Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Căn cứ vào bài viết, nói, tài liệu của hồ chí minh, anhchị trình bày và làm rõ nhận thức của mình về những tư tưởng, quan điểm của người về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tầm quan trọng của báo c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.5 KB, 15 trang )

Câu hỏi:
Căn cứ vào bài viết, nói, tài liệu của Hồ Chí Minh, Anh/Chị trình
bày và làm rõ nhận thức của mình về những tư tưởng, quan điểm của
Người về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tầm quan trọng của báo chí
trong đời sống xã hội nói chung và trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc nói riêng.
Trả lời:
Trong thời đại ngày nay, trước sự hội nhập nhiều mặt của Việt Nam
với thế giới, trước sự bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng, nền
Báo chí cách mạng nước ta đang đứng trước cơ hội phát triển vượt bậc
nhưng bên cạnh đó còn có những thách thức không nhỏ. Tuy nhiên, một
điều cần khẳng định rằng, dù có hội nhập, đổi mới, báo chí nước ta vẫn là
nền báo chí cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết khoảng 2000 bài
báo, tác phẩm với nhiều thể loại, bên cạnh đó là nhiều bài nói chuyện về
công tác báo chí, đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng,
của đời sống xã hội. Đó là cẩm nang chỉ đường cho Đảng và nhân dân ta
nói chung và nền báo chí Cách mạng nói riêng trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi báo chí là vũ khí quan trọng của mặt trận
tư tưởng. Từ khi còn bôn ba hải ngoại hay khi về nước, Người đã luôn sử
dụng báo chí là phương tiện tuyên truyền, vận động, tập hợp lực lượng
cách mạng, tổ chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu quả nhất.
Điều này có thể thấy rõ qua rất nhiều các bài báo của Người, ngay từ những
bài đầu tiên đăng trên các tờ Nhân đạo (L’humanité ), Đời sống thợ thuyền
(La vie d'ouvriers), Người cùng khổ (Le Paria) vv…
Ví dụ trong bài báo có tựa đề “Vấn đề của người bản xứ” đăng trên
tờ Nhân Đạo (L’humanité) của Đảng Cộng sản Pháp ngày 2/8/1919 Người


viết: “…Ở các tỉnh, người bản xứ bị trói tay trói chân, phải gánh chịu thói


tuỳ hứng, chuyên quyền của các quan cai trị người Pháp và thói tham tàn
của bọn làm tôi tớ ngoan ngoãn cho chúng, bọn quan lại, sản phẩm của
chế độ mới! ấy là công lý bị bán đứt cho kẻ nào mua đắt nhất, trả giá hời
nhất. Xưa kia, người bản xứ bao giờ cũng có thể kêu lên đến tận Triều đình
nhà vua; nhưng nay thì anh chàng "annamít" khốn khổ chẳng biết có thánh
nhân nào để dựa, và còn lại cho anh ta, chỉ là công lý của Chúa trời. Riêng
đối với những ai mà ngôn ngữ thực dân gọi là bọn quấy rối, thì những
phiên họp âm u, được tô điểm thành toà đại hình, bí mật quyết định số
phận của họ - những người bản xứ chính trực mà đồng bào của họ đều coi
trọng và tin yêu…”.
Còn trong tác phẩm rất nổi tiếng “Bản án chế độ Thực dân Pháp”,
Người chứng minh Thực dân Pháp “đầu độc người bản xứ” bằng cách trích
lại bức thư của Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut gửi một viên công
sứ. Bức thư này có đoạn: "Tôi (Albert Sarraut) trân trọng yêu cầu ông vui
lòng giúp đỡ những cố gắng của nha thương chính trong việc đặt thêm đại
lý bán lẻ thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông tổng giám đốc nha
thương chính Đông Dương. Để tiến hành việc đó, tôi xin gửi ông một bản
danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; phần lớn các xã
này, tới nay, vẫn hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện. Qua các tỉnh
trưởng và các xã trưởng Cao Miên, ông có thể dùng ảnh hưởng to tát của
ông để làm cho một số tiểu thương người bản xứ thấy rằng buôn thêm rượu
và thuốc phiện là rất có lợi…Chúng ta chỉ có thể đạt kết quả mỹ mãn, nếu
chúng ta hợp đồng với nhau chặt chẽ và liên tục, vì lợi ích tối cao của ngân
khố".
Chỉ qua 2 ví dụ trên có thể thấy, Nguyễn Ái Quốc đã dùng báo chí để
vạch mặt bè lũ Thực dân, cho nhân dân thế giới hiểu rõ những lời rêu rao
“khai hóa văn minh”, “bảo hộ thuộc địa” của chế độ Thực dân thực chất là


hành động tăng cường vơ vét, dẫm đạp lên nhân dân các nước thuộc địa,

bằng “những thủ đoạn bỉ ổi nhất và tội ác”.
Ngoài giá trị tố cáo tội ác, các bài báo của Hồ Chủ Tịch còn kêu gọi,
khích lệ, hiệu triệu quần chúng bị áp bức đứng lên đấu tranh. Những nội
dung này có thể thấy qua các bài viết trên báo Thanh Niên (cơ quan của tổ
chức Thanh niên Cách mạng Việt Nam, ra đời ngày 21/6/1925); Công
Nông (thành lập tháng 12/1926); Lính cách mệnh (2/1927), Tạp chí “Đỏ”
(thành lập ngày 5/8/1930, tiền thân của Tạp chí Cộng sản ngày nay); Búa
Liềm, Tranh Đấu, Tiếng nói của chúng ta, Việt Nam Độc lập vv…
Trong bài xã luận đăng trên báo Việt Nam Độc lập (do Bác sáng lập
năm 1941, khi Người về nước) Người viết: “Tây cốt làm cho ta ngu hèn.
Báo Việt Nam Độc lập “cốt làm cho dân ta biết, biết các việc, biết đoàn
kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự
do”.
Năm 1944, cũng trên báo Việt Nam Độc lập (số 185) Bác viết: “Năm
1944 quyết là năm Nga, Anh, Mỹ đánh đổ bọn phát-xít Ðức. Nếu quân Anh,
Mỹ, Tàu đánh mạnh thì Nhật sẽ nguy. Vậy năm 1944 sẽ là năm tranh đấu
quyết liệt của chúng ta. Chúng ta phải chuẩn bị hy sinh phấn đấu”.
Cũng báo này số 226 (ngày 20/8/1945) Người đăng bài “Giờ khởi nghĩa đã
đến”, trong đó viết: "Ngày giải phóng của 25 triệu đồng bào đã tới! Hỡi
hết thảy đồng bào! Hỡi những ai biết yêu nước thương nòi! Hãy mau
hưởng ứng Việt Minh dưới ngọn cờ đỏ chỉ đạo sao vàng năm cạnh, mau
đứng lên Cướp chính quyền thành lập một Chính phủ Lâm thời Nhân dân
hết sức rộng rãi trên nền tự do Tân dân chủ. Lúc này ai còn do dự là đắc
tội với quốc dân. Chúng ta phải tự quyết định sự giải phóng của chúng
ta..." vv...
Bên cạnh việc sử dụng trực tiếp viết báo, Người còn dành tâm sức
sáng lập ra các tờ báo để phục vụ công cuộc cách mạng. Dù trong bất kỳ
hoàn cảnh, giai đoạn cách mạng nào, đây cũng là công việc được Người
quan tâm. Điều này có thể thấy rõ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa



vừa ra đời, ngày 7/9/1945 Bác đã có chỉ thị thành lập Đài phát thanh quốc
gia (nay là Đài tiếng nói Việt Nam). Tiếp đó ngày 19/9/1945, Hãng tin quốc
gia (nay là Thông tấn xã Việt nam) được thành lập.
Trong công cuộc kháng chiến chống Thực dân – Đế quốc sau này, dù
vô cùng bận rộn nhưng Bác vẫn thường xuyên viết báo. Tháng 2/1951, báo
“Sự thật” ngừng xuất bản, Bác đã chỉ đạo thành lập báo Nhân Dân - cơ
quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam. Nếu tính từ số 1 của báo
Nhân dân đến số 5.526, ngày 1/6/1969, Bác đã viết cho báo này 1.205 bài,
với 23 bút danh và nhiều thể loại khác nhau.
Như vậy có thể thấy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ý thức rất rõ vai trò của báo chí đối với
công cuộc cách mạng và đời sống xã hội. Từ chỗ đánh giá đúng vai trò của
báo chí, qua các bài viết, bài nói chuyện và hành động cụ thể, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã để lại cho hậu thế một hệ thống tư tưởng, quan điểm về nền
báo chí cách mạng Việt Nam.
Quan điểm nhất quán của Bác khi đề cập đến báo chí cách mạng là
phải xác định được mục đích, tôn chỉ và nhiệm vụ. Trong thư gửi lớp báo
chí Huỳnh Thúc Kháng (năm 1949) tại Đại Từ - Thái Nguyên, Người viết:
“Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ
chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung”. Nói cách khác,
theo Bác, nhiệm vụ của báo chí chính là tác động vào nhận thức xã hội
nhằm thay đổi nhận thức theo hướng tích cực để đưa quần chúng vào hoạt
động thực tiễn cách mạng.
Cũng trong bức thư trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết: “Đối
tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng. Một tờ báo không được đại đa số
dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là một tờ báo…”.
Tháng 4/1959, tại Đại hội lần thứ II của Hội nhà báo Việt Nam, Người lại
nhấn mạnh ý kiến này. Người nói: “Báo chí ta không phải để cho một số ít



người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyền truyền đường lối chính sách
của Đảng và Chính phủ”.
Ở đây, “thông điệp” mà Người chuyển đến cho các nhà báo, những
người làm công tác báo chí rất rõ ràng, nền báo chí của ta là để phục vụ
nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng. Phục vụ nhân dân, không chỉ là
một yêu cầu, một nhiệm vụ với nền báo chí cách mạng Việt Nam, mà còn
là lý do của sự tồn tại của nền báo chí cách mạng.
Cũng tại Đại hội Hội Nhà báo trên, Người phân tích rất kỹ: Có người
nói ở các nước tư bản có tự do báo chí và báo chí không có giai cấp. Nói
vậy đúng không. Ví dụ: Các báo Pháp như báo Figaro, báo Nước Pháp
buổi chiều... một mặt nó ru ngủ nhân dân, chia rẽ nhân dân, làm cho nhân
dân mất chí khí phấn đấu, mất tinh thần đoàn kết giai cấp. Mặt khác, nó
phục vụ giai cấp tư bản. Đó là những tờ báo chính trị. Lại còn những tờ
báo “giật gân”, báo nói về ái tình, báo chuyên về lôi chuyện bí mật của
những người có tiền ra để tống tiền... Tất cả báo chí ấy đều phục vụ lợi ích
cho giai cấp bóc lột. Báo chí Pháp có thật tự do không? Không! Ví dụ
báo Nhân đạo thường bị bọn thống trị tìm mọi cách để phá: nào phạt tiền,
nào cho bọn du côn phá phách, nào làm khó khăn về giấy in, nhiều khi báo
bị tịch thu...Báo chí của ta phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ Chủ
nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho
hòa bình thế giới. Chính vì thế cho nên tất cả những người làm báo (người
viết, người in, người sửa bài, người phát hành, vv.) phải có lập trường
chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì
những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có
đường lối chính trị đúng. Báo chí của ta không phải để cho một số ít người
xem, mà để phục vụ cho nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần
chúng và tinh thần chiến đấu.
Dù đã hơn 50 năm kể từ bài nói chuyện này, nhưng những lời của

Bác vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, không ít các tờ báo chạy theo khuynh


hướng “lá cải”, thông tin mà họ chú tâm khai thác là mặt trái của xã hội,
những vụ cướp của, giết người, tình ái, những vụ án trái luân thường đạo
lý...Đành rằng một trong những nhiệm vụ của báo chí là phản biện xã hội,
đấu tranh chống tiêu cực, chống những điều chưa tốt tồn tại trong xã hội.
Tuy nhiên khi thông tin đó được khai thác một cách quá nhiều, quá kỹ
lưỡng, thiếu đi tính định hướng, xây dựng thì khi đó nó chỉ nhằm một mục
đích là câu khách, đáp ứng cho sự hiếu kỳ của một bộ phận nhỏ công chúng
ưa thích sự giật gân mà thôi. Thật khó có thể hình dung, có những tờ báo
chính thống, là “tiếng nói” của các cơ quan mà mới nghe tên có vẻ rất đàng
hoàng, bề thế nhưng lại có các bài viết mô tả chi tiết về các sự kiện chẳng
bề thế chút nào, ví dụ “Con của ngôi sao Hồ Ngọc Hà và Cường đô la hở
quần chip” (trong khi cháu bé này mới chỉ hơn 1 tuổi), “Người đẹp Trang
Nhung lộ ngực”, “Siêu mẫu Ngọc Quyên nude toàn phần” vv...Việc khai
thác thông tin theo chiều hướng hở, cướp, hiếp, giết, tuy chưa đại trà,
nhưng cũng là một hiện tượng đáng báo động trong đời sống báo chí hiện
nay. Những người định hướng nội dung của tờ báo đi theo chiều hướng đó
đã xa rời quan điểm của nền báo chí cách mạng: Viết cho số đông và để
phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân.
Vì nền báo chí cách mạng là để phụng sự nhân dân nên Bác căn dặn:
"Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn
trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều
người nghe. Ta đừng bắt chước những nước tuyên truyền tin chiến tranh
quá sai lạc sự thực" (trích lời căn dặn của Bác với cán bộ Tuyên truyền
ngày 8/1/1946).
Tính chân thật là một yêu cầu tối thượng của báo chí, đặc biệt nền
báo chí cách mạng, đó cũng là đạo đức của người làm báo. Bác đã luôn
nhắc nhở những người làm báo: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết.

Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”.


Theo Bác, nhà báo viết phải chân thực với thực tế cuộc sống, với
những con số, những sự kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc. Bài viết
phải đem lại cho người đọc lượng thông tin cao và chính xác. Chính tính
chân thực làm nên sức thuyết phục với người đọc, người nghe. Điều này lý
giải vì sao những bài báo của Bác, từ khi Người còn là một thanh niên bôn
ba hải ngoại, chưa có tên tuổi, nhưng lại được thế giới chú ý đến thế. Sự
chân thực của hiện thực cuộc sống đã được phản ánh một cách chính xác,
sắc sảo qua ngòi bút tinh tế, nhân bản của Hồ Chủ tịch, đã là một trong các
yếu tố khiến công luận trong nước và thế giới đồng cảm, chia sẻ.
Lời dạy của Bác, hay nói đúng hơn là tư tưởng, quan điểm của Bác ở
khía cạnh này trong thời điểm hiện nay lại càng trở nên giá trị. Trước sự
phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, khi mà ngồi một chỗ
có thể liên lạc với cả thế giới, nếu cái tâm của nhà báo không sáng, cái trí
của nhà báo không tỉnh táo khiến ngòi bút vô tình hoặc cố ý bẻ cong sự thật
thì sẽ vô cùng nguy hại cho nhân dân, cho đất nước.
Xin lấy một ví dụ. Cách đây khoảng gần 10 năm, tại đất vải Lục
Ngạn (Bắc Giang) xảy ra vụ hàng loạt cháu nhỏ bỗng dưng mắc các triệu
chứng như bị ngộ độc, sau đó nhanh chóng tử vong. Ngay lập tức nhiều tờ
báo vào cuộc điều tra. Trong khi cơ quan chức năng còn đang làm các xét
nghiệm để đưa ra kết luận thì một tờ báo vội vàng đăng tải: Thủ phạm
khiến các cháu ngộ độc là quả vải. Cả nước bàng hoàng, giá vải rớt thê
thảm, từ vài chục ngàn đồng/kg xuống còn vài ngàn đồng mà không ai
mua. Tuy nhiên sau đó, Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương cùng các cơ quan
chức năng kết luận: Các cháu bé bị mắc chứng viêm não Nhật Bản, hoàn
toàn không liên quan gì đến quả vải. Vải được minh oan, nhưng giá vải
không bao giờ lấy lại thời kỳ hoàng kim của mình, khiến không biết bao
nhiêu gia đình trồng vải ở Lục Ngạn và nhiêu nơi khác điêu đứng.

Trong vụ việc này, nhà báo không hẳn không có tâm, họ đã mong
muốn đưa ra những thông tin kết luận sự việc để trấn an người dân. Tuy
nhiên do cái “trí” thiếu tỉnh táo (và một phần cũng muốn chứng tỏ mình


thạo tin) nên đã vô tình làm thay nhiệm vụ của các nhà chuyên môn, khiến
sự thật không phải là...sự thật. Qua ví dụ này càng thấm thía câu nói của
Bác: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết”.
Đưa thông tin đúng sự thật là một nhiệm vụ, bảo vệ sự thật là một
nhiệm vụ nữa của nhà báo. Tháng 9/1962, tại Đại hội lần thứ III của Hội
nhà báo Việt Nam, Bác đã nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách
mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.
Thời gian gần đây nổi lên hiện tượng, một số người (trong đó có
những người từng làm báo, viết văn) sử dụng các trang web, blog của mình
để đưa thông tin sai sự thật về các chính sách của Đảng, Nhà nước và các
sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội. Họ tự tấn phong mình là “báo chí lề
trái”, đối lập với hệ thống báo chí chính thống Việt Nam. Họ đòi viết lại
lịch sử, trong đó có lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 21, đòi ghi công
trạng của những trang “lề trái” này. Với những chứng cứ, lập luận thiếu cơ
sở, thậm chí ngụy tạo, họ tham vọng sẽ gây đổ vỡ niềm tin của xã hội vào
chế độ.
Tuy nhiên, những lập luận của số người trên đã bị nhiều tờ báo chính
thống với các cây viết tên tuổi phân tích, mổ xẻ, lật tẩy những quan điểm
“ngụy quân tử” phản dân, hại nước, giúp quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn
ý đồ của những thành phần phản cách mạng. Như vậy các nhà báo, các tờ
báo của nền Báo chí cách mạng đã làm tốt nhiệm vụ “chiến sĩ” của mình
trên mặt trận tư tưởng, xử lý hết “nhiễu”, làm trong sạch đời sống xã hội.
Điều này cũng đúng với lời căn dặn của Hồ Chủ tịch: ‘Tất cả những
người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.)
phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối

chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí
của ta phải có đường lối chính trị đúng”. “Nhiệm vụ của người làm báo là
quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng
học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp


vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của
mình” (Bài nói chuyện của Bác tại Đại hội lần thứ II, Hội Nhà báo Việt
Nam, ngày 16/4/1959).
Theo bác, báo chí không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động
tập thể, tổ chức tập thể; mà còn là vũ khí sắc bén chống lại mọi biểu hiện
phản động, tiêu cực đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của đất nước; báo
chí là công cụ đấu tranh xã hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp.
Trong bức điện gửi Hội Nhà báo Á Phi (ngày 24/4/1965), Người viết: “Đối
với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ
hịch cách mạng”.
Còn trong một lá thư khác gửi trí thức ở Nam bộ, trong đó có các nhà
báo (ngày 25/5/1947), Người viết: "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ
khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà; mà anh em văn hóa trí thức
phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng
chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc"…
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, ngoài viết chân thật thì còn
phải viết cho hay, cho sáng sủa, mạch lạc, đó cũng là một nhiệm vụ. Tại
Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần III, tháng
5/1962, Bác nói với các nhà báo, nhà văn, mỗi khi đặt bút viết, cần phải tự
hỏi: Viết như thế nào? Viết phải gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, có đầu có
đuôi, có nội dung. Viết những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của
bạn bè ta. Đồng thời để phê bình khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ,
nhân dân, bộ đội.
Theo Người, vì đối tượng của báo chí là quần chúng và mục đích là

vì nhiệm vụ cách mạng nên phải viết cho phổ thông, dễ hiểu. Nhà báo phải
có kiến thức rộng, sâu, đặc biệt là có trách nhiệm với công việc của mình,
với sản phẩm của mình. Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lớp viết báo
Huỳnh Thúc Kháng (5/1949), Người viết: “Muốn viết báo khá thì cần: 1.
Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thi không thể viết
thiết thực; 2. ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài để xem báo


nước ngoài mà học kinh nghiệm của người; 3. Khi viết xong một bài, tự
mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cho cẩn thận. Tốt hơn nữa, là
đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào
không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu; 4. Luôn luôn gắng học hỏi, luôn luôn
cầu tiến bộ...”.
Nói chuyện với các nhà báo tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt
Nam (8/9/1962), Bác góp ý với các nhà báo: Bài báo thường quá dài, “dây
cà ra dây muống”, không phù hợp với trình độ và thời giờ của quần chúng;
Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích, mà ít hoặc
không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta; Đưa tin tức hấp
tấp, nhiều khi thiếu thận trọng; Thiếu cân đối, tin nên dài thì viết ngắn, nên
ngắn lại viết dài; nên để sau thì để trước, nên trước lại để sau; Lộ bí mật;
Có khi quá lố bịch; Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá
nhiều và nhiều khi dùng không đúng.
Theo Bác, đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh đó, nhưng trái
ngược lại báo chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó. Cố nhiên, có những chữ
không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ
kinh tế, chính trị...thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra nếu dịch
ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà nói
“Việt Nam đứng một” thì không thể nghe được. Nhưng có những tiếng ta
sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước ngoài. Ví dụ: vì sao không nói “đường
to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người bắn giỏi” mà lại nói “xạ thủ”,

không nói “hát múa” mà lại nói “ca vũ”?...
Bác cho rằng tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng
ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích một cách sâu sắc về lý do phải viết
ngắn gọn trong thời điểm này là “trình độ của đại đa số đồng bào ta không
cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in
dài, thời giờ của ta, người lính đánh giặc, người dân đi làm không cho phép


xem lâu. Vì vậy nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy”. Trong đời sống
hiện đại thì quan điểm này của Bác càng đúng hơn bao giờ hết.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: "Báo chí của ta đã có một
địa vị quan trọng trong dư luận thế giới. Địch rất chú ý, bạn rất quan tâm
đến báo chí ta. Cho nên làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội
dung và cách viết". Nhận định này của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị, mặc dù các phương tiện thông tin đại chúng đã
được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, cả loại hình lẫn tần số xuất bản.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm báo là làm chính trị, vì vậy mỗi
câu chữ, mỗi bài viết, thậm chí từ những mục nhỏ đăng tải trên báo đều
phải cân nhắc, cẩn trọng. Theo Nhà báo lão thành Ngô Linh Ngọc, người
từng làm tại tờ “Việt Nam hồn” kể lại (do nhà báo Đặng Thanh Tâm ghi lại,
đăng tải trên báo Quân đội Nhân dân) , sau Cách mạng Tháng 8 thành
công, mặc dầu rất bận rộn chăm lo cho chính quyền non trẻ, Bác vẫn rất
quan tâm và trực tiếp chủ trì nhiều cuộc họp báo. Trong một cuộc họp rộng
rãi, có đông đủ các báo của Nhà nước, của tư nhân và cả của Pháp, sau khi
Bác vui vẻ hoan nghênh các báo đã kịp thời phản ánh những cố gắng ban
đầu của nhà nước ta, Người chỉ vào một bài báo, nghiêm nghị nói: "Bài Nụ
cười này chưa tốt. Sao lại đem tên các liệt sĩ yêu nước ra làm trò cười như
vậy? Viết thế là tếu!". Nhiều người vội tìm xem, thì ra là mẩu "Nụ cười"
của một báo tư nhân. Bài báo viết: "Có hai anh A và B đố nhau: Nguyễn

Thái Học bị chém ở đâu? B trả lời là ở Hà Nội, ở Thái Nguyên, rồi ở Yên
Bái, song đều bị A chê là sai và cuối cùng thì A trả lời là: Nguyễn Thái Học
bị chém ở... cổ".
Đặc biệt, người làm báo cách mạng phải phân biệt rõ bạn, thù, không
để tình cảm chi phối mà mất đi sự tỉnh táo. Vẫn theo ông Ngô Linh Ngọc
kể thì một lần khác, Bác họp riêng với các báo của Nhà nước và một số báo
tư nhân ủng hộ cách mạng, Người nói: "Một vài đồng chí vẫn chưa bỏ được


thói quen viết báo khi ở trong các nhà tù đế quốc. Bây giờ, ta về làm báo ở
Hà Thành rồi mà phê phán bọn phản động vẫn cứ dùng những câu, những
chữ như: "Lũ chó! Dư luận và lịch sử sẽ nhổ vào mặt chúng mày", thì thử
hỏi độc giả của nơi ngàn năm văn hiến nghe sao được!".
Câu chuyện sau đây của nhà báo Lê Quý (do nhà báo Đồng Mạnh
Hùng ghi lại, đăng tải trên báo Đài TNVN), nguyên Phó Tổng Biên tập Đài
TNVN, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt
Nam đáng để cho chúng ta suy ngẫm, không chỉ về cái Tâm của người làm
báo, mà còn là ý thức chính trị.
Ông Lê Quý kể trong Kháng chiến 9 năm, Đài Tiếng nói Việt Nam
và các cơ quan Trung ương sơ tán lên chiến khu Việt Bắc. Ngoài nhiệm vụ
sản xuất các chương trình phát thanh phục vụ nhân dân, Đài còn thực hiện
các chương trình phát thanh binh, địch vận phát sóng vào khu vực địch tạm
chiếm và Hà Nội. Nguồn tin tức quốc tế chủ yếu khai thác từ nguồn tin của
các hãng thông tấn nước ngoài, báo chí Pháp và đài tiếng Pháp do quân đội
Pháp phát từ Hà Nội chống phá ta. Các biên tập viên thường nghe rất kỹ
các tin tức và từ các nguồn đưa tin, bình luận theo chính kiến của ta. Vì vậy
các bài bình luận, dù phải lấy thông tin từ báo chí nước ngoài, thậm chí là
từ đài địch nhưng vẫn rất nóng hổi và đầy tính chiến đấu thể hiện được
quan điểm, cách nhìn của ta. Bác Hồ thường xuyên nghe và rất khen ngợi.
Chính sự động viên đó khiến các biên tập viên càng hăng hái viết bình luận.

Những năm đó, tại Pháp xảy ra một trận lụt lớn mà báo Pháp và các
phương tiện thông tin đại chúng gọi là trận “đại hồng thuỷ” làm chết rất
nhiều người và gây tổn hại cho kinh tế Pháp. Sự kiện xảy ra trong khi thực
dân Pháp leo thang bắn phá các khu căn cứ kháng chiến của ta tại Việt
Bắc… Chính vì vậy, khi được tin này các biên tập viên của Đài rất “mừng”.
Tổ bình luận được giao viết ngay một bài bình luận về sự kiện này. Một
cách nghĩ rất biện chứng kiểu thiển cận loé lên trong đầu: “À, nó đi đánh


mình, nhà nó bị trời làm cho thiệt hại. Thật đáng đời!”. Thế là những câu
chữ cứ tuôn trào trên trang giấy. Nộp cho Ban biên tập, ai cũng khen hay.
“Đúng rồi, viết thế cho chúng nó biết. Mang bom đạn đi đánh người khác,
thì trời có tha đâu!”.
Bài bình luận được phát trên Đài, chỉ vài tiếng sau có liên lạc trung
ương tới xin văn bản bài bình luận về cho Bác Hồ. Và cũng chỉ vài tiếng
sau đó, đồng chí liên lạc quay lại và gửi lại bài bào có bút phê bằng mực đỏ
của Bác. Bác phê: Lũ lụt gây thiệt hại nặng nề cho nhân dân Pháp, lẽ ra các
chú phải khóc chứ!? Chúng ta kháng chiến là để đấu tranh đánh đuổi thực
dân Pháp, những kẻ đi xâm lược, chứ có đánh nhau với nhân dân Pháp đâu?
Nhân dân Pháp cũng có nhiều người tốt, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân
dân ta. Vì vậy nỗi đau mất mát của nhân dân Pháp cũng là nỗi đau mất mát
của nhân dân toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam. Lẽ ra mình
phải bình luận chia sẻ với nhân dân Pháp và có thể liên hệ với cuộc xâm
lược của thực dân Pháp ở Việt Nam để nhấn mạnh nỗi đau này, chứ ai lại
cười và nói “trời phạt đại Pháp” bao giờ...
Lời dạy của Bác, không chỉ nói về là cái Tâm của người làm báo, mà
suy rộng hơn, đó còn là quan điểm, là yêu cầu, nhiệm vụ của thông tin đối
ngoại trên báo chí cách mạng. Gần đây, trước sự căng thẳng trên biển Đông
giữa ta và Trung Quốc, một số tờ báo, nhà báo đã vì quá bức xúc mà tập
trung khai thác, cho đăng tải những mặt tiêu cực trong đời sống xã hội

nước bạn (Bên cạnh đó cho đăng tải nhiều tin, bài biểu dương sức mạnh
quân sự của ta), dù khi đó đang có những chuyến thăm của lãnh đạo cấp
cao hai nước. Sự bức xúc này là có thể hiểu được và cũng rất đáng trân
trọng. Tuy nhiên ở mặt khác, các tin bài đó đã chứng tỏ sự « giận cá chém
thớt » của một số nhà báo, tờ báo, thiếu sự tỉnh táo, gây khó khăn cho quan
hệ vốn đang rất nhạy cảm giữa hai nước, dễ bị các thế lực bên ngoài lợi
dụng, xuyên tạc. Còn việc đăng các tin bài về quân sự thiếu định hướng, vô


tình đã làm lộ bí mật, một « căn bệnh » của báo chí mà Bác từng nhắc nhở
mấy chục năm về trước.
Còn một khía cạnh nữa, rất ngạc nhiên và lý thù là cách đây 70 năm,
Người đã nói đến công tác mà ngày nay chúng ta gọi là phát hành, “tiếp
thị” báo tới tay độc giả. Trên báo Việt Nam Độc lập, số 115, ra ngày
10/1/1942, Người viết: “Phải giúp báo. Báo là rất cần thiết quý báu cho
chúng ta. Vậy chúng ta phải hết sức giúp cho báo phát triển. Muốn cho
báo phát triển, mỗi đồng chí Việt Minh nhất là mỗi cán bộ Việt Minh phải:
Tìm thêm người đọc báo. Tìm thêm người mua báo. Tìm thêm người quyên
tiền mua báo. Tổ chức hội đọc báo, giảng báo... gởi tin tức cho báo.... Báo
ta phát triển, tức là đoàn thể ta phát triển, tức là sự nghiệp giải phóng
chóng thành công”. Quan điểm này của Người vô cùng đúng trong thời
điểm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay. Khi mà các tờ báo
đã không còn được bao cấp, muốn tồn tại thì mỗi cơ quan báo chí phải tự
sáng tạo, đẩy mạnh công tác phát hành báo tới độc giả. Báo chí phải cùng
lúc thực hiện hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ chính trị mà tất cả các tờ báo trong
nền báo chí cách mạng Việt Nam phải gánh vác và nhiệm vụ tồn tại, phát
triển. Muốn tồn tại, phát triển thì các tờ báo cần phải luôn đặt câu hỏi : Viết
cho ai, viết để làm gì. Nếu chỉ “dây cà ra dây muống” hay “chính trị
suông” thì khó chiếm được chỗ đứng trong lòng độc giả.
Qua hàng loạt các dẫn chứng trên cho thấy phần nào vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của nền báo chí cách mạng mà Bác Hồ đã dày công vun
đắp, xây dựng. Những quan điểm, tư tưởng của Bác Hồ đối với báo chí
vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Học tập và làm
theo Bác, những người làm báo cần ra sức nghiên cứu đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đi sát cuộc sống
của nhân dân, đồng thời không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao
đạo đức và chuyên môn, tinh thông nghề nghiệp, tận tụy phục vụ nhân


dân, góp phần tích cực trong công cuộc đổi mới, trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Đội ngũ nhà báo cần
góp phần nâng cao tính chiến đấu của báo chí cách mạng nước ta, thể
hiện trước hết trong việc tuyên truyền, động viên và cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tư tưởng này được các Đại hội Đảng trước đây đề cập và đặc biệt là
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII: "Xây dựng và từng bước thực hiện
chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát
triển thông tin đại chúng của thế giới. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận
dụng thành tựu của mạng Internet để giới thiệu công cuộc đổi mới và văn
hóa Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn
chế tác dụng tiêu cực qua mạng Internet cũng như qua các phương tiện
thông tin khác".



×