận dụng trên tinh thần dân tộc. "Trung quân" gắn liền với "ái quốc" và khi xảy ra
mâu thuẫn, đối lập giữa hai giá trị đó thì "ái quốc" giữ vai trò chi phối, quyết định
thái độ chính trị của đại đa số các tầng lớp nhân dân. Chế độ quân chủ thời thịnh trị
mang tính "thân dân", lấy "nước" và "dân" làm gốc (như thời Lý, Trần). Việt Nam
coi trọng "trung", "hiếu" nhưng gắn với với "nước", "dân", đồng thời nêu cao
"nhân", "nghĩa"; có thời lấy "nhân nghĩa" làm ngọn cờ cứu dân, cứu nước.
Như vậy, từ sự nghiên cứu của các nhà khoa học, có thể khẳng định, dân tộc Việt
Nam hình thành sớm gắn liền với sự xuất hiện nhà nước Văn Lang, Âu Lạc. Theo
Giáo sư Trần Văn Giàu, thời Hùng Vương đã có một quốc gia dân tộc cổ đại: Có
lãnh thổ là vùng Bắc Bộ mà trung tâm là Đền Hùng, Phú Thọ hiện nay; có cư dân

nhiều tộc người; quốc gia Văn Lang gồm 15 bộ lạc, quốc gia Âu Lạc là sự sáp nhập
hai khối cư dân Âu Việt và Lạc Việt; có bộ máy nhà nước tuy đơn sơ, thuần hậu chất
phác, thắt nút dây để ghi nhớ sự kiện nhưng cũng đã là bộ máy nhà nước có tổ chức:
trên có vua Hùng, dưới có Lạc hầu, Lạc tướng, và cư dân làm ruộng được gọi là Lạc


dân; có nền kinh tế trồng lúa nước; có nền văn hóa riêng của cư dân trồng trọt với lễ
hội đánh trống đồng đặc sắc, có ngôn ngữ chung trong giao tiếp giữa các tộc người
là tiếng Việt… Như vậy, từ thời kỳ Hùng Vương, trên lãnh thổ Bắc Bộ hiện nay đã
hình thành một cộng đồng quốc gia dân tộc, một khối cư dân đa tộc người có lãnh
thổ chung khá ổn định, nền kinh tế chung, văn hóa chung, ngôn ngữ chung, tổ chức
chính trị chung… Cộng đồng đó không còn ở trình độ thị tộc, bộ lạc dễ hợp, dễ tan
mà đã là quốc gia dân tộc cổ đại. Trên ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn bộ
đội: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước".
Dân tộc Việt Nam hình thành sớm là do tác động tổng hợp của những nhân tố
khách quan và chủ quan sau:
Một là, do yêu cầu của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, phát triển nông
nghiệp trồng lúa nước đã đặt ra tất yếu khách quan phải liên kết cư dân trong cộng
đồng công xã nông thôn để sớm hình thành quốc gia dân tộc. Vị trí địa lý, khí hậu
nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên đa dạng phong phú vừa thuận lợi vừa khó khăn thách
thức trong sản xuất lúa nước. Để trồng lúa nước, các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam
phải sớm "chung lưng đấu cật" hợp sức chống lụt bão, hạn hán nên rất cần có sự can
thiệp của quyền lực tập trung của chính phủ trung ương... Thực tế, sự hình thành
đồng bằng Bắc Bộ cùng với hàng ngàn kilômét đê sông, đê biển là chứng tích của
một dân tộc đa tộc người hợp sức dựng nên.
Hai là, do yêu cầu chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Các nhà khoa học
đã xác định rằng trong 20 thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã có 16 thế kỷ đánh giặc, giữ
nước, trong đó có 11 thế kỷ bị ngoại bang đô hộ. Trước vận mệnh chung, lợi ích
chung, để tồn tại, để không bị đồng hóa, các tộc người ở Việt Nam buộc phải sớm

đoàn kết để chống ngoại xâm, bảo vệ sự sống còn của từng tộc người và cả cộng
đồng dân tộc.
Ba là, do điều kiện tự nhiên và lịch sử quy định, ngay từ rất sớm, trên mảnh đất
Việt Nam đã có nhiều tộc người sinh thành, tụ cư; các tộc người cư trú xen ghép,
chung sống lâu đời, là điều kiện thuận lợi để sớm hình thành dân tộc. Chính điều
kiện tự nhiên, lịch sử đó đã làm cho hình thái kinh tế - xã hội tiền tư bản ở Việt Nam
có những nét đặc thù, thuận lợi cho việc hình thành sớm quốc gia dân tộc. Việt Nam
trải qua chế độ công xã nguyên thủy hàng vạn năm; công xã nguyên thủy phát triển
dần lên công xã nông thôn, không trải qua thời kỳ phát triển của chế độ chiếm hữu
nô lệ điển hình kiểu phương Tây. Từ chế độ công xã nguyên thủy chuyển lên chế độ
có giai cấp, nền sản xuất in đậm những dấu ấn của "phương thức sản xuất châu á".
Các quan hệ huyết thống vẫn duy trì cùng quan hệ xóm làng; quyền sở hữu ruộng
đất vẫn thuộc về công xã, trong xã hội có quý tộc, nông dân tự do; nô tì có nhưng ít,
chủ yếu ở dạng gia nô… Điều đó rất thuận lợi cho việc hình thành và phát triển
quan hệ quốc gia dân tộc.
Việt Nam không trải qua chế độ chuyên chế phong kiến điển hình kiểu phương
Tây. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Việt Nam được phong kiến hoá. Do có đặc điểm
riêng: công xã nông thôn với quyền sở hữu ruộng đất thuộc về công xã vẫn là cơ sở
xã hội phổ biến và bền vững, nên nó không mang tính lãnh địa cát cứ tự trị. Nhà
nước phong kiến tập quyền ra đời sớm và ra sức củng cố quyền lực, tổ chức chặt chẽ
từ trung ương đến địa phương làm cho các quan hệ dân tộc hình thành sớm, trước
chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, ngay từ thời Hùng Vương dựng nước đến ngày nay, trên lãnh thổ Việt
Nam đã có nhiều tộc người sinh sống. Do yêu cầu chinh phục thiên nhiên, phát triển


nông nghiệp lúa nước và chống ngoại xâm, các thành phần dân tộc trên đất nước ta đã
cố kết, chung sức chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước. Trải qua quá trình lâu dài
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, giàu lòng

nhân ái.
2. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống.
Đại gia đình dân tộc Việt Nam thống nhất hiện có 54 dân tộc anh em, dân số
giữa các dân tộc không đều nhau. ở nước ta hiện nay dân tộc Kinh (Việt) là dân tộc
đa số, chiếm hơn 86,2% dân số; các dân tộc thiểu số có gần 11 triệu người, chiếm
13,8% dân số của cả nước. Số dân của các dân tộc thiểu số cũng không đồng đều: 4
dân tộc có số dân trên 1 triệu người là Tày, Thái, Khmer, Mường; 4 dân tộc có số
dân từ 60 vạn đến dưới một triệu như Hoa, Nùng, Dao, Mông; 9 dân tộc có số dân từ
10 vạn đến dưới 60 vạn người là Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Xơ Đăng,
Sán Dìu, Cơ Ho, Hrê; 19 dân tộc có số dân từ 10 nghìn đến 100 nghìn người; 12 dân
tộc có dân số từ 1 nghìn đến dưới 1 vạn người; 5 dân tộc có dân số từ 301 đến 840
người là các dân tộc Ơ Đu, Rơ Măm, Brâu, Pu Péo, Si La.
Những năm gần đây, nhờ có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối
với một số dân tộc có số dân quá ít, nên dân số của các dân tộc này đã tăng lên. Tuy
số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc luôn luôn coi nhau như anh em
một nhà, quý trọng thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình hình thành và
phát triển lâu dài trong lịch sử. Trong 54 dân tộc anh em, có những dân tộc vốn sinh
ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thưở ban đầu; có những dân tộc di cư
từ nơi khác đến vào các thời điểm khác nhau kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Hướng di cư, tụ cư đến từ cả bốn hướng: từ Bắc xuống, từ
Nam lên, từ Tây sang, Đông vào.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các dân tộc
còn lại là dân tộc thiểu số. Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta,
có trình độ phát triển cao hơn, đóng vai trò chủ lực, đi đầu trong quá trình đoàn kết
đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, quá trình hình thành và phát triển cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Các dân tộc thiểu số nước ta luôn gắn bó với dân tộc đa số
và gắn bó với nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trước yêu
cầu phát triển mới của đất nước, dân tộc Kinh cũng như toàn thể các dân tộc anh em

trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực
phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Truyền thống đoàn kết của các dân tộc nước ta được hun đúc qua nhiều ngàn
năm lịch sử cùng chung lưng đấu cật chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại
xâm. Do nhu cầu chinh phục thiên nhiên và chống ngoại xâm, các dân tộc đã sớm cố
kết, hòa hợp; khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố, mở rộng và
nâng cao. Với lòng yêu nước nồng nàn, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần đoàn
kết yêu nước lại càng sâu sắc. Mọi thành phần dân tộc, không phân định trẻ già, trai
gái đã có ý thức trách nhiệm cao đối với non sông đất nước, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì lợi ích dân tộc. Thực tế cho thấy, trong suốt chiều dài lịch sử, ở Việt Nam


không có mâu thuẫn đối kháng giữa các thành phần dân tộc. Trải qua nhiều biến cố
lịch sử, các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đã cố kết thành một cộng đồng quốc gia
dân tộc bền vững. Đoàn kết đã trở thành truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc
Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
nhân dân các dân tộc trên đất nước ta đã phát huy cao độ tinh thần đoàn kết chặt chẽ
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn kết là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Ba là, các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen ghép nhau.
Do điều kiện tự nhiên, lịch sử chi phối, nhiều dân tộc di cư vào Việt Nam ở các
thời điểm khác nhau tạo nên hình thái cư trú xen ghép nhau. Tuy có sự tập trung ở
một số vùng, nhưng các dân tộc thiểu số không cư trú thành những khu vực riêng
biệt mà xen ghép với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và cả các
ấp, bản, mường. Sau giải phóng miền Bắc năm 1954, và sau năm 1975, do yêu cầu
xây dựng và phát triển các vùng kinh tế, tình trạng sống đan xen giữa các dân tộc
càng trở nên phổ biến trên phạm vi cả nước.

Hiện nay, có những tỉnh miền núi, các dân tộc thiểu số vẫn chiếm số đông trong
tỉnh như Hà Giang, Cao Bằng (trên 90%), hoặc Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai,
Sơn La, Lai Châu (trên 70%). Tuy nhiên, cũng có những tỉnh tỷ lệ đồng bào các dân
tộc thiểu số so với cư dân trong tỉnh không cao như ở Kon Tum, Gia Lai (trên 50%),
thậm chí thấp hơn nữa như ở Đắc Lắc (28,6%). Dù tỷ lệ đồng bào thiểu số so với số
dân trong tỉnh có giảm đi so với một số nơi hoặc so với trước, nhưng vị trí của vấn
đề dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nước ta vẫn còn nguyên vẹn.
Tình trạng cư trú xen ghép giữa các dân tộc là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng
cường quan hệ mọi mặt giữa các dân tộc, xây dựng cộng đồng dân tộc ngày càng
gắn bó vững chắc, cùng nhau tiến bộ và phát triển, để sự hoà hợp dân tộc tăng lên,
sự cách biệt về trình độ phát triển từng bước thu hẹp lại. Tuy nhiên, nếu không có
chính sách đúng đắn đối với các tộc người thì cũng dễ dẫn đến xích mích, va chạm,
mâu thuẫn tộc người tăng lên, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động chia rẽ
dân tộc.
Bốn là, các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi,
biên giới có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Hầu hết các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở miền núi, chiếm 2/3 diện tích đất
liền của đất nước; có một số dân tộc sinh sống ở đồng bằng như dân tộc Khơ Me, ở
ven biển như dân tộc Chăm (ở cực Nam Trung Bộ), ở đô thị như dân tộc Hoa (ở
Thành phố Hồ Chí Minh). Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có tầm quan trọng
lớn về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng và đối ngoại.
Nước ta có đường biên giới trên bộ liền kề với 3 nước láng giềng là Trung
Quốc, Lào, Campuchia. Những dân tộc thiểu số cư trú dọc biên giới thường có
người đồng tộc ở bên kia biên giới. Nước ta cũng có chung đường biên giới trên
biển với Trung Quốc, Campuchia; các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều
thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Về kinh tế: Phần lớn các dân tộc thiểu số nước ta cư trú ở miền núi, nơi chiếm
2/3 diện tích lãnh thổ của cả nước. Đây là khu vực có tiềm năng to lớn về tài
nguyên rừng và đất rừng (khoảng 20 triệu ha đất, gần 19 triệu ha rừng và đất
rừng), tài nguyên khoáng sản, nguồn thủy điện, v.v... có điều kiện để phát triển

một nền kinh tế bền vững theo cơ cấu nông nghiệp kết hợp lâm nghiệp và công
nghiệp. Miền núi có vai trò quan trọng về điều hoà khí hậu, điều tiết nguồn nước,
bảo vệ đất màu trong mùa mưa lũ.


Đường biên giới trên đất liền của nước ta dài 4000km, trong đó 3000km nằm ở
khu vực miền núi. Tại đây có nhiều cửa ngõ thông thương với các nước láng
giềng. Đó là điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá giữa nước ta
với các nước láng giềng, qua đó tới các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về an ninh, quốc phòng: Miền núi, biên giới là "phên dậu" của Tổ quốc, là địa
bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống
âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hoà bình, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ bao đời nay, địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số là
lá chắn bảo vệ biên cương của Tổ quốc, là căn cứ địa cách mạng và kháng chiến.
Điều này càng nổi bật trong thời cận hiện đại. Lịch sử đã khẳng định vị trí chiến
lược quan trọng của vùng dân tộc thiểu số cư trú.
Về đối ngoại: Vùng biên giới là nơi tiếp xúc đầu tiên với các quốc gia láng giềng,
phản ánh bộ mặt của các dân tộc Việt Nam, nên có vai trò quan trọng trong đối
ngoại. Mặt khác, ở biên giới có các dân tộc thiểu số vừa cư trú ở Việt Nam, vừa cư
trú ở nước láng giềng, giữ quan hệ dòng họ, quan hệ thân tộc với nhau. Các thế lực
thù địch, phản động bên ngoài đã, đang và sẽ còn lợi dụng vấn đề dân tộc, trước hết
là ở địa bàn biên giới để thực hiện các âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam; khi
có thời cơ phát động chiến tranh xâm lược. Cho nên, việc giải quyết các quan hệ dân
tộc đó có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết quan hệ đối ngoại.
Năm là, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều
nhau.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội, điều kiện tự nhiên nơi sinh sống quy định
mà các dân tộc ở Việt Nam có sự phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều. Đó là
một thực tế khách quan. Nhiều dân tộc, trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp
kém, đời sống của đồng bào còn đói nghèo, khó khăn. Trước Cách mạng Tháng Tám

năm 1945, trong khi một số dân tộc sống chủ yếu dựa vào săn bắt, lượm hái, đánh cá
như dân tộc La Hủ, Chứt thì nhiều dân tộc đã tiến sang hoạt động kinh tế sản xuất, lấy
trồng trọt làm loại hình kinh tế chính với trình độ từ thấp lên cao như làm nương rẫy
(Khơ Mú, Bru - Vân Kiều, v.v...), làm ruộng nước (Tày, Nùng, Khơ Me, Chàm, Thái,
v.v…).
Về chế độ xã hội, cho đến giữa thế kỷ XX, còn nhiều dân tộc thiểu số ở giai đoạn
tan rã của xã hội nguyên thủy (Các dân tộc nói ngôn ngữ Nam Đảo còn bảo lưu nhiều
tàn dư của xã hội mẫu hệ, còn phần lớn các dân tộc đã chuyển sang xã hội phụ quyền,
phụ hệ, một số tộc khác đang trên bước đường chuyển từ loại đầu sang loại sau). Một
số dân tộc đã có sự phân hóa giai cấp như: Chế độ lang đạo ở người Mường, chế độ
phìa tạo ở người Thái, chế độ thổ ty của người Tày, v.v... Sự phát triển không đồng
đều giữa các dân tộc thiểu số thể hiện quy luật phát triển không đồng đều của lịch sử,
và là hậu quả của chính sách dân tộc thời phong kiến và thực dân ở nước ta.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực
hiện chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ tạo điều kiện để đồng bào
dân tộc thiểu số tiến kịp đồng bào đa số. Tuy nhiên, do phải tiến hành cuộc kháng
chiến giành độc lập tự do kéo dài và khốc liệt, đã không cho phép Nhà nước đầu tư
nhiều tiền của để nâng cao mức sống của nhân dân các dân tộc một cách cơ bản.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương và chính sách để phát
triển toàn diện kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, xóa bỏ tình trạng đói nghèo, chênh lệch


về phát triển kinh tế - xã hội giữa miền xuôi và miền núi, giữa dân tộc đa số và dân
tộc thiểu số, thực hiện bình đẳng dân tộc thực sự trên tất cả các mặt.
Qua 25 năm đổi mới, mặc dù đã thu được những thành tựu quan trọng, nhưng trình
độ phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số so với dân tộc đa số vẫn
còn nhiều chênh lệch. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006)
xác định cần phải: "Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng, làm tốt công tác định canh,

định cư và xây dựng vùng kinh tế mới"1.
Sáu là, mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ và sắc thái văn hoá riêng, góp phần tạo
nên nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc
dân tộc.
Lao động sản xuất, kiến trúc, xây dựng, văn hoá, phong tục, tập quán, lối sống của
mỗi dân tộc đều có những nét khác nhau. Hầu hết các dân tộc có ngôn ngữ riêng nhưng
đều thuộc các dòng ngôn ngữ gần gũi. Hiện nay, ở nước ta có 5 ngữ hệ với 7 nhóm
ngôn ngữ: Ngữ hệ Nam á (có nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, nhóm Môn - Khơ Me);
Ngữ hệ Tày - Thái; Ngữ hệ Mông - Dao; Ngữ hệ Nam Đảo; Ngữ hệ Hán - Tạng (có
nhóm ngôn ngữ Tạng - Mianma và nhóm ngôn ngữ Hán). Ngoài ra còn có nhóm ngôn
ngữ được gọi là Kadai, bao gồm ngôn ngữ các dân tộc La Chí, Cờ Lao, La Ha, Pu Péo.
Do điều kiện sống xen kẽ và nhu cầu giao tiếp nên ở nhiều dân tộc thường sử
dụng song ngữ hay đa ngữ. Tiếng Việt là quốc ngữ, được dùng làm phương tiện
giao tiếp của tất cả các dân tộc, là tiếng nói chính thức của Nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực đời sống, xã hội, là công cụ xây dựng ý thức dân tộc thống nhất.
Trong khi đó, tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc vẫn được tôn trọng, duy trì, giữ vai trò
quan trọng trong xây dựng và giữ gìn ý thức riêng của mỗi dân tộc.
Đặc biệt, các dân tộc đều có kho tàng văn hoá dân gian, bao gồm các làn điệu
dân ca, các điệu múa, các bản trường ca, v.v... vô cùng phong phú và có giá trị nghệ
thuật lớn. Tuy vậy, do sinh sống trong điều kiện tự nhiên khá tương đồng nên các
dân tộc ở Việt Nam đều có những giá trị văn hoá tinh thần chung, thống nhất là: tình
đoàn kết, cố kết cộng đồng, lối sống thương người như thể thương thân, phẩm chất
cần cù chịu khó, gan dạ, dũng cảm, giỏi chịu đựng, nhân nghĩa khoan dung, yêu
chuộng hoà bình, ý thức tự hào dân tộc.
Các dân tộc nước ta tuy có số dân không đồng đều lại ở các giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội khác nhau, nhiều dân tộc di cư vào Việt Nam trong những thời kỳ
lịch sử khác nhau, nhưng khi đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam đều coi Việt Nam là
Tổ quốc chung của mình, đều đổ mồ hôi và xương máu, chung lưng đấu cật để dựng
nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước và nhiệt tình cách mạng được nâng lên tầm
cao mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với sự phát triển của tộc người, các quan
hệ dân tộc cũng hình thành và phát triển trong tính đa dạng và phức tạp của nó. Đặc
điểm chủ yếu của quan hệ tộc người ở nước ta xuyên suốt chiều dài lịch sử là quan
hệ đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Các dân tộc ở nước ta, không phân biệt ở
miền núi hay miền xuôi, đa số hay thiểu số, đã gắn bó lâu dài, đồng cam cộng khổ
lao động sản xuất, chiến đấu dựng xây và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, góp phần bồi
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2006, tr. 122.


đắp nên truyền thống yêu nước, anh hùng, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, giàu lòng nhân
ái của dân tộc Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, cốt cách Việt Nam, sức sống trường tồn
và phát triển của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, kể từ khi có Đảng, có chế độ xã hội
chủ nghĩa, truyền thống và sức mạnh dân tộc ta đã được phát huy cao độ, làm cho
dân tộc ta giành được những thắng lợi kỳ diệu và chói lọi.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền
thống quý báu và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam đang là một động lực tinh
thần to lớn để phát huy nội lực dân tộc phấn đấu vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phát huy truyền
thống đại đoàn kết quý báu của dân tộc là vấn đề chiến lược của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương trợ, tương thân, tương ái của dân tộc ta
đã thấm sâu vào các tầng văn hóa, hòa vào tâm hồn, nhân cách của con người Việt
Nam. Trước những biến cố lịch sử to lớn như họa xâm lăng, thiên tai khắc nghiệt,
tinh thần yêu nước, đoàn kết đó lại càng được phát huy cao độ. Trong lịch sử dân tộc
ta, không có các cuộc chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo như nhiều quốc gia

trên thế giới. Trái lại, trước họa ngoại xâm, các tộc người không phân biệt miền
xuôi, miền ngược, đa số và thiểu số đều đoàn kết và đứng lên chiến đấu giành và giữ
độc lập dân tộc. Con người Việt Nam nhìn chung không phân biệt tộc người, tôn
giáo, địa phương đều sống hoà đồng, nhân hậu, tình nghĩa. Do các hoàn cảnh lịch sử
khác nhau, đại đa số người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài một lòng hướng về Tổ
quốc, về cội nguồn, hoà chung vào dòng chảy lớn của dân tộc, mong muốn đóng
góp xây dựng quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay cũng còn có những vấn đề
phức tạp, rất dễ bị kẻ thù lợi dụng khoét sâu, chia rẽ, phá hoại. Đó là một số vấn đề
do lịch sử để lại trong quan hệ tộc người. Sự chênh lệch trên thực tế về trình độ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa miền núi và miền xuôi, giữa các dân tộc người
thiểu số với đa số; tình trạng lạc hậu về kinh tế, xã hội, hạn chế về trình độ dân trí,
sự tồn tại của nhiều tập tục cũ trong cộng đồng các dân tộc; một số vấn đề phức tạp
mới nảy sinh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng các công, nông, lâm trường, các công trình kinh tế, nạn du canh, dư
cư, phá rừng, khai thác rừng; vấn đề di dân tự do, tranh chấp về quyền lợi giữa đồng
bào đi xây dựng kinh tế mới với đồng bào địa phương… cũng có thể gây ra những
xung đột nếu không được kịp thời phát hiện và có biện pháp giải quyết đúng đắn.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng, sa sút phẩm chất đạo đức, yếu kém năng lực
quản lý xã hội của một bộ phận cán bộ trong bộ máy chính quyền các cấp, trong hệ
thống chính trị; sự thiếu hiểu biết và hiện tượng vi phạm quyền lợi, bản sắc văn
hoá, phong tục tập quán dân tộc của một số cán bộ, nhân viên nhà nước trong quá
trình thực hiện chính sách kinh tế, xã hội và chính sách dân tộc cũng có thể gây
nên những hậu quả tiêu cực trong quan hệ dân tộc.
Các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình", triệt
để lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng nước ta. Chúng khuyến khích tư
tưởng ly khai, tiếp sức cho các phần tử xấu, nhen nhóm tổ chức phản động trong
đồng bào các dân tộc. Chúng thâm nhập biên giới, tuyên truyền xuyên tạc quan



điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta chia rẽ các tộc người,
truyền đạo trái pháp luật, mua chuộc nhân dân... hòng gây mất ổn định chính trị và
xã hội. Thực tế tình hình bạo loạn ở Tây Nguyên tháng 2 năm 2001, tháng 4 năm
2004 đã cho thấy điều đó.
Nhìn chung, quan hệ dân tộc ở nước ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản và tốt đẹp.
Có được tình hình đó là do nhân dân ta giàu truyền thống đoàn kết, yêu nước; Đảng,
Nhà nước ta có quan điểm, chính sách dân tộc đúng đắn, sáng tạo và các chính sách
đó đã đi vào cuộc sống đồng bào. Tuy nhiên, quan hệ dân tộc ở nước ta cũng có
những vấn đề phức tạp, không thể xem nhẹ. Vì vậy, cần nắm chắc tình hình dân tộc,
tìm rõ nguyên nhân nảy sinh các vấn đề dân tộc từ đó có biện pháp giải quyết hợp
lý. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc sẽ tạo nên sức mạnh
cách mạng to lớn, đó cũng là lợi ích và nguyện vọng của đồng bào các tộc người ở
nước ta.
Các đặc điểm dân tộc và quan hệ dân tộc trên đất nước Việt Nam là cơ sở quan
trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định và thực thi chính sách dân tộc đúng đắn
trong giai đoạn cách mạng mới.
4. Những vấn đề cơ bản trong chính sách dân tộc của các triều đại phong
kiến Việt Nam
Các triều đại phong kiến Việt Nam từ rất sớm đã nhận thức rõ vị trí, tầm quan
trọng của chính sách dân tộc, từng bước xây dựng và thực thi chính sách dân tộc phù
hợp với điều kiện lịch sử, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước.
Ngay từ buổi đầu dựng nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã giương cao
ngọn cờ độc lập tự chủ để tập hợp lực lượng các dân tộc vào việc chinh phục thiên
nhiên, chống thiên tai, địch họa. Hai Bà Trưng phất cờ đại nghĩa, hô một tiếng mà
cả 65 thành trì vùng dậy để trả thù nhà, đền nợ nước. Thời nhà Lý, chính sách dân
tộc thực sự được nhận thức và thực thi có hệ thống. Triều đình nhà Lý luôn coi
vùng núi, vùng dân tộc thiểu số là "phên dậu" đặc biệt quan trọng trong việc bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Việc phòng thủ biên cương luôn được coi là "trọng trấn", là
"bình phong phên chắn của trung đô". Triều đại nào cũng ban hành các chính sách,
chủ trương, biện pháp với các dân tộc thiểu số, nhằm tăng cường quản lý xây dựng

sự đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số và nhà nước tập quyền.
Nhà nước phong kiến Việt Nam đã dùng nhiều hình thức, biện pháp để thu phục
các tù trưởng, tộc trưởng vùng dân tộc thiểu số, vỗ về thu phục dân chúng. Các
chính sách đó được thực hiện nhất quán trong tất cả các vương triều, dù biện pháp
thực hiện có khác nhau. Thời Lý, chính sách dân tộc được thực hiện bằng việc ràng
buộc hôn nhân. Nhiều tù trưởng trở thành phò mã của triều đình, gắn bó và thần
phục triều đình. Từ thời Trần, chính sách ràng buộc hôn nhân được bãi bỏ, thay vào
đó là chính sách an dân, vỗ về, thu phục. Nhà Trần thường cử những quý tộc tài
năng, am hiểu các dân tộc thiểu số đi trấn trị biên cương. Đồng thời, các tù trưởng,
tộc trưởng dân tộc thiểu số vẫn được sử dụng trong việc cai trị tại các địa phương,
được ban chức tước, phẩm hàm và quyền hành lớn. Nhà nước phong kiến thực hiện
chính sách thuế khóa nhẹ với đồng bào vùng biên viễn, đồng thời có chính sách sử
dụng các tộc trưởng, tù trưởng tự trị các tộc người. Chính sách "nhu viễn" đó đã trở
thành tư tưởng nhất quán trong chính sách dân tộc của cha ông ta.


Để củng cố quyền lực, các nhà nước phong kiến Việt Nam luôn đặt sự thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ lên hàng đầu, khi cần thiết vẫn phải sử dụng sức mạnh của nhà
nước trung ương chống mọi xu hướng ly khai, cát cứ. Trong thực tế, do nhiều
nguyên nhân có lúc có nơi vẫn có một số tộc người vùng biên viễn nổi loạn chống
lại nhà nước phong kiến. Khi đó, các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng nhiều
biện pháp vừa "cương" vừa " nhu" để thu phục các tù trưởng dân tộc thiểu số, vỗ về
dân chúng. Các nhà nước phong kiến đều vừa ra uy bằng biện pháp ra quân trấn áp,
dẹp loạn, vừa "thi ân" bằng cách lôi kéo, ràng buộc, khoan dung, ban chức tước,
bổng lộc, trao quyền tự trị… Biện pháp vừa cương, vừa nhu trong ứng xử với các
dân tộc thiểu số đó đã tỏ ra hữu hiệu đối với việc giữ vững sự thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ.
Với một tư duy chính trị mềm dẻo, linh hoạt, các nhà nước phong kiến Việt Nam
luôn xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể để giải quyết vấn đề dân tộc. Trong buổi
đầu xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, do chính quyền trung ương chưa đủ

sức với xa đến miền biên viễn, ông cha ta đã thực thi chính sách "nhu viễn" một
cách hợp lí. Đặc biệt, khi đất nước bị ngoại xâm, nhà nước đề cao vai trò, tác dụng
của các tù trưởng, tộc trưởng các dân tộc thiểu số trong chống ngoại xâm. Nhiều tù
trưởng, tộc trưởng các dân tộc thiểu số có công lớn trong các cuộc chống ngoại xâm
của dân tộc. Khi chính quyền trung ương ngày càng vững mạnh, nhà nước từng
bước xác lập quyền lực của mình ở miền biên viễn, cải tổ bộ máy hành chính, thể
chế hóa bằng pháp luật các chính sách đối với các dân tộc thiểu số. Điểm nổi trội
nhất trong chính sách dân tộc của ông cha ta là sớm tìm ra các phương sách tập hợp,
đoàn kết các dân tộc để chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm, dựng nước, giữ
nước và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, do bị quy định bởi lập trường giai cấp và điều kiện lịch sử nên nhà
nước phong kiến Việt Nam vẫn duy trì tình trạng bất bình đẳng và khoảng cách phát
triển giữa các dân tộc, giữa triều đình với các địa phương vùng dân tộc thiểu số. Đoàn
kết, cố kết dân tộc tuy được nhấn mạnh, nhưng chủ yếu là để khai thác động lực, "sức
dân" khi đất nước đứng trước họa ngoại xâm, chứ chưa chú ý đúng mức ở góc độ
mục tiêu "vì dân", vì sự phát triển của đồng bào các dân tộc. Do đó, có lúc có nơi vẫn
còn sự đối nghịch nhất định giữa các dân tộc thiểu số với nhà nước trung ương.
Do bản chất của giai cấp bóc lột, các nhà nước phong kiến Việt Nam có lúc sử
dụng chính sách đồng hóa cưỡng bức các dân tộc, gây nên những mâu thuẫn giữa
các tộc người trong quốc gia Việt Nam. Đối với các quốc gia láng giềng, nhà nước
phong kiến Việt Nam thực hiện chính sách vừa nhu, vừa cương để giữ nền độc lập
và mở mang bờ cõi.
Nhận thức được những thiếu sót, hạn chế đó của nhà nước phong kiến Việt Nam
trong thực hiện chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết, góp
phần hoàn thiện và phát triển chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trong thời
kỳ mới, phát huy những thành công, khắc phục các hạn chế, thiếu sót để giải quyết
ngày càng tốt hơn chính sách đối với các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số,
đồng thời vô hiệu hóa mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề
lịch sử trong quan hệ dân tộc để chia rẽ đoàn kết dân tộc.



Việc thực hiện chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam đã để lại
những bài học bổ ích cho việc hoạch định, thực thi chính sách dân tộc của Đảng,
Nhà nước ta hiện nay. Những bài học đó là:
Phải luôn xác định việc thực hiện chính sách dân tộc là một nhiệm vụ then chốt
trong hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quốc gia. Là một quốc gia đa dân
tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn quan tâm giải quyết quan hệ dân tộc,
vấn đề dân tộc để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia. Khi giải quyết vấn đề
dân tộc, ông cha ta luôn hướng tới việc giữ vững sự thống nhất quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo toàn độc lập, chủ quyền đất nước, khẳng định sức mạnh của chính
quyền nhà nước trung ương, tranh thủ tối đa tiềm lực, sức người, sức của của đồng
bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Phải luôn chú ý đến đặc điểm của dân tộc khi giải quyết vấn đề dân tộc để có
chủ trương, biện pháp phù hợp. Một dân tộc có đặc điểm, tâm lý, tính cách, điều
kiện tự nhiên, lịch sử riêng. Để thực hiện tốt chính sách dân tộc phải quan tâm đến
những đặc điểm riêng đó. Các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã giải quyết thành
công vấn đề này.
Luôn chú trọng thể chế hóa chính sách dân tộc. Nhà nước phong kiến Việt Nam
đã sớm ban hành các văn bản pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
chính sách dân tộc, điển hình là "Bộ luật Hồng Đức", "Hội điển" và hệ thống các
chiếu, chỉ, dụ do nhà vua ban hành. Pháp luật phong kiến đã góp phần quan trọng
điều chỉnh các mối quan hệ dân tộc ở nước ta trong lịch sử.
Giải quyết vấn đề dân tộc luôn đặt trong tổng thể các chính sách kinh tế - xã
hội. Vấn đề dân tộc liên quan trực tiếp đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nên
không thể thực hiện chính sách dân tộc một cách riêng lẻ mà là một bộ phận quan
trọng trong chính sách quốc gia, liên quan đến sự tồn vong của dân tộc; do đó phải
đặt trong tổng thể chính sách kinh tế, xã hội…
Luôn coi trọng đào tạo đội ngũ viên chức, chức sắc để thực hiện chính sách dân
tộc của nhà nước. Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn quan tâm tuyển chọn, sử
dụng quan lại tại chỗ, thường là tộc trưởng, tù trưởng các dân tộc thiểu số, vừa tổ

chức đào tạo quan lại người Kinh, trong đó rất coi trọng tri thức về ngôn ngữ, văn
hóa, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số. Không ít quan lại phong kiến có
sự am hiểu sâu rộng ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số, nhờ đó
đã có những ứng xử khôn ngoan, khéo léo và thu phục được các dân tộc thiểu số.
Nhiều sử sách ghi lại, trong triều đại nhà Trần, danh tướng Trần Nhật Duật hiểu biết
ngôn ngữ, văn hóa của nhiều tộc người và ông đã cảm hóa được nhiều tù trưởng, tộc
trưởng các dân tộc thiểu số, nhờ đó, chính sách dân tộc của nhà Trần được thực thi
có hiệu quả.
Coi trọng việc thực hiện chính sách ràng buộc, thần phục các tù trưởng và các
dân tộc thiểu số vì quyền lợi tối cao của quốc gia. Nhận thức rõ vai trò của các tộc
trưởng, tù trưởng của các dân tộc thiểu số, các triều đại phong kiến Việt Nam đã bằng
nhiều biện pháp phong thưởng, ban chức tước, trao một số quyền cai quản tại địa
phương cho các tù trưởng, tộc trưởng; ban hành chính sách kinh tế - xã hội vỗ về dân
chúng nhằm cố kết các dân tộc trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước.


Khi cần thiết cũng phải sử dụng các biện pháp cứng rắn để ngăn chặn tư tưởng
ly khai nhằm giữ gìn sự thống nhất quốc gia. Thống nhất quốc gia là quy luật tồn tại
và phát triển của dân tộc ta. Mọi hành động gây chia rẽ, tác hại đến sự thống nhất
đất nước đều trái quy luật. Cho nên, khi cần thiết, ông cha ta vẫn dùng sức mạnh để
đè bẹp mọi tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc làm phương hại đến sự tồn vong quốc
gia dân tộc.
Đây là những bài học bổ ích cho chúng ta hiện nay.


Chương III
CHủ NGHĩA MáC - LÊNIN,
TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH Về DÂN TộC
Và GIảI QUYếT VấN Đề DÂN TộC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân

tộc.
C. Mác và Ph. Ăngghen tuy chưa trình bày tập trung, hệ thống về dân tộc và vấn
đề dân tộc nhưng những tư tưởng của các ông có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc. Các ông khẳng định, quan hệ dân
tộc là quan hệ xã hội phức tạp. Trong xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc phải có
quan điểm lịch sử, cụ thể, trên cơ sở nắm vững bản chất, những nguyên lý phổ biến
của nó.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, trong lịch sử cũng đã có "dân tộc cổ đại",
"dân tộc nông nghiệp", "dân tộc phong kiến". Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, sự xuất
hiện dân tộc tư sản là một tất yếu khách quan. Theo hai ông, dân tộc là sản vật và
hình thức tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển xã hội. Trong
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C. Mác, Ph. Ăngghen khẳng định, trong quá
trình phát triển của mình, các quốc gia dân tộc tư sản sẽ đạp đổ các quan hệ phong
kiến, gia trưởng, xóa bỏ các biên giới quốc gia, lôi cuốn các dân tộc dã man đi theo
hình mẫu của nó. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử loài người, các ông dự
báo, dân tộc tư sản cũng chỉ là một giai đoạn phát triển của dân tộc; theo tiến trình
lịch sử, dân tộc tư sản sẽ bị dân tộc cộng sản chủ nghĩa thay thế.
Đứng trên lập trường duy vật, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định, vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp quan hệ chặt chẽ với nhau; vấn đề dân tộc là một bộ phận của
vấn đề giai cấp của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản; vấn đề
lợi ích của việc giải phóng nhân loại gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân toàn
thế giới. Các ông lên án sự nô dịch áp bức dân tộc: "Một dân tộc mà đi áp bức
những dân tộc khác thì dân tộc ấy không thể có tự do"; coi áp bức giai cấp là nguồn
gốc đẻ ra áp bức dân tộc, áp bức dân tộc nuôi dưỡng, củng cố áp bức giai cấp. Theo
đó, vấn đề dân tộc chỉ được giải quyết triệt để khi xoá bỏ được nạn người bóc lột
người, cả ở phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế. C. Mác và Ph. Ăngghen viết:
"Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người, thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân
tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ"1.
C. Mác và Ph. Ăngghen ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đòi
thành lập chế độ tự trị hay tách ra thành lập nhà nước độc lập. Trong thư gửi Ph.

Ăngghen ngày 2 tháng 11 năm 1867, C. Mác đã chỉ rõ: "Trước kia tôi cho rằng
Airơlen không thể tách khỏi nước Anh được. Bây giờ tôi coi điều đó là không tránh
khỏi,
mặc

1

. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 624.


sau khi tách ra thì tình hình sẽ đi đến thành lập liên bang" 1. Trong thư gửi Ph.
Ăngghen đề ngày 30 tháng 11 năm 1867, C. Mác còn viết rõ thêm: "Người Airơlen
thì cần những điều sau đây:
- Chế độ tự quản và sự độc lập đối với nước Anh.
- Cách mạng ruộng đất"2.
Để thực hiện thắng lợi triệt để sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
không chỉ giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột mà
phải đồng thời giải phóng các dân tộc và toàn nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột.
Đây là sự nghiệp của toàn thể giai cấp công nhân thế giới, không chỉ là sự nghiệp
của riêng rẽ từng dân tộc, từng bộ phận công nhân của từng dân
tộc. Do đó, thế giới quan của giai cấp công nhân phải là chủ nghĩa quốc tế; sự
nghiệp
của
giai
cấp
công
nhân
có tính quốc tế. Khẩu hiệu cách mạng của giai cấp công nhân là: "Vô sản tất cả các
nước
đoàn

kết
lại!".
C.
Mác,
Ph. Ăngghen yêu cầu giai cấp vô sản phải "tự tổ chức trong khuôn khổ dân tộc" "có
tính dân tộc", không thờ ơ với vấn đề dân tộc, mà phải đấu tranh giành lấy chính
quyền, phải tự "vươn lên địa vị một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân
tộc", tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu nhà nước tư sản, xây dựng nhà
nước vô sản, tiến tới xóa bỏ sự đối kháng giai cấp. Các ông viết: "Khi mà sự đối
kháng giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc
cũng đồng thời mất theo"1. Không gian đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản
trước hết là ở quốc gia dân tộc, sau đó là ở phạm vi toàn thế giới. Các ông cũng đã
phê phán chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sôvanh, tự ti, hẹp hòi...
Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen nhận định,
cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi đồng loạt ở một số nước, nên
các ông kêu gọi sự đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc. Trong điều kiện lịch
sử mới, kế thừa và phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân
tộc, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách
mạng Nga, V.I. Lênin đã phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác, trong đó có vấn đề
dân tộc. Người đã đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như: Quan niệm dân tộc;
điều kiện tiêu vong dân tộc; sự khác nhau giữa các dân tộc; sự hợp nhất giữa các
dân tộc; đồng hoá dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản; dân tộc - giai cấp; phân chia các
dân tộc áp bức và bị áp bức; quá trình hình thành dân tộc tư sản; lập trường,
nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc của giai cấp vô sản; vấn đề dân tộc và thuộc
địa; dân tộc xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa xã hội và các dân tộc; chủ nghĩa dân tộc
tiểu tư sản; chủ nghĩa dân tộc tư sản; tàn tích chủ nghĩa dân tộc tư sản và đấu tranh
chống tàn tích đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…
V.I. Lênin chỉ ra hai xu hướng phổ biến của quá trình hình thành và phát triển dân
tộc dưới chủ nghĩa tư bản. Người viết: "Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản, có hai xu hướng lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là: sự thức

tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi
ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai: việc phát
triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng
1

, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 31, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 533, 569.

1

. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 624.


rào ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư sản, của đời
sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học, v.v... Cả hai xu hướng đó là quy
luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản"1. Theo V.I. Lênin, đối với chủ nghĩa đế quốc, hai
xu hướng này là mâu thuẫn không thể điều hoà được, vì nó bóc lột thuộc địa và
dùng bạo lực duy trì thuộc địa, làm cho các dân tộc thuộc địa xích lại gần nhau; còn
đối với chủ nghĩa xã hội, đây chỉ là hai mặt của một vấn đề: giải phóng dân tộc bị áp
bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, rồi thống nhất tự nguyện các quốc gia
độc lập.
V.I. Lênin cũng đề cập đến vấn đề văn hóa dân tộc, phát hiện ra hai thứ văn hóa
trong mỗi nền văn hóa dân tộc. Người viết: "Mỗi nền văn hóa dân tộc đều có
những thành phần, thậm chí không phát triển, của một nền văn hóa dân chủ và xã
hội chủ nghĩa, vì trong mỗi dân tộc đều có quần chúng lao động và bị bóc lột mà
điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và
xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong mỗi dân tộc cũng có một nền văn hóa tư sản... dưới
hình thức thống trị"1. V.I. Lênin chỉ rõ lập trường khác nhau giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản đối với vấn đề dân tộc: "Chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, đó là hai khẩu hiệu đối lập không thể điều hòa được, thích ứng với
hai phe giai cấp lớn lao trong toàn thế giới tư bản chủ nghĩa và biểu thị hai chính

sách (hơn thế nữa: hai thế giới quan) trong vấn đề dân tộc" 2.
V.I. Lênin xác định các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc của
Đảng Bônsêvích Nga và cũng là của các đảng cộng sản, được thể hiện trong tác
phẩm "Về quyền dân tộc tự quyết" với nội dung cơ bản là: Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân các dân tộc.
Nguyên tắc các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Bình đẳng là quyền thiêng liêng của
các dân tộc. Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, đông người hay ít người, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một
dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và áp bức bóc lột dân tộc khác. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản nhất; phải tạo điều kiện để các
dân tộc lạc hậu nỗ lực phấn đấu và với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em để phát
triển nhanh trên con đường tiến bộ văn minh. Theo Lênin, các dân tộc đa số tạm chấp
nhận bất bình đẳng để tương trợ, giúp đỡ các dân tộc thiểu số góp phần thực hiện bình
đẳng dân tộc trong tương lai.
Để thực hiện bình đẳng dân tộc, phải tích cực đấu tranh với mọi hành vi phân
biệt dân tộc, chủng tộc và chống sự áp bức của các nước tư bản đối với các nước
chậm phát triển, xoá bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác. Xét đến
cùng, con đường cơ bản để thực hiện bình đẳng dân tộc là phải thủ tiêu sự áp bức
bóc lột giai cấp, kết hợp sự phát triển tự thân của mỗi dân tộc với sự giúp đỡ có hiệu
quả của các dân tộc khác để mỗi dân tộc phát triển bền vững đi lên con đường văn
minh, tiến bộ, có cuộc sống phồn vinh, ấm no, tự do, hạnh phúc.
Nguyên tắc các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền
làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, là quyền tự quyết định,
lựa chọn chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình mà
1

. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 157-158.


1

, 2. Lênin, Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 154, 158.


không một dân tộc nào khác có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi dân
tộc.
Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự quyết định tách ra thành lập một quốc
gia dân tộc độc lập vì lợi ích của dân tộc, là quyền tự tách ra khỏi sự phụ thuộc vào
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc để trở thành quốc gia dân tộc có chủ quyền và
quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để
có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền
và có thêm điều kiện thuận lợi cho phát triển quốc gia dân tộc. Dưới chủ nghĩa tư
bản, nhất là trong giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản, quyền dân tộc tự quyết là yêu
cầu bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc, dân chủ hoá đất nước. Cho nên,
quyền tự quyết của các dân tộc có khuynh hướng chống phong kiến. Sau khi cách
mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, quyền dân tộc tự quyết là một nội dung quan trọng
của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, yêu cầu giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, nó có khuynh hướng chống chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ
này, nội dung giai cấp - xã hội của quyền dân tộc tự quyết không chỉ biểu hiện ở
cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc từ bên ngoài, mà còn đấu tranh chống các giai
cấp bóc lột thù địch trong nước - những kẻ đã không còn là đại diện cho lợi ích phát
triển của dân tộc. Do đó, khi xem xét và giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc,
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo lợi ích dân tộc và
lợi ích của giai cấp công nhân; triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên
quyết đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết"
để can thiệp vào công việc nội bộ của các dân tộc. Tôn trọng quyền tự quyết của
mỗi dân tộc còn có nghĩa là kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng cái
gọi là "quyền tự quyết dân tộc" để kích động ly khai chia rẽ dân tộc, chống phá sự

nghiệp cách mạng của các dân tộc.
Hiện nay, trong quan hệ quốc tế, các quốc gia dân tộc phải tuân thủ nguyên tắc
dân tộc tự quyết. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế hiện đại, theo đó
các chủ thể luật pháp quốc tế thừa nhận và tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc
và nhân dân các nước. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là: Các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc có quyền đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập, có
quyền nhận mọi sự ủng hộ, giúp đỡ, kể cả giúp đỡ quân sự để tiến hành đấu tranh
giải phóng. Mỗi dân tộc và nhân dân mỗi nước có quyền thành lập quốc gia dân tộc
độc lập, bao gồm cả quyền sáp nhập hoặc phân tách quốc gia hay lãnh thổ, không có
sự can thiệp từ bên ngoài; có toàn quyền tự do quyết định chế độ, tương lai chính trị
và con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá của mình, tự quyết định các vấn
đề nội bộ không có sự can thiệp của nước ngoài; có chủ quyền đối với tài nguyên
thiên nhiên của mình. Tôn trọng bình đẳng dân tộc không phân biệt đối xử; các nước
không được dùng áp lực để tước bỏ quyền tự quyết, tự do và độc lập của dân tộc và
nhân dân nước khác; không được thống trị, áp bức và bóc lột dân tộc, kể cả các hình
thức lệ thuộc và không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị nào đối với dân tộc và
nhân dân nước khác.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc,
Tuyên bố của Liên hợp quốc về trao trả độc lập năm 1960, Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người năm 1948, Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc của luật
pháp quốc tế ngày 24 tháng 10 năm 1970, Hiệp định Pari về Việt Nam năm 1973,
v.v... Qua đấu tranh giành độc lập, nhân dân Việt Nam đã đưa nội dung độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ vào nguyên tắc tôn trọng các quyền dân tộc cơ
bản của các dân tộc và nhân dân các nước của luật pháp quốc tế hiện đại. Nội dung


này đã được ghi nhận trong nhiều nghị quyết của Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế từ
1967 đến 1970 và trong Hiệp định Pari về Việt Nam năm 1973.
Nguyên tắc liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Liên hiệp công nhân tất cả
các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của Lênin, phản ánh bản

chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp công nhân, là điều kiện tăng thêm sức mạnh
để các phong trào đó giành thắng lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội
dung quy định mục tiêu, đường lối, phương pháp xem xét, cách thức giải quyết nội
dung quyền bình đẳng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết. Chỉ có đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân mới xem xét và giải quyết đúng, có hiệu quả trong
thực tế các quyền bình đẳng và quyền dân tộc tự quyết. Liên hiệp công nhân tất cả
các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các
dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ
xã hội; là sức mạnh để phong trào dân tộc và giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
Các nguyên tắc bình đẳng dân tộc, quyền tự quyết dân tộc, liên hiệp công nhân
các dân tộc vừa có tính độc lập tương đối vừa quan hệ chặt chẽ, thống nhất với
nhau, trong đó, bình đẳng dân tộc là mục tiêu, là cơ sở cho quyền tự quyết dân tộc,
liên
hiệp
đoàn
kết
giai
cấp
công
nhân
tất cả các dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc là điều kiện, phương tiện thuận lợi cho
bình đẳng dân tộc, đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các dân tộc. Liên hiệp đoàn
kết giai cấp công nhân tất cả các dân tộc thể hiện lập trường, bản chất giai cấp công
nhân, tạo sức mạnh để thực hiện sự đoàn kết toàn thể dân tộc quốc gia và thực hiện
đầy đủ hơn quyền tự quyết dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân.
Đối với vấn đề dân tộc thuộc địa, V.I. Lênin có nhiều cống hiến to lớn về mặt lý
luận và thực tiễn. Lênin đã phát triển vấn đề dân tộc của Mác lên thành vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Theo V.I. Lênin, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc là chia thế giới thành

một số lớn dân tộc bị áp bức và một số rất ít các dân tộc đi áp bức, là những dân tộc
có tài sản lớn, lực lượng quân sự hùng mạnh 1. Lênin chứng minh rằng, trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, do khát khao thị trường, nguyên liệu, nguồn nhân lực để tối
đa hóa lợi nhuận, chủ nghĩa đế quốc luôn tìm cách mở rộng không gian, phạm vi áp
bức, bóc lột ra các dân tộc chậm phát triển, biến các dân tộc này thành thuộc địa, nửa
thuộc địa của chúng. Đây là vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa đế quốc. V.I. Lênin
khẳng định: "Bất cứ nước nào có một nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển
mạnh đều tiến rất nhanh đến chỗ phải đi tìm thuộc địa"2. Chính sự áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc gây thảm họa khủng khiếp với các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc
địa, đẩy các dân tộc này vào tình cảnh nghèo nàn, lạc hậu, phụ thuộc.
V.I. Lênin cũng chỉ rõ vấn đề có tính quy luật rằng, có áp bức dân tộc tất yếu có
đấu tranh dân tộc. Người dự báo, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc chống đế
quốc trên quy mô toàn cầu tất yếu xảy ra. Đây sẽ là một phong trào cách mạng to
lớn và là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người viết: "Ngày mai đây
của lịch sử toàn thế giới sẽ chính là ngày mà các dân tộc bị bọn đế quốc áp bức
được thức tỉnh, sẽ dứt khoát vùng dậy, và bắt đầu cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài
và gian khổ, để tự giải phóng mình" 3. Để phát triển lực lượng cách mạng, Người
yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ, thống nhất phong trào cách mạng vô sản ở các nước
1

1. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 444.

2

2. V. I. Lênin, Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 479.

3

3. V. I. Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 414.



tư bản phát triển với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các dân tộc thuộc
địa, phụ thuộc.
Trên cơ sở xác định khả năng giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa có
thể nổ ra và giành thắng lợi ở một số nước, thậm chí một nước ở khâu yếu nhất
trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã xác định điều kiện "cần" và "đủ"
để các nước thuộc địa thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều kiện "cần" là hình thái kinh
tế - xã hội được bỏ qua đã lỗi thời, hình thái kinh tế - xã hội cần xây dựng đã xuất
hiện; điều kiện "đủ" là Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân đã sẵn
sàng, Nhà nước dân chủ nhân dân đã sẵn sàng chuyển lên thực hiện nhiệm vụ
chuyên chính vô sản, có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến...
Không chỉ nghiên cứu lý luận, V.I. Lênin đã cùng Đảng Bônsêvích Nga xác lập
và lãnh đạo nhân dân Nga giải quyết thành công trên thực tế vấn đề dân tộc trong
thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, xác lập nên mối quan hệ dân tộc mới:
các dân tộc bình đẳng, các dân tộc có quyền tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân
các dân tộc, xoá bỏ ách áp bức dân tộc. Sự ra đời của Liên bang
Xô-viết ngày 31 tháng 12 năm 1922 là kiểu mẫu của việc giải quyết vấn đề dân tộc
của Lênin.
V.I. Lênin đã cùng Đảng Bônsêvích đấu tranh không khoan nhượng với các trào
lưu tư tưởng dân tộc tiểu tư sản, dân tộc tư sản, tư tưởng sôvanh, tư tưởng dân tộc
hẹp hòi, bệnh ấu trĩ tả khuynh, cơ hội cải lương trong giải quyết vấn đề dân tộc
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của dân
tộc và vấn đề dân tộc. Dân tộc và vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài; vừa là mục tiêu
trước mắt nhằm giải quyết vấn đề lực lượng cách mạng, vừa gắn liền với cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ mọi ách áp bức giai cấp, áp bức dân
tộc, xây dựng mối quan hệ dân tộc mới bình đẳng, tự quyết, liên hiệp giai cấp công
nhân các dân tộc để thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ

nghĩa Mác - Lênin không tuyệt đối hoá vấn đề dân tộc, nhưng cũng không xem nhẹ
vấn đề này. Chỉ dưới chủ nghĩa xã hội, các dân tộc, quan hệ dân tộc mới hoàn toàn
bình đẳng, có quyền tự quyết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển trong hoà
bình.
Ngày nay, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc vẫn là mục tiêu quan
trọng, đồng thời trở thành vấn đề thời sự, mang tính toàn cầu; và nó chỉ được giải
quyết tốt, có cơ sở lý luận khoa học và cách mạng khi đứng vững trên quan điểm
chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là cơ sở lý luận
trực tiếp để Đảng, Nhà nước ta hoạch định và thực thi chính sách dân tộc. Nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
Tư tưởng về cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa
bình, thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc; các
dân tộc phải tự mình đứng lên đấu tranh để giành lấy quyền tự do độc lập ấy. Với
Hồ Chí Minh, cái mà Người cần nhất trên đời là: Tổ quốc được độc lập, đồng bào


×