Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính tại công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông thôn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 76 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

MỞ ĐẦU
Phân tích tài chính là hoạt động quan trọng trong các doanh nghiệp, đã được
các nhà quản lý và đầu tư trên thế giới chú trọng từ rất lâu. Ngày này với sự phát
triển của kinh tế tài chính, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công
nghệ thông tin, phân tích tài chính càng được chú trọng nhiều hơn và phát huy vai
trò của nó, đồng thời có nhiều đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội
mới.
Tuy nhiên, hiện nay do chưa ý thức được tầm quan trọng của phân tích tài
chính và còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động phân tích tài chính, nhiều doanh
nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa đầu tư thích đáng cho lĩnh vực này dẫn đến hoạt động
sản xuất kinh doanh có năng suất thấp, chưa tạo được bước phát triển nhảy vọt,
đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao, hoàn thiện chất lượng phân
tích tài chính trong các doanh nghiệp, em quyết định lựa chọn đề tài “Hoàn thiện
hoạt động phân tích tài chính tại công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông
thôn 2” để nghiên cứu.

1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động phân tích tài chính
Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng phân tích tài chính tại công ty Cổ phần Xây
dựng và Phát triển Nông thôn 2 trong 6 (từ năm 2004 đến năm 2009) và so sánh với
hai công ty cùng ngành là công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông thôn 6 và
công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Kinh doanh.

2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu, hệ thống hoá những cơ sở lý luận chung của vấn đề phân tích tài
chính doanh nghiệp


- Đánh giá thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty
cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông thôn 2

SV: Vũ Mỹ Thuần

1 Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Phân tích nguyên nhân gây ra hạn chế trong hoạt động phân tích tài chính
của công ty CP XD&PTNT2
- Tìm biện pháp khắc phục và những đề xuất giúp công ty hoàn thiện hoạt
động phân tích tài chính của mình.

3. Kết cấu đề tài:
Kết cấu của đề tài gồm ba phần chính:
Chương I: Tổng quan chung về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại
công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông thôn 2
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính tại công ty
Cổ phần Xây dựng và Phát triển Nông thôn 2.

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

2


Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Doanh nghiệp có nhiều loại hình tổ chức hoạt động kinh doanh khác nhau. Ở
Việt Nam, các doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên loanh, doanh nghiệp tư
nhân.
Trong các doanh nghiệp, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh thuần tuý thì
còn tồn tại một loại hình hoạt động rất quan trọng, đó là phân tích tài chính. Hoạt
động phân tích tài chính bắt đầu được chú ý từ cuối thế kỷ XIX và được áp dụng
rộng rãi cho đến ngày nay. Vậy phân tích tài chính là gì?
Trong giáo trình tài chính doanh nghiệp của PGS.TS. Lưu Thị Hương có nêu
khái niệm phân tích tài chính như sau: “Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp
các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và
các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh

nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
đó”. Như vậy hiểu một cách đơn giản, nếu coi một doanh nghiệp như bộ máy cơ thể
con người thì hoạt động phân tích tài chính giống như việc kiểm tra sức khoẻ định
kỳ.
Phân tích tài chính có thể qua nhiều công đoạn khác nhau tuỳ từng doanh
nghiệp nhỏ hay lớn, có thể bỏ qua một số chi tiết hoặc phải phân tích thêm nhiều chỉ
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

3

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

tiêu nhưng nói chung, phân tích tài chính bao gồm 3 bước cơ bản sau: bước 1 là dựa
vào các thông tin thu thập được đưa ra nhận định về xu thế biến động của tình hình
tài chính doanh nghiệp; bước 2 là chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến xu thế đó,
đằng sau đó là những chính sách tài chính của doanh nghiệp; bước 3 là đưa ra
những tư vấn, phương hướng giải quyết, lập kế hoạch cho những năm tới.

1.2. Vai trò và mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp:
1.2.1. Vai trò phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính ngày càng tỏ ra là có ích và vô cùng cần thiết trong hoạt
động của doanh nghiệp. Khi mà xã hội càng phát triển, nền kinh tế cũng mở rộng
theo hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Với sự bùng nổ của công nghệ
thông tin, khoảng cách địa lý được thu hẹp, hoạt động của một doanh nghiệp có thể

không chỉ gói gọn trong một địa phương, một đất nước, mà còn mở rộng ra thị
trường nước ngoài, thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng trên toàn thế giới thì
việc phân tích tài chính doanh nghiệp càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của nó. Dù
bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào (kể cả loại hình đặc biệt là Ngân hàng
thương mại) hay kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề nào thì bất cứ ai quan tâm
tới nó đều phải thực hiện, tìm hiểu phân tích tài chính của doanh nghiệp đó.

1.2.2. Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
Mỗi một đối tượng quan tâm tới doanh nghiệp thì xem xét việc phân tích tài
chính ở một góc độ khác nhau, phục vụ cho những mục tiêu riêng của họ. Có nhiều
đối tượng phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng có thể chia thành ba đối tượng
lớn sau: Nhà quản trị doanh nghiệp, Nhà đầu tư và Chủ nợ.

1.2.2.1. Đối với nhà quản trị doanh nghiệp:
Người quản trị doanh nghiệp là người phải đưa ra quyết định về việc điều
hành doanh nghiệp như thế nào, phương hướng hoạt động ra sao, từ việc khai thác,
sử dụng các yếu tố đầu vào (lao động, vốn và nguyên nhiên vật liệu) đến khâu lập
kế hoạch, triển khai tiêu thụ sản phẩm dịch vụ đầu ra (quảng cáo, marketing, bán
hàng…). Họ phải quyết định xem phải quản lý từng khâu, từng bộ phận trong doanh
nghiệp, tài sản và nguồn vốn như thế nào để đảm bảo doanh nghiệp hoạt động có
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

4

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập


GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

hiệu quả đem lại lợi ích lớn nhất cho chủ doanh nghiệp. Chính vì vậy, người quản
trị là người đầu tiên quan tâm đến hoạt động phân tích tài chính để định hướng điều
hành bộ máy doanh nghiệp. Càng ngày sự cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt
đòi hỏi các nhà quản trị phải quan tâm thực sự đến phân tích tài chính để không
những tránh phá sản mà còn đưa doanh nghiệp liên tục phát triển và đứng vững trên
thị trường. Nói tóm lại mục tiêu phân tích tài chính của nhà quản trị gồm hai mục
tiêu chính: thứ nhất, lập kế hoạch tài chính cho tương lai (ngắn hoặc dài hạn); thứ
hai, kiểm soát tài chính trong doanh nghiệp.

1.2.2.2. Đối với nhà đầu tư:
Nhà đầu tư là những người chủ của doanh nghiệp, họ đóng góp vào vốn cổ
phần của doanh nghiệp. Vì vậy lợi nhuận của nhà đầu tư là cổ tức (đối với nhà đầu
tư dài hạn) hay chênh lệch giá (đối với nhà đầu tư ngắn hạn). Doanh nghiệp hoạt
động ra sao ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của nhà đầu tư. Khi phân tích tài
chính, chủ đầu tư dài hạn muốn xem doanh nghiệp làm ăn có lãi không, vì thế họ sẽ
tập trung vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Còn đối với chủ đầu tư ngắn hạn,
họ kỳ vọng nhiều vào sự biến động giá cổ phiếu, vì thế họ sẽ phải xem xét nhiều
yếu tố hơn như biến động ngành nghề, xu hướng tương lai vì có nhiều thứ tác động
đến giá cổ phiếu, họ sẽ đặc biệt quan tâm đến tính thanh khoản của cổ phiếu mà họ
đang nắm giữ trên thị trường.

1.2.2.3. Đối với chủ nợ:
Chủ nợ là những người dùng tiền của mình cho doanh nghiệp vay để hoạt
động sản xuất kinh doanh và sẽ nhận được tiền lãi dựa trên số tiền cho vay và lãi
suất mà cả chủ nợ và doanh nghiệp chấp nhận. Chủ nợ khác nhà đầu tư ở chỗ chủ
nợ sẽ được ưu tiên trả lãi vay trước rồi mới chia cổ tức cho nhà đầu tư. Vì thế vấn
đề quan tâm của chủ nợ là khả năng trả nợ gốc và lãi đúng hạn, họ sẽ quan tâm
nhiều đến tính thanh khoản của doanh nghiệp. Trên báo cáo kết quả kinh doanh, chủ

nợ sẽ để ý đến Lợi nhuận trước thuế và lãi vay còn nhà đầu tư sẽ quan tâm đến lợi
nhuận sau thuế. Những chủ nợ dài hạn ngoài khả năng thanh toán họ còn quan tâm
đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Khi quyết định có nên cho doanh nghiệp
vay hay không, ngoài phân tích các chỉ số tài chính, chủ nợ còn phải xem xét nhiều
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

5

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

yếu tố khác như mục đích vay vốn, mức độ am hiểu của người vay đối với lĩnh vực
mà họ đang vay vốn để hoạt động… Tất cả những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của doanh nghiệp.
Ngoài ba đối tượng lớn trên, phân tích tài chính còn thu hút sự quan tâm của
nhiều đối tượng khác như: cán bộ công nhân viên, cơ quan thuế, thanh tra kinh tế,…
Ví dụ: Đối với cán bộ công nhân viên, họ cần nắm rõ tình hình hoạt động của công
ty với những quan sát biểu hiện hàng ngày để đưa ra hai phương án: dự phòng
phương án xin việc mới nếu tình hình hoạt động của doanh nghiệp xấu đi hoặc đòi
hỏi những quyền lợi, thu nhập, phúc lợi xã hội, điều kiện làm việc tương xứng. Đối
với cơ quan thuế, doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước vì thế chỉ tiêu
lợi nhuận trước thuế rất quan trọng. Đối với thanh tra, họ cần kiểm tra xem các
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh có tuân thủ các quy định về tài chính của
nhà nước hay không.
Như vậy, ta có thể kết luận phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi

ro và so sánh với lợi nhuận kỳ vọng của từng đối tượng để quyết định đầu tư hay
không. Các nhà phân tích đưa ra nhưng nhận định của mình dựa trên các thông số
như khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, khả năng cân đối vốn và khả năng
sinh lợi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó họ đưa ra những dự đoán và kế hoạch cho
doanh nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều
hướng khác nhau, tuy nhiên trình tự phân tích phải tuân theo các nghiệp vụ thích
ứng với từng giai đoạn cụ thể.

1.3. Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp:
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, người phân tích phải thu thập và sử
dụng mọi nguồn thông tin, càng nhiều thông tin về doanh nghiệp càng giúp người
phân tích đưa ra được những nhận xét chính các hơn về tình hình tài chính của
doanh nghiệp đó. Có một số điều cần lưu ý khi thu thập thông tin:
- Cần thu thập cả thông tin số liệu lẫn thông tin phi tài chính. Đôi khi con số
không nói lên tất cả, có thể khi chúng ta nhận được thông tin ông chủ doanh nghiệp
vừa bị cảnh sát triệu tập sẽ giá trị hơn nhiều so với những con số mà chúng ta đang
tính toán.
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

6

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Cần thu thập cả thông tin nội bộ doanh nghiệp và thông tin bên ngoài doanh

nghiệp. Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các yếu
tố ngoại cảnh, ví dụ các thông tin chung như tình hình kinh tế trong và ngoài nước,
cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất của nhà nước…; hay các thông tin về
ngành nghề kinh doanh như vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, đặc
điểm và chu kỳ sản phẩm của ngành, thị phần, công nghệ, sức cạnh tranh… và cả
những thông tin pháp lý đối với doanh nghiệp.
- Người phân tích có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: bản
thân doanh nghiệp, đối tác của doanh nghiệp… Tuy nhiên cần lưu ý chất lượng của
những thông tin thu thập được, có nghĩa là tính chân thật của thông tin. Thông
thường một doanh nghiệp chuẩn bị 3 bản báo cáo tài chính: Một bản dùng trong nội
bộ để quản lý, một bản để lập hồ sơ vay vốn, một bản để nộp cơ quan thuế. Mỗi bản
báo cáo tài chính có mục đích khác nhau nên nội dung có thể sẽ khác nhau.
- Báo cáo tài chính được kiểm toán bao giờ cũng có giá trị hơn báo cáo tài
chính chưa được kiểm toán.
Tuy nhiên, để đánh giá cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp thì có thể
coi thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp là nguồn thông tin quan trọng nhất.
Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo tài chính. Có 3 bản
báo cáo tài chính quan trọng nhất, đó là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh
doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Ngoài ra còn có thuyết minh báo cáo tài chính
thực chất là nhận định của doanh nghiệp dựa vào ba loại báo cáo trên. Tuy không
phải là toàn bộ nhưng báo cáo tài chính là biểu hiện khá đầy đủ đặc trưng hoạt
động, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngày nay trước yêu cầu của sự phát
triển kinh tế, đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ đối với hoạt động doanh nghiệp,
các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải cung cấp báo cáo tài chính hàng quý hoặc hàng
năm cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả các đối tượng
quan tâm đều phân tích tài chính trên cơ sở các báo cáo tài chính.

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C


7

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

1.3.1. Bảng cân đối kế toán:
a/ Khái niệm:
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Vì trạng thái tài sản và nguồn
vốn của doanh nghiệp luôn biến động trong suốt kỳ hoạt động kinh doanh nên khi
nói đến bảng cân đối kế toán, cần phải nói rõ là tại thời điểm nào.
b/ Nội dung:
Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài
khoản kế toán, một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh
nghiệp. Những nội dung cơ bản trong bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp
bao gồm:
Tài sản

Số dư

Nguồn vốn

A. Tài sản ngắn hạn

A. Nợ phải trả


I. Tiền và các khoản tương

I. Nợ ngắn hạn

đương tiền

II. Nợ dài hạn

II. Các khoản phải thu ngắn

B. Nguồn vốn chủ sở hữu

hạn

I. Vốn chủ sở hữu

III. Hàng tồn kho

II. Nguồn kinh phí và quỹ khác

Số dư

IV. Tài sản ngắn hạn khác
B. Tài sản dài hạn
I. Các khoản phải thu dài hạn
II. Tài sản cố định
III. Bất động sản đầu tư
IV. Các khoản đầu tư tài
chính dài hạn
V. Tài sản dài hạn khác

Bảng 1.1: Mẫu bảng cân đối kế toán

Bên tài sản của BCĐKT phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời
điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Bên nguồn vốn
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

8

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập
báo cáo. Nói cách khác tài sản là hình ảnh của nguồn vốn, giống như ảnh phản
chiếu trong tấm gương. Vì thế tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp trong một
thời điểm nhất định luôn đảm bảo nguyên tắc cân bằng nhau.
Các khoản mục trên BCĐKT được sắp xếp theo thứ tự khả năng chuyển hoá
thành tiền (tính thanh khoản) giảm dần từ trên xuống dưới.
Các số liệu trong BCĐKT là số dư đầu kỳ và cuối kỳ của các khoản mục, đó là
các số liệu nội bảng. Ngoài các số liệu nội bảng thì còn có một số khoản mục doanh
nghiệp được phép sử dụng nhưng không phải quyền sở hữu của doanh nghiệp thì
được theo dõi ở ngoại bảng, ví dụ: Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận
giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
c/ Ý nghĩa:
Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phân tích tài chính.
Nhìn vào BCĐKT ta có thể thấy được quy mô hoạt động cũng như kết cấu của tài

sản và nguồn vốn của doanh nghiệp trong thời điểm nhất định, qua đó có thể xác
định doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào là chủ yếu. Thêm vào đó, qua các
số liệu trên bảng cân đối kế toán ta có thể tính toán ra một số chỉ tiêu quan trọng
như khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Một ngân hàng
khi xét duyệt có nên cho doanh nghiệp vay vốn không rất quan tâm đến khả năng
trả nợ của doanh nghiệp, qua BCĐKT họ có thể biết được doanh nghiệp đang dùng
những nguồn nào để tài trợ cho tài sản lưu động và tài sản cố định, doanh nghiệp có
dùng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn không vì như thế
là rất rủi ro trong khả năng thanh toán.

1.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh:
a/ Khái niệm:
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo phản ánh doanh thu, chi phí và kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định, thường là theo quý hoặc năm.
b/ Nội dung:
Nội dung của báo cáo kết quả kinh doanh được thể hiện qua bảng sau:
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

9

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Chỉ tiêu


Số liệu

Doanh thu
Các khoản giảm trừ doanh thu
Doanh thu thuần
Chi phí hoạt động chưa kể khấu hao
Khấu hao
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)
Lãi vay
Lợi nhuận trước thuế (EBT)
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế
Bảng 1.2: Mẫu bảng báo cáo kết quả kinh doanh

Các khoản giảm trừ doanh thu liên quan trực tiếp đến việc xác định doanh thu
bán hàng bao gồm: chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng
bán, giá trị hàng bán bị trả lại.
Chi phí hoạt động chưa kể khấu hao bao gồm: Chi phí nguyên nhiên vật liệu
trực tiếp, chi phí quản lý, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí bán hàng, quảng cáo,
bảo hành sản phẩm…
Các loại thuế như thuế VAT (tính theo phương pháp khấu trừ), thuế tiêu thụ
đặc biệt không phải doanh thu và cũng không phải chi phí, vì vậy không được phản
ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh, mà sẽ được phản ánh trong phần “Phải nộp
ngân sách” trong BCĐKT
Khấu hao tài sản cố định bao gồm cả khấu hao tài sản cố định hữu hình
(depreciation) và khấu hao tài sản cố định vô hình (amortization).
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp có thể dùng một phần làm lợi nhuận giữ
lại để tái sản xuất và một phần chia cho cô đông cổ phiếu thường tuỳ vào chính
sách phát triển của doanh nghiệp trong những năm tới.
c/ Ý nghĩa:

Báo cáo kết quả kinh doanh cho ta thấy một cách trực tiếp tình hình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp: Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không? Lãi hay lỗ?
Từ đó có thể dự báo khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai và thực
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

10

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

hiện kế hoạch hoá tài chính. Thông qua doanh thu và chi phí, ta có thể biết được khả
năng tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp, đánh giá tổng quát về kết quả sử dụng các
tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh.
Kết hợp với thông tin trong BCĐKT, ta có thể thấy doanh nghiệp có tiết kiệm
được thuế không, đi kèm theo đó là chính sách sử dụng đòn bẩy tài chính (sử dụng
nợ), từ đó đánh giá được rủi ro của doanh nghiệp và so sánh với lợi nhuận kỳ vọng.
Các cổ đông của doanh nghiệp sẽ còn chú ý tới một số chỉ tiêu quan trọng làm
dẫn chiếu cho việc có nên tiếp tục đầu tư vào doanh nghiệp hay không như lợi
nhuận trên cổ phiếu (EPS), lợi tức trên cổ phần (DPS), giá trị sổ sách của cổ phần
(BVPS) và dòng tiền trên cổ phần (CFPS).
Một điều cần chú ý là doanh thu và lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh
chỉ là giá trị sổ sách, còn con số thực thu của doanh nghiệp thì còn phải kết hợp xem
xét thêm cả BCĐKT và báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

1.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:

a/ Khái niệm:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo trình bày tình hình số dưa tiền mặt đầu
kỳ, tình hình các dòng tiền thu vào, chi ra và tình hình số dư tiền mặt cuối kỳ của
doanh nghiệp. Nói ngắn gọn báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo thay đổi tình hình
tiền mặt của doanh nghiệp.
b/ Nội dung:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ghi lại dòng tiền chảy vào và chảy ra khỏi doanh
nghiệp từng tháng và được tổng hợp theo quý để theo dõi. Nếu coi BCĐKT như
một bức hình chụp nhanh thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được ví như cuốn phim
quay chậm tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ được chia ra làm ba phần: Xuất quỹ là những
dòng tiền đi ra doanh nghiệp bao gồm chi phí đã trả mua nguyên vật liệu, tiền
lương, thuế… Nhập quỹ là những dòng tiền đi vào doanh nghiệp đó là các khoản
doanh thu đã thu được tiền. Cuối cùng là xử lý ngân quỹ, lấy dư tiền đầu kỳ cộng
vơí chênh lệch nhập xuất quỹ sẽ ra dư tiền cuối kỳ
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

11

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Các khoản tiền khi trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ là những khoản thực thu
và thực chi, từ đó ta tính được các khoản phải thu, phải trả, phải nộp, trả trước…
trong BCĐKT cuối quý.

Có hai phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là phương pháp trực tiếp
và phương pháp gián tiếp. Trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ có các luồng tiền từ ba
loại hoạt động chính: Hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt
động tài chính. Hai phương pháp trên chỉ khác nhau duy nhất ở cách xác định luồng
tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh (hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính lập
theo phương pháp trực tiếp)
- Theo phương pháp trực tiếp: Luồng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh
được xác định bằng cách điều chính lợi nhuận trước thuế của hoạt động sản xuất
kinh doanh ra khỏi ảnh hưởng của các khoản mục không phải bằng tiền, các thay
đổi trong kỳ của hàng tồn kho, các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh
và các khoản mà ảnh hưởng về tiền của chúng là luồng tiền từ hoạt động đầu tư.
- Theo phương pháp gián tiếp: Luồng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh
được xác định bằng cách phân tích và tổng hợp trực tiếp các khoản tiền thu vào và
chi ra theo từng nội dung thu, chi từ các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết của doanh
nghiệp.
c/ Ý nghĩa:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dùng để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo
được chi trả hay không. Như đã nói ở trên, BCLCTT cho ta thấy khoản thực thu và
thực chi của doanh nghiệp và qua đó sẽ thấy chính sách tín dụng thương mại của
doanh nghiệp như thế nào: doanh nghiệp có bị chiếm dụng vốn và đi chiếm dụng
vốn nhiều không.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, người phân tích thực
hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối
kỳ. Từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm
mục tiêu đảm bảo chi trả.
Như vậy mỗi loại báo cáo tài chính đều có một vai trò riêng. Khi xem xét thì
nên xem đồng bộ cả ba loại báo cáo, so sách các chỉ số giữa các bản báo cáo để có
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C


12

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

thể đưa ra nhận định chính xác và đầy đủ nhất, không nên tách rời ba loại báo cáo
này. Tuy có nội dung và vai trò khác nhau nhưng các thông tin số liệu trong mỗi bản
báo cáo đều có liên hệ với nhau.

1.4. Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp:
Có hai phương pháp chính được áp dụng trong phân tích tài chính doanh
nghiệp đó là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số.

1.4.1. Phương pháp so sánh:
Những con số tuyệt đối hay thông số dường như sẽ không có ý nghĩa trừ khi
chúng được so sánh với những con số hay thông số khác. Khi thực hiện phương
pháp so sánh, người phân tích thương phải so sánh cả về thời gian và không gian vì
những hoạt động kinh tế diễn ra trong cả một quá trình dài và trên diện rộng.
Khi sử dụng phương pháp so sánh phải chú ý các đối tượng phải đảm bảo so
sánh được, cụ thể là phải có cùng một nội dung kinh tế, cùng phương pháp tính, thời
gian và đơn vị đo phải thống nhất. Nếu so sánh theo thời gian thì phải cố định đối
tượng nghiên cứu, còn so sánh theo không gian thì phải so sánh các đối tượng đó
trong cùng một thời điểm.
Ưu điểm của phương pháp so sánh là đơn giản và dễ thực hiện nhưng chính vì
thế cũng dẫn tới nhược điểm là dễ dẫn tới sai lầm.
a/ So sánh theo thời gian:

So sánh theo thời gian nhằm nghiên cứu bản chất sự thay đổi về điều kiện và
hiệu suất tài chính của một doanh nghiệp. Nhà phân tích có thể so sánh thông số
hiện tại với thông số trong quá khứ và thông số kỳ vọng trong tương lai của cùng
một doanh nghiệp. Khi các thông số tài chính được tập hợp theo một số thời kỳ, nhà
phân tích có thể nghiên cứu tập hợp biến đổi và xác định xem có sự cải thiện hay
giảm sút nào không về điều kiện và hiệu quả tài chính theo thời gian cũng như các
khuynh hướng tài chính đã, đang và sẽ diễn ra. Tóm lại, con số tại một thời điểm sẽ
không thể cho chúng ta một bức tranh có ý nghĩa về hiệu suất tài chính của một
doanh nghiệp, vì thế chúng ta phải nghiên cứu thông số theo thời gian.

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

13

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Một nghiên cứu có thể là ngắn hạn (từ 2 đến 3 năm) hoặc dài hạn (trên 5 năm)
tuỳ vào số liệu mà người phân tích thu thập được và tuỳ vào mục đích nghiên cứu.
Nếu nghiên cứu trong ngắn hạn ta sẽ thấy được sự biến động của tài chính doanh
nghiệp trong những năm đó. Còn nghiên cứu dài hạn không chỉ cho thấy sự biến
động trong khoảng thời gian nghiên cứu mà còn có thể đưa cho ta một tiền đề để
xác định xu thế phát triển của doanh nghiệp.
Ta có thể tính toán được mức độ biến động của một năm so với năm gốc như
sau:

Chỉ số năm t = Chỉ tiêu năm t / Chỉ tiêu năm gốc
Sau đó có thể lập đồ thị sự biến động của các chỉ số qua các năm để nhìn nhận
một cách tổng thể nhất.
b/ So sánh theo không gian:
Phép so sánh theo không gian thường được thực hiện bằng cách so sánh các
chỉ tiêu ở từng thời điểm giữa các doanh nghiệp tương đương hay con số trung bình
ngành. Điều này có thể điều chỉnh các điều kiện và hiệu suất tài chính của công ty
theo hệ quy chiếu chung, cho phép xác định độ lệch của công ty so với bình quân
ngành. Hiện nay ở Việt Nam việc thu thập được các thông tin về bình quân ngành
còn rất hạn chế vì thời gian phát triển kinh tế của Việt Nam còn ngắn, tuy nhiên việc
này là rất cần thiết.
Các chỉ tiêu trung bình ngành có thể là những chỉ dẫn khá quan trọng để hiểu
biết về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhưng cần chú ý không nên xem các
thông số bình quân ngành như là mục tiêu hay chuẩn mực mà nên xem nó như là hệ
quy chiếu cho các phân tích. Hơn nữa, người phân tích nên tránh áp dụng kinh
nghiệm chung cho tất cả các ngành. Phân tích phải được đặt trong mối quan hệ với
loại hình kinh doanh và điều kiện của bản thân doanh nghiệp. Như vậy chỉ khi so
sánh thông số tài chính của một doanh nghiệp với doanh nghiệp tương tự thì chúng
ta mới có thể có một đánh giá tương đối hợp lý. Khi so sánh doanh nghiệp với một
doanh nghiệp khác cùng ngành, lĩnh vực, đặc biệt là so sánh với đối thủ cạnh tranh
ta có thể xác định được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

14

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Ngoài so sánh về thời gian và không gian, ta còn có thể so sánh chỉ tiêu thực tế
của doanh nghiệp với chỉ tiêu kế hoạch để xác định mức độ hoàn thành kế hoạch.

1.4.2. Phương pháp tỷ số:
Các tỷ số tài chính là một đại lượng giá trị biểu thị mối quan hệ giữa hai hay
nhiều chỉ tiêu tài chính với nhau. Phân tích tỷ số tài chính là kỹ thuật phân tích căn
bản và quan trọng bậc nhất của phân tích báo cáo tài chính. Phân tích các tỷ số tài
chính liên quan đến việc xác định và sử dụng các tỷ số tài chính để đo lường và
đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Có nhiều loại tỷ số tài
chính khác nhau, dựa vào cách thức sử dụng số liệu để xác định, tỷ số tài chính có
thể chia thành ba loại chính xác định từ bảng cân đối kế toán, tỷ số tài chính từ báo
cáo thu nhập và tỷ số tài chính từ cả hai báo cáo trên. Dựa vào mục tiêu phân tích,
các tỷ số tài chính có thể chia thành: tỷ số thanh khoản, tỷ số khả năng hoạt động, tỷ
số cân đối vốn và tỷ số khả năng sinh lợi.
Một kỹ thuật được sử dụng rất nhiều trong phân tích tài chính doanh nghiệp đó
là phương pháp Dupont (phương pháp bắc cầu). Đó là việc tách một tỷ số tài chính
thành nhiều thành phần là các tỷ số khác để xem xét các nhân tố tác động gây nên
sự biến động của tỷ số chính, có thể là biến động cùng chiều hay ngược chiều.
Một số hạn chế của phương pháp phân tích tỷ số có thể được kể đến như sau:
- Trong một số trường hợp, không áp dụng được phương pháp tỷ số. Ví dụ:
mẫu số bằng 0, không thu thập được đầy đủ số liệu hay không có tỷ số tham
chiếu…
- Tỷ số tài chính nếu sử dụng một cách độc lập thì hầu như không có ý nghĩa.
Một tỷ số tài chính muốn có ý nghĩa thì phải kết hợp với phương pháp so sánh.
- Khi sử dụng phương pháp tỷ số, người phân tích phải tuyệt đối thận trọng vì
tỷ số bản chất là một con số, nó có thể chịu sự ảnh hưởng của ý muốn chủ quan của

người phân tích.
- Tỷ số trung bình ngành đôi khi không phải là tham chiếu tốt nhất.
Trong phân tích tài chính, cần phải kết hợp cả hai phương pháp tỷ số và so
sánh để đảm bảo hiệu quả nhất. Từ hai phương pháp này có thể xây dựng được
những mô hình kinh tế.
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

15

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp:
1.5.1. Phân tích các yếu tố tài chính:
1.5.1.1. Phân tích báo cáo tài chính:
a/ Phân tích bảng cân đối kế toán:
Khi nhìn vào một BCĐKT ta có thể đưa ra được một số nhận xét tổng quan về
quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn vốn, vốn lưu động ròng.
- Quy mô tài sản và nguồn vốn: qua quy mô tài sản và nguồn vốn ta có thể biết
được quy mô hoạt động cũng như sự mở rộng kinh doanh của công ty, có thể biết đó
là một doanh nghiệp lớn hay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. So sánh BCĐKT của
doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để thấy mức độ hoạt động khác nhau giữa
hai doanh nghiệp đó. Đối với một doanh nghiệp, ta so sánh BCĐKT giữa các thời
điểm khác nhau để thấy sự phát triển của doanh nghiệp. Phân tích kỹ hơn ta sẽ tìm
hiểu được nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng hay thu hẹp của tài sản và nguồn vốn là

do đâu.
- Cơ cấu tài sản và nguồn vốn: tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp được
cấu thành bởi nhiều yếu tố. Thông qua cơ cấu tài sản và nguồn vốn, ta có thể xác
định được loại hình kinh doanh của doanh nghiệp như doanh nghiệp thương mại
hay doanh nghiệp sản xuất, sản xuất loại sản phẩm nào…Thông thường doanh
nghiệp thương mại lượng hàng tồn kho, tiền mặt sẽ nhiều hơn còn doanh nghiệp sản
xuất sẽ sử dụng nhiều tài sản cố định như máy móc thiết bị, nhà xưởng… Qua cơ
cấu nguồn vốn ta có thể xác định doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hay
nhiều nợ để thấy chính sách quản trị rủi ro, quan điểm kinh doanh của doanh nghiệp
như thế nào. Có thể kết hợp kiến thức về quản lý tài sản để đánh giá tính hợp lý và
hiệu quả sử dụng của tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho, hay kiến thức về chi phí
vốn để đánh gía mức độ tối ưu về cơ cấu vốn.
- Vốn lưu động ròng – Net working capital (NWC)
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản lưu động
(TS ngắn hạn) và tài sản cố định (TS dài hạn). Để tài trợ cho hai loại tài sản này cần
có các nguồn vốn tài trợ tương ứng là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

16

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoản thời gian
dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ

quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác. Nguồn vốn dài hạn là
nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài bao gồm vốn chủ sở hữu, nguồn vốn nợ
trung và dài hạn… Nguồn vốn dài hạn trước hết để đầu tư hình thành TSCĐ, phần
dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành TSLĐ.
Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa TSLĐ với nguồn vốn ngắn
hạn được gọi là vốn lưu động ròng (VLĐ thường xuyên)
NWC = TS ngắn hạn - Nguồn ngắn hạn = Nguồn dài hạn – TS dài hạn
Mức độ an toàn của TS ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu động
thường xuyên. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ta cần tính toán và so sánh giữa nguồn vốn với tài sản.
+ Khi nguồn vốn dài hạn < TS dài hạn hoặc TS ngắn hạn < nguồn ngắn hạn có
nghĩa là VLĐ thường xuyên < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ,
doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đáp ứng đủ
nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân
bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn
trả. Trong trường hợp như vậy, giải pháp của doanh nghiệp là tăng cường huy động
vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc cắt giảm quy mô đầu tư dài hạn.
+ Khi nguồn vốn dài hạn > TS dài hạn hoặc TS ngắn hạn > nguồn ngắn hạn,
VLĐR > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần dư thừa đó
đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ > nguồn ngắn hạn do đó khả năng thanh toán
của doanh nghiệp tốt. VLĐ thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ
đủ cho TSCĐ, TSLĐ đủ để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính
của doanh nghiệp như vậy là lành mạnh. Trên thực tế không có trường hợp VLĐR =
0 mà nó luôn giao động tuỳ vào từng thời kỳ kinh doanh.
Ngoài phân tích VLĐR, khi phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh ta cần phân tích thêm chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động
thường xuyên
Nhu cầu VLĐR = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C


17

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Nếu nhu cầu VLĐR > 0, các tài sản ngắn hạn lớn hơn vốn ngắn hạn có được
từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.
Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng HTK và giảm các khoản
phải thu.
Nếu nhu cầu VLĐR <0, nguồn ngắn hạn từ bên ngoài đã thừa, doanh nghiệp
không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu kinh doanh.
b/ Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh:
Nhìn vào báo cáo kết quả kinh doanh ta có thể so sánh được hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp so với những doanh nghiệp khác, doanh nghiệp làm ăn có
lãi không và mức độ lãi là bao nhiêu. Khi so sanh doanh thu của doanh nghiệp qua
các thời kỳ ta có thể thấy được tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp, từ đó cho thấy
những chính sách doanh nghiệp đã và đang sử dụng có hiệu quả không và tiếp tục
lên kế hoạch cho tương lai. Nếu kết quả kinh doanh đi xuống, ta có thể phân tích để
tìm hiểu nguyên nhân và quyết định xem có nên tiếp tục đầu tư không.
Về cơ cấu chi phí so với doanh thu từ hoạt động bán hàng có thể cho ta thấy
cách thức sự dụng nguồn lực sản xuất và nguồn lực quản lý từ đó cho thấy khả năng
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông thường ở một thị trường đã bão hoà,
các doanh nghiệp thường phải tìm cách cắt giảm chi phí đầu vào để gia tăng lợi
nhuận. Sử dụng các yếu tố đầu vào như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất là một bài
toán không đơn giản.

c/ Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Một nguyên tắc nên ghi nhớ là một doanh nghiệp có kết quả kinh doanh cao
không có nghĩa là doanh nghiệp đấy không thể bị phá sản. Để biết được tình hình
chi tiêu và thực thu của doanh nghiệp ta phải nhìn vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ
được tổng hợp từng tháng. Các doanh nghiệp thường không thanh toán hết hoặc
không thu hết tiền trong cùng một lúc mà sẽ được trải ra thành nhiều thời điểm, tạo
nên các khoản phải thu và phải trả. Qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta cũng có thể
xác định chính sách quản lý tiền mặt của doanh nghiệp, để tăng hoặc giảm tiền mặt
giữ trong doanh nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như mua bán

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

18

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

chứng khoán ngắn hạn, trả bớt nợ, công việc này sẽ được phân tích thông qua báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.

1.5.1.2. Phân tích các chỉ số tài chính cơ bản:
a/ Khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán là khả năng của một tài sản có thể nhanh chóng chuyển
thành tiền. Thông số khả năng thanh toán đo lường khả năng của doanh nghiệp
trong việc sử dụng các tài sản nhanh chuyển hoá thành tiền để đối phó với các nghĩa

vụ tài chính ngắn hạn.
- Khả năng thanh toán ngắn hạn:
Khả năng thanh toán ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn
Thông số này cho biết khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các
nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn. Nếu một doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính,
họ buộc phải trả nợ chậm hơn, phải vay thêm từ ngân hàng… Nếu nợ ngắn hạn tăng
nhanh hơn tài sản ngắn hạn, tỷ số khả năng thanh toán sẽ giảm và điều này có thể
đưa doanh nghiệp đến tình trạng khó khăn. Tỷ số này cung cấp một dấu hiệu đơn
giản về mức độ đảm bảo các khoản nợ ngắn hạn bằng các tài sản dự kiến có thể
được chuyển hoá nhanh thành tiền. Tuy nhiên ty số này chỉ được xem là một công
cụ đo lường thô vì nó không tính đến khả năng chuyển nhượng của từng tài sản
trong nhóm tài sản ngắn hạn. Một doanh nghiệp có tài sản ngắn hạn chủ yếu gồm
tiền mặt, phải thu khách hàng thì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng thanh toán tốt hơn
doanh nghiệp duy trì chủ yếu hàng tồn kho.
- Khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh = (TS ngắn hạn - Dự trữ) / Nợ ngắn hạn
Trong một số trường hợp, HTK không thể chuyển được thành tiền, chẳng hạn
như trong thời kỳ khủng hoảng (trừ khi phải bán với giá rất rẻ). Trường hợp này rất
hay gặp trong ngành kinh doanh thời trang hay những ngành công nghệ, những
doanh nghiệp kinh doanh trong thị trường đã bão hoà. Trong trường hợp như thế chỉ
có thể cải thiện khả năng thanh toán dựa vào những tài sản dễ chuyển thành tiền
hơn chứ không thể dựa vào các khoản dự trữ. Tỷ số thanh toán nhanh là một công
cụ hỗ trợ bổ sung cho tỷ số thanh toán ngắn hạn. Tỷ số này tập trung chủ yếu vào
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

19

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

những tài sản có tính chuyển hoá thành tiền cao hơn như tiền mặt, chứng khoán khả
nhượng, phải thu khách hàng. Vì vậy, khả năng thanh toán nhanh là một công cụ đo
lường một cách chặt chẽ hơn so với khả năng thanh toán ngắn hạn.
- Khả năng thanh toán tức thời:
Khả năng thanh toán tức thời = Tiền & các khoản tương đương tiền / Nợ đến
hạn
Các tỷ số thanh toán trên không thể cho chúng ta biết phải thu khách hàng và
hàng tồn kho thực tế có cao quá mức hay không. Có nghĩa là chúng vẫn chưa đủ để
khẳng định doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt các nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn
hay không. Không thể nhầm lẫn giữa khả năng thanh toán và khả năng trả nợ, khả
năng trả nợ phải được thể hiện bằng ngân quỹ sản sinh tại thời điểm trả nợ. Vì vậy,
cần phải nghiên cứu sâu hơn xem phải thu khách hàng có thực sự chuyển hoá thành
tiền để đáp ứng các khoản nợ hay không. Không những thế, chúng ta cần phải xem
xét đến mức độ bức bách của các khoản nợ ngắn hạn.
b/ Khả năng cân đối vốn:
- Hệ số nợ:
Hệ số nợ = Nợ / Tổng TS
Thông số trên đo lường tỷ lệ phần trăm của nợ chiếm lĩnh trong tổng nguồn
vốn. Nói cách khác, chúng biểu diễn tỷ lệ phần trăm của phần tài sản được tài trợ
bởi nợ. Hệ số nợ cao thường dẫn đến khả năng mất an toàn về mặt tài chính bởi
doanh nghiệp đã sử dụng nợ một cách thái quá song nếu theo dõi tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp có nhiều khả quan thì chính hệ số nợ cao lại làm cho ROE
tăng lên, thể hiện doanh nghiệp có chính sách sử dụng đòn bẩy tài chính đúng đắn
và hiệu quả. Nếu chỉ số này thấp thể hiện hai khía cạnh, có thể doanh nghiệp chưa
sử dụng đòn bẩy tài chính hiệu quả hoặc biểu hiện mức độ bảo vệ dành cho các chủ

nợ cao trong trường hợp doanh nghiệp phá sản hoặc phải thanh lý tài sản. Đứng trên
quan điểm rủi ro vốn là thuộc tính của nền kinh tế một tỷ lệ nợ vừa phải sẽ giúp
doanh nghiệp có thể chịu đựng được những biến động bất lợi từ môi trường kinh
doanh. Thông thường ngành thương mại có hệ số nợ cao hơn ngành sản xuất hoặc
doanh nghiệp đang trong thời kỳ kinh doanh thuận lợi thì hệ số này có thể rất cao.
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

20

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Khả năng tự chủ tài chính:
Khả năng tự chủ tài chính = VCSH / Tổng tài sản = 1- Hệ số nợ
Hệ số này thể hiện tỷ lệ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ từ vốn chủ sở
hữu. Khi nhận xét tỷ số này cần phân tích đồng thời với hệ số nợ để thấy rõ ràng
hơn chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hệ số này cao là nền tảng giúp cho
doanh nghiệp an toàn về mặt tài chính nhưng có thể làm giảm ROE (tác động ngược
chiều với hệ số nợ). Ngược lại hệ số này thấp có thể lại không thể hiện được tiềm
năng tài chính của doanh nghiệp và có thể làm mức độ ưa thích cổ phiếu của doanh
nghiệp đối với nhà đầu tư bị giảm sút.
- Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vốn = Nợ / VCSH
Tỷ số nợ trên vốn chủ cho chúng ta biết một đồng vốn chủ đang đảm bảo cho
bao nhiêu đồng vốn vay. Thông thường, các chủ nợ muốn thông số này thấp vì tỷ lệ

càng thấp thì mức độ tài trợ của cổ đông càng cao và như vậy, lớp đệm an toàn bảo
vệ các chủ nợ trong trường hợp giá trị tài sản bị giảm hay thua lỗ càng cao. Tuy
nhiên, người chủ sở hữu nhận thấy mức đòn bẩy này cao sẽ là cơ hội cho sự tăng
trưởng đột biến. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà khi tính tỷ số này, cổ phiếu ưu tiên
được đưa về nhóm vốn nợ hay vốn chủ. Theo quan điểm của người đầu tư cổ phiếu
thường, cổ phiếu ưu đãi như một cam kết ưu tiên, vì thế người đầu tư thường xem
cổ phiếm ưu đãi là một khoản nợ khi phân tích.
- Khả năng thanh toán lãi vay:
Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) / Lãi
vay
Thông số này làm một công cụ đo lường về khả năng của doanh nghiệp trong
việc đáp ứng các khoản nợ chi phí tài chính và khả năng tránh khỏi nguy cơ phá
sản. Nói cách khác, nó biểu hiện khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ bằng thu nhập
sản sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông số này lớn hơn 1 cho
biết doanh nghiệp có thể đáp ứng khoản chi trả tiền lãi và tạo ra được một lớp đệm
an toàn đối với người cho vay. Thất bại trong nghĩa vụ thanh toán tiền lãi vay có thể

SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

21

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

đưa doanh nghiệp đến những phản ứng về luật pháp của các chủ nợ và từ đó, có thể

dẫn đến phá sản.
c/ Khả năng hoạt động:
- Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay HTK = Giá vốn hàng bán / HTK bình quân
Vòng quay HTK cho biết HTK quay trong bao nhiêu vòng để chuyển thành
phải thu khách hàng thông qua hoạt động bán hàng trong năm. Thông thường, vòng
quay HTK càng cao, hoạt động quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp càng hiệu
quả và hàng tồn kho càng mới và khả nhượng. Tuy nhiên vòng quay HTK cao có
thể là dấu hiệu của việc duy trì quá ít hàng tồn kho và do đó có thể xảy ra tình trạng
cạn dự trữ. Vòng quay HTK thấp thường là dấu hiệu của việc duy trì nhiều hàng hoá
lỗi thời, quá hạn, chậm chuyển hoá. Hàng quá lạc hậu, hết hạn có thể phải đem
thanh lý, và do vậy ít nhiều làm giảm một phần HTK vốn được xem là khả nhượng.
Khi tính vòng quay HTK cần xem xét đến yếu tố doanh nghiệp có kinh doanh thời
vụ không. Nếu doanh nghiệp kinh doanh thời vụ thì vào đúng thời điểm mùa vụ,
vòng quay HTK sẽ cao còn vào thời điểm không phải đúng mùa thì vòng quay HTK
sẽ thấp, tính toán giá trị trung bình cả năm sẽ không còn mấy ý nghĩa.
- Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân = Số ngày trong năm / Vòng quay khoản phải thu
= (Khoản phải thu * Số ngày trong năm) / Doanh thu
Con số này cho biết số ngày bình quân doanh thu duy trì dưới hình thức phải
thu khách hàng cho đến khi được thu hồi và chuyển hoá thành tiền. Kỳ thu tiền bình
quân cao cho thấy doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều, điều này có thể ảnh
hưởng đến con số thực thu của doanh nghiệp và tính thanh khoản. Mặc dù kỳ thu
tiền bình quân quá cao thường không tốt nhưng kỳ thu tiền bình quân thấp cũng
không hẳn đã tốt. Kỳ thu tiền bình quân thấp là biểu hiện của một chính sách tín
dụng quá chặt chẽ. Lúc này phải thu khách hàng có thể có chất lượng cao nhưng
doanh số có thể bị giảm và lợi nhuận có thể thấp hơn mức lẽ ra phải đạt được. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp nên nới lỏng các tiêu chuẩn tín dụng. Tóm lại, phải
thu khách hàng có chất lượng tốt chỉ khi nó có thể chuyển hoá thành tiền trong một
SV: Vũ Mỹ Thuần

48C

22

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

khoảng thời gian hợp lý trong mối quan hệ với chính sách bán hàng và chính sách
quản trị phải thu khách hàng.
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = DT thuần / TSCĐ bình quân
Giá trị tài sản cố định là giá trị thuần của các loại tài sản cố định tính theo giá
trị ghi trên sổ kế toán, tức là nguyên giá của tài sản cố định khấu trừ phần hao mòn
tài sản cố định cộng dồn đến thời điểm tính toán. Tỷ số này cao phản ánh tình hình
hoạt động tốt của doanh nghiệp đã tạo ra mức doanh thu thuần cao so với tài sản cố
định. Mặt khác, tỷ số này còn phản ánh khả năng sử dụng hữu hiệu tài sản các loại
- Hiệu suất sử dụng tổng TS:
Hiệu suất sử dụng tổng TS = DT thuần / Tổng TS
Thông số này đo lường tốc độ chuyển hoá của tổng tài sản để tạo ra doanh thu.
Cũng cùng ý nghĩa như hiệu suất sử dụng TSCĐ, hiệu suất sử dụng tổng TS tính
toán trên mức độ bao quát hơn. Thông số này càng cao càng cho thấy doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả. Nếu tỷ số này thấp, có thể do DT thuần thấp hoặc tổng TS quá
cao, cần phải xem xét tỷ trọng của các loại tài sản trong tổng TS để tìm ra nguyên
nhân khiến cho hiệu suất sử dụng tổng TS thấp.
d/ Khả năng sinh lời:
Tỷ số khả năng sinh lợi bao gồm hai nhóm: một nhóm biểu diễn khả năng sinh

lợi trong mối quan hệ với doanh thu và một nhóm biểu diễn khả năng sinh lợi trong
quan hệ với vốn đầu tư. Kết hợp lại, các tỷ số này cho biết hiệu quả chung của
doanh nghiệp, nó phản ánh mức độ ổn định của thu nhập khi so sánh với số liệu
trong quá khứ và thể hiện mức độ hấp dẫn của doanh nghiệp khi so sánh với các
doanh nghiệp khác.
- Lợi nhuận biên trên DT:
Lợi nhuận biên trên DT (tỷ số sinh lợi doanh thu) = Lợi nhuận sau thuế / DT
Thông số này đo lường hiệu quả trong hoạt động sản xuất và marketing, nó thể
hiện trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.Một doanh nghiệp
có thông số này cao hơn mức bình quân ngành chứng tỏ họ có nhiều nỗ lực trong
việc cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên nhiên vật liệu và lao động
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

23

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

so với các doanh nghiệp khác. Đặc biệt, thông số này còn phản ánh tính hợp lý
trong chính sách định giá của doanh nghiệp.
- Khả năng sinh lợi cơ bản:
Khả năng sinh lợi cơ bản = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) / Tổng TS
Thông số này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận cơ bản
(chưa chi trả lãi vay và thuế). Tỷ số này càng cao càng cho thấy doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, đầu tư hợp lý vào tài sản.

- ROA (Thu nhập trên tài sản):
ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng TS bình quân
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của
một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp và phạm vi
so sánh và ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh
với tổng tài sản. Nhưng thông thường lợi nhuận sau thuế được sử dụng nhiều hơn vì
nó phản ánh đúng thực chất hơn lợi nhuận mà doanh nghiệp nhận được
- ROE (Thu nhập trên vốn chủ):
ROE = Lợi nhuận sau thuế / VCSH bình quân
Thông số này cho biết hiệu quả của doanh nghiệp trong việc tạo ra thu nhập
cho cổ đông của họ. Đây có lẽ là thông số quan trọng nhất đối với các cổ đông nắm
giữ cổ phiếu, nó cho thấy khả năng sinh lợi trên vốn đầu tư của họ trong doanh
nghiệp. Thu nhập trên vốn chủ là phần còn lại của thu nhập sau thuế sau khi đã
thanh toán cổ tức ưu đãi chia cho giá trị ròng của cổ đông thường. Trong trường hợp
không có vốn vay thì ROA chính là ROE. Khi có vốn vay, chi phí sau thuế của vốn
vay thấp làm cho ROE lớn hơn nhiều so với ROA do tác động của đòn bẩy nợ. Vì
thế ROE còn được biểu diễn dưới dạng:
ROE = ROA / (1-D/A)
Khi mức đòn bẩy nợ tăng, ROE sẽ tăng, tuy nhiên đến một mức nào đó thì tác
động của đòn bẩy tài chính sẽ không còn hiệu quả nữa do mức tăng thêm của chi
phí tài chính sẽ lớn hơn khoản tăng thêm của phần lợi nhuận thu được nhờ tác động
của đòn bẩy. ROE cao thường cho thấy hiệu quả tốt mực dù điều quan trọng đối với
nhà đầu tư là phải hiểu được tại sao ROE có xu hướng tăng hay giảm. ROE cao
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

24

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

không nhất thiết là điều mong muốn của cổ đông nếu doanh nghiệp phải chịu một
mức rủi ro quá cao. Để hiểu được những nhân tố tác động vào ROE người ta thường
sử dụng phương pháp Dupont (phương pháp bắc cầu):
ROE = LNST/VCSH = LNST/DT * DT/Tổng TS * Tổng TS/VCSH
ROE tăng có thể do:
+ LNST/DT tăng: muốn chỉ tiêu này lớn chỉ phải tìm cách cắt giảm chi phí để
số đồng lợi nhuận trong một đồng doanh thu nhiều hơn.
+ DT/ Tổng TS tăng: cho thấy khả khai thác sử dụng TS có hiệu quả.
+ Tổng TS/ VCSH tăng: Có thể biểu diễn lại Tổng TS/ VCSH = 1/(1Nợ/VCSH). Qua đó cho thấy nếu doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ thì ROE sẽ tăng
lên.
Như vậy tổng kết lại có 3 yếu tố tác động đến ROE: Khả năng tiết kiệm chi
phí, khả năng khai thác sử dụng tài sản, khả năng tận dụng lợi ích của nợ. Các chỉ
tiêu này không biến động cùng chiều với nhau, có khi còn trái ngược nhau. Vì vậy
không thể tăng cả 3 chỉ tiêu để đạt mức ROE cao mà phải chọn một phương pháp
mà doanh nghiệp đang có lợi thế. Ưu điểm của phương pháp Dupont là có thể biết
được nguyên nhân, cách tác động của các nhân tố đến ROE, nhược điểm của nó là
tuỳ từng cách thức tách và tiếp cận khác nhau, ý nghĩa tác động của các yếu tố đến
ROE khác nhau.
- Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS):
EPS = (LNST - Cổ tức ưu đãi) / Số cổ phiếu lưu hành trong kỳ
EPS là một thông số thị trường mô tả mức lợi nhuận sau thuế mà doanh
nghiệp đạt được trên mỗi cổ phiếu được phát hành và lưu hành. Cổ phiếu được phát
hành nhưng doanh nghiệp không bán ra hoặc được doanh nghiệp mua lại không
thuộc diện cổ phiếu phát hành và lưu hành. Nếu doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
ưu đãi, lợi nhuận ròng cho phần cổ phiếu thường được xác định bằng cách trừ đi cổ

tức ưu đãi khỏi lợi nhuận sau thuế.
Nhà đầu tư sử dụng thông số EPS để xác định hiệu quả của doanh nghiệp
trong việc tạo nên thu thập cho mỗi cổ phiếu. Hầu hết các nhà quản trị đều nỗ lực để
đạt được chỉ số EPS cao, EPS cao hơn cho thấy doanh nghiệp đang thu được nhiều
SV: Vũ Mỹ Thuần
48C

25

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp


×