Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử việt nam thời kì 1919 1930 nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử là những gì đã trải qua trong quá khứ với những chuỗi những sự kiện,
những ngày tháng nối tiếp lẫn nhau, cung cấp một lượng kiến thức lớn trong một
khoảng thời gian hạn hẹp. Trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ
yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và
làm bài…nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học
sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Việc rèn luyện năng lực tư
duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh…của học sinh
nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, quan trọng nhất của quá trình dạy học.
Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ
giữa tái hiện và sáng tạo, tăng cường các phương pháp giảng dạy nhằm đổi mới
hoạt động nhận thức của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức. Như vậy, đối với
công tác chuyên môn của giáo viên không chỉ dừng lại ở việc bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn mà còn phải không ngừng cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Trong xu thế hiện nay, vấn đề cập nhật thông tin và đổi mới luôn đặt lên hàng
đầu. Do vậy, việc giảng dạy bộ môn Lịch sử cần phải đổi mới, phải có định hướng
chung để học sinh tiếp xúc với nhiều tri thức, nhiều thông tin và rèn luyện kĩ năng
làm bài, kỹ năng thực hành, đặc biệt trong việc nhớ được những kiến thức cơ bản
nhất và những sự kiện lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt. Trong việc đổi mới
phương pháp dạy học là thầy dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất
lượng hoạt động trí tuệ của học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của
các em. Để có một giờ học hiệu quả thì ngoài việc sử dụng các thiết bị dạy học hiện
đại như máy chiếu, ti vi, thì việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy các giai
đoạn, thời kì lịch sử đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì, sử dụng sơ đồ tư duy
sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được chặt chẽ hai hệ
thống tín hiệu với nhau: Tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ
lâu, tạo được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học
sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú.
Chúng ta đều biết, kiến thức lịch sử có những đặc điểm như mang tính quá


khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể, tính logic, tính thống nhất giữa sử và luận. Do
vậy, trở ngại lớn nhất của học sinh trong học tập Lịch sử là các em không thể trực
tiếp quan sát các sự kiện, hiện tượng lịch sử diễn ra trong quá khứ. Vì lẽ đó, ngoài
việc sử dụng đồ dùng trực quan thì sơ đồ tư duy có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy
học bộ môn. Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay - “hướng tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học
sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình
1


bằng các “sơ đồ tư duy”, chính vì thế mà “sơ đồ tư duy” đã trở thành một nhân tố
khá quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là phương tiện giúp học sinh
khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh rất dễ
nắm bắt. Học sinh không thể trực tiếp nhận thức (tri giác) các sự kiện lịch sử, vì
lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên xi, không thể dựng lại hoàn toàn hay thí
nghiệm như các môn khoa học tự nhiên. Vì thế dạy học lịch sử trước hết là một quá
trình truyền thông tin, thu nhận và xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh thông
qua các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân
thật, phong phú thì nhận thức lịch sử của học sinh càng sâu sắc, bền vững. Lời nói,
hình ảnh cũng như các loại đồ dùng trực quan như hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng
đĩa, máy chiếu... là những phương tiện dạy học có khả năng chứa hoặc truyền thông
tin rất đa dạng và phong phú. Các phương tiện này đóng vai trò rất quan trọng trong
việc bảo đảm tính trực quan và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho học sinh. Môn
Lịch sử có những đặc thù riêng nên việc hệ thống hóa kiến thức giúp học sinh so
sánh, đánh giá, lý giải vấn đề. Nhờ vậy mà hiểu được lịch sử, phát triển tư duy
lôgic trong nhận thức lịch sử là một việc làm rất cần thiết. Việc sử dụng sơ đồ tư
duy huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ
hiệu quả các phương pháp dạy học. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên
giúp học sinh có thói quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã
học, theo các hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy. Sau khi cho học sinh làm

quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo viên đưa ra một chủ đề chính, đặt chủ đề
này ở vị trí trung tâm bảng hoặc vào trang vở tờ giấy rồi đặc câu hỏi gợi ý để học
sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3. Mỗi bài học được tự vẽ kiến thức trọng
tâm trên một trang giấy giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần. Nếu
học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy thì sẽ phát triển khả năng thẩm mỹ do
việc thiết kế phải bố cục màu sắc, các đường nét các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp
các ý tưởng khoa học, súc tích.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. Học
sinh chỉ học bài nào biết bài đó, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa
có sự liên hệ kiến thức với nhau, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư
duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và
nâng cao hiệu quả học tập.
Với những ưu điểm cơ bản trên, phương pháp sử dụng Sơ đồ tư duy hiện nay
đang được sử dụng rộng rãi trong việc dạy và học, được vận dụng trong tất cả các
khâu của quá trình dạy học để mang lại hiệu quả cao. Do vậy, đây là phương pháp
đặc biệt phù hợp với việc dạy học Lịch sử ở các trường Trung học phổ thông nói
chung và với trường THPT Sầm Sơn nói riêng.
2


Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng và phát triển thành đề tài sáng kiến
kinh nghiệm: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kì 19191930 nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh ” - sách giáo khoa 12- chương
trình cơ bản, ở trường Trung học phổ thông Sầm Sơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích khi nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy bộ môn Lịch sử 12 ở trường Trung học phổ thông, hướng dẫn học sinh có thể
hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ, qua đó các em sẽ nhìn được tổng thể kiến thức
một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, rút ngắn được thời gian ôn tập, củng cố, giúp học
sinh hiểu bài, nắm được kiến thức cơ bản và nhớ lâu, phù hợp với xu hướng đổi

mới và nâng cao chất lượng học tập của học sinh .
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ học sinh yếu, trung bình
đến đối tượng học sinh khá, giỏi các lớp khối 12. Vì đây là phương pháp dạy - học
mới, tuỳ theo từng đối tượng học sinh mà việc tổ chức, hướng dẫn tìm ra kiến thức
cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn.
- Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc sử dụng sơ đồ tư
duy trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kì 1919-1930. Đối tượng nghiên cứu mà
tôi áp dụng là học sinh lớp 12 trường THPT Sầm Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát thực tế
- Nghiên cứu tài liệu.
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Qua các tiết thực nghiệm trên lớp
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Sơ đồ tư duy nói chung và sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử nói
riêng là một minh chứng tiêu biểu của việc vận dụng thành quả lý luận dạy học
hiện đại vào dạy học Lịch sử với tính ứng dụng cao. Sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học Lịch sử nhằm tái hiện, tổng kết và khái quát hóa kiến thức. Nội dung của
bài giảng là dạng sơ đồ hóa một cách trực quan, súc tích của tài liệu sách giáo khoa
đưa ra, là một phương pháp đại diện cho lý luận dạy học hiện đại. Phương pháp sử
dụng sơ đồ tư duy mang nhiều ưu điểm phù hợp cho việc dạy học nói chung và dạy
học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông nói riêng. Đây là một phương pháp
mang lại hiệu quả cao trong giờ học Lịch sử. Qua mô hình sơ đồ tư duy, toàn bộ
kiến thức trong bài học được thể hiện đầy đủ, cô đọng trong mối liên hệ mật thiết
với nhau. Bằng việc tự thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy trên lớp, giáo viên đã tạo ra
được một đồ dùng trực quan sinh động phục vụ trực tiếp, thiết thực cho bài học.
3



Đây là phương pháp không mất nhiều thời gian và đặc biệt là tiết kiệm vật chất. Sơ
đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là con đường dễ nhất để chuyển tải thông
tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Đồng thời là một phương tiện ghi
chép đầy đủ, sáng tạo. Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc,
hình ảnh để mở rộng đào sâu các ý tưởng, giúp học sinh phát triển tư duy logic, kỹ
năng phân tích tổng hợp, học sinh hiểu bài nhớ lâu thay cho việc ghi nhớ dưới dạng
thuộc lòng, đọc vẹt, phù hợp với tâm sinh lý của học sinh.
Trong sơ đồ tư duy học sinh được tự do phát triển các ý tưởng, xây dựng mô
hình và thiết kế mô hình để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Từ đó, cùng với việc
hình thành kiến thức các kỹ năng tư duy đặc biệt, kỹ năng tư duy bậc cao của học
sinh cũng được phát triển, đồng thời học sinh học được một quá trình tổ chức thông
tin, tổ chức ý tưởng.
Cơ sở lí luận của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường
THPT hiện nay có nhiều quan niệm có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử nói riêng. So sánh kiểu dạy truyền
thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua
việc tiếp cận, làm việc với sơ đồ tư duy, chúng ta thấy rõ những điều khác biệt
trong quá trình dạy học.
DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG
DẠY HỌC PHÁT HUY NĂNG LỰC
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
1

2

3

4


Cung cấp nhiều sự kiện theo sách Cung cấp những kiến thức cơ bản được
giáo khoa
chọn lựa phù hợp với mọi trình độ yêu
cầu của học sinh nhằm vào mục tiêu đào
tạo.
Phần lớn thời gian trên lớp dành Ngoài bài giảng trên lớp, học sinh được
cho giáo viên thuyết trình, giảng tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác
giải, học sinh thụ động tiếp thu nhau như sách giáo khoa, tài liệu tham
kiến thức thông qua nghe và ghi khảo, thực tế cuộc sống, học trực tuyến.
chép.
Học sinh chỉ làm việc một mình Ngoài việc tự nghiên cứu, học sinh còn
trên lớp
trao đổi thảo luận với các bạn trong tổ,
lớp, trao đổi ngoài giờ, đề xuất ý kiến
thắc mắc, trao đổi với giáo viên
Nguồn kiến thức thu nhận được Nguồn kiến thức thu nhận rất phong
của học sinh rất hạn hẹp, thường phú, đa dạng: lời nói, tài liệu viết, đồ
giới hạn trong các bài giảng của dùng trực quan, di tích lịch sử, phòng
giáo viên thông qua nội dung sách truyền thống, nhân chứng lịch sử...
giáo khoa.
4


Như vậy, từ việc vận dụng hai cách thức dạy học trên, chúng ta thấy, phương
pháp phát huy năng lực tự học của học sinh đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên,
cách dạy này đòi hỏi giáo viên và học sinh phải “tích cực hóa” trong quá trình dạy
học, phải chủ động sáng tạo. Muốn làm được điều đó, giáo viên cần áp dụng nhiều
phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy
một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa

từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng
của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt
động của sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh). Sơ đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với
nhau vì vậy có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng
cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương. Sơ đồ
tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ
não. Việc học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo
của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do
chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các
em tự “sáng tác” nên trên mỗi sơ đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày
kiến thức của từng học sinh và sơ đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em yêu
quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
* Lợi ích của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5


Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới môn Lịch sử luôn được các nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được
đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học
không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực
trong quá trình học tập. Như vậy, dạy lịch sử là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và
tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.
Bộ môn lịch sử trong nhà trường Trung học phổ thông là một trong những bộ môn
có dung lượng kiến thức nhiều, song số tiết dạy ít. Phần Lịch sử Việt Nam lớp 12,
kiến thức phổ rộng từ 1919-2000, được chia làm 5 thời kỳ với những chủ điểm, nội
dung khác nhau, song có mối liên hệ mật thiết với nhau: thời kỳ 1919-1930 là quá
trình vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, thời kỳ 1930-1945 là quá trình

chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kì 1945-1954 gắn với công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam, thời kỳ
1954-1975 gắn với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược, thời kỳ 19752000 với chủ điểm cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội và bước vào công
cuộc đổi mới đất nước. Mỗi một mốc thời gian lại gắn với nội dung lịch sử quan
trọng. Bởi vậy, dạy như thế nào để học sinh hiểu, ghi nhớ và nhớ lâu là một khó
khăn đối với mỗi giáo viên đứng lớp. Nhiều phươg pháp đã được áp dụng theo
đúng tinh thần đổi mới của ngành giáo dục song hiệu quả chưa cao. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây phương pháp dạy học mới bằng sơ đồ tư duy đã được
thực hiện với ưu điểm vượt trội nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh
trong việc tìm tòi, đào sâu hay mở rộng một ý tưởng,… Bằng việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét và chữ viết với sự tư duy tích cực. Cùng một chủ đề
nhưng có thể trình bày dưới dạng sơ đồ tư duy theo một cách riêng, với cách dùng
màu sắc, hình ảnh và cụm từ diễn đạt khác nhau. Từ đó mà việc lập sơ đồ tư duy
trong dạy và học luôn phát huy được khả năng sáng tạo của mỗi giáo viên và học
sinh.
Lịch sử Việt Nam thời kỳ từ 1919-1930, có rất nhiều nội dung, sự kiện gắn với
quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây được xác định là một
giai đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, bản
thân nhận thấy nếu áp dụng cách dạy truyền thống hoặc hiện đại hóa khi sử dụng
công nghệ thông tin vẫn không phát huy hết được tính chủ động của học sinh, học
sinh không ghi nhớ kỹ nội dung bài học, kiến thức dễ quên… Bởi vậy, xuất phát từ
thực tiễn của bộ môn, bản thân tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy
cho phù hợp với yêu cầu giáo dục hiện nay, đó là sử dụng sơ đồ tư duy đối với
những bài dạy lịch sử Việt Nam thời kỳ từ 1919-1930. Qua thực tế giảng dạy, bản
thân thấy tâm đắc vì phương pháp này giúp học sinh phát huy được sự tự tin, sự
lôgic, sáng tạo và phát triển khả năng tư duy. Dạy học bằng sơ đồ tư duy giúp học
sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung bài học của
6



mình. Đặc biệt phương pháp này giúp học sinh không nhàm chán mà luôn sôi nổi,
hào hứng trong tiết học, từ đó tạo điều kiện cho học sinh tập trung thảo luận và
cùng tìm ra vấn đề cốt lõi trong nội dung bài học. Với phương pháp này buộc học
sinh phải chủ động trong việc học của mình, từ đó mà hiệu quả trong việc học
không ngừng được nâng cao.
Với phương pháp này, giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần
toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm
của bài học, trung tâm của sơ đồ. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức
lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy cho
đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày
một cách sáng tạo, sinh động trên sơ đồ. Khi các nhánh lớn được xây dựng, giáo
viên cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh
số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Sau khi hoàn
thiện, học sinh nhìn vào sơ đồ có thể tái hiện tuyết trình lại được toàn bộ nội dung
kiến thức bài học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Về phía giáo viên
- Đối với giáo viên, để sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học đạt hiệu quả, cần xây
dựng kế hoạch bài giảng chu đáo, thiết kế bài giảng chi tiết, phù hợp với yêu cầu
kiến thức cần đạt và đối tượng học sinh trong lớp. Đồng thời, chuẩn bị đầy đủ các
thiết bị dạy học, tư liệu, thông tin cần thiết để hướng dẫn học sinh xây dựng được
sơ đồ tư duy một cách hiệu quả nhất.
Thứ nhất, phần chuẩn bị của giáo viên để sử dụng sơ đồ tư duy có hiệu quả:
- Tải và luyện tập sử dụng phần mềm thiết kế sơ đồ tư duy. Với phần mềm này,
giáo viên có thể sử dụng nhiều dạng sơ đồ tư duy để thiết kế cho phù hợp. Lựa
chọn nội dung, bài giảng phù hợp sử dụng sơ đồ tư duy.
Thứ hai, hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy:
Bước 1: Chọn từ trung tâm (từ khóa, hình vẽ, biểu tượng) cho một nội dung lớn
của bài học.
Bước 2: Vẽ nhánh cấp 1. Các nhánh cấp 1 thể hiện các nội dung chính của bài hay

của từng phần.
Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2, cấp 3,… Thao tác này là quá trình lặp lại của thao tác 2,
các cụm từ ghi ở thao tác 2 trở thành từ khóa của nhánh cấp 3, cấp 4.
Bước 4: Hoàn thiện sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau,
dùng hình ảnh khác nhau, màu sắc khác nhau để chuyển tải nội dung phù hợp với
năng khiếu thẩm mỹ riêng. Vì vậy có thể bổ sung nhánh, tô màu, hoặc bớt nhánh
nếu cần thiết.
Bước 5: Báo cáo kết quả
7


Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết trình về sơ đồ
tư duy mà nhóm mình đã thiết lập
Bước 6: Củng cố kiến thức
Giáo viên cho lớp củng cố kiến thức vừa tìm hiểu bằng một sơ đồ tư duy mà
giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa
hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về phần nội dung kiến thức đó.
2.3.2. Về phía học sinh
- Học sinh chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết để vẽ sơ đồ tư duy trong tiết học
Lịch sử bao gồm: Bút chì, tẩy, bút màu hoặc sáp vẽ; chất liệu như giấy khổ A4 hoặc
giấy bìa…
- Cùng với đó là chuẩn bị kĩ bài học ở nhà bằng cách đọc thông tin, sưu tầm tư liệu,
tranh ảnh liên quan đến sự kiện hay nhân vật lịch sử của bài học trên sách báo,
mạng internet, ...
- Chủ động trong các kỹ năng hoạt động như: nghiên cứu, thảo luận, tranh luận,
làm việc theo nhóm, làm việc cá nhân; trình bày, báo cáo kết quả...; có thái độ hợp
tác vui vẻ, thoải mái, chủ động, tích cực.
- Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên. Không cần ghi lại mọi lời giảng
của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não

chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
- Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp
bạn nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng sơ đồ tư duy trong khi dạy học Lịch sử Việt Nam thời kì 1919 1930, tôi đã tổ chức các hình thức lập sơ đồ tư duy theo nội dung từng phần và từng
bài. Khi dạy nội dung kiến thức từng phần, tôi thường sử dụng một số phương pháp
sau: Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa để tìm ra từ “chìa khóa”, sau đó,
hướng dẫn học sinh phân tích, đào sâu kiến thức, sự kiện....Giáo viên liệt kê các sự
kiện lên sơ đồ tư duy để học sinh trình bày hoàn chỉnh sự kiện.
2.3.3. Các sơ đồ tư duy được sử dụng trong giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam
thời kì 1919-1930, Lớp 12, Chương trình cơ bản
Lịch sử Việt Nam thời kì 1919 - 1930, lớp 12, chương trình cơ bản, gồm có hai
bài với cơ cấu số tiết theo chương trình môn học là 04 tiết:
- Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1919 - 1925
(2 tiết)
- Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1925 - 1930
(2 tiết).
Kiến thức trọng tâm của hai bài này khá phong phú, nhiều sự kiện, hoạt động
liên quan đến các phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội mang
một màu sắc mới và khuynh hướng cứu nước mới.
Cụ thể, sơ đồ tư duy được thiết kế ở hai bài như sau:
8


* Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1919 - 1925
Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh thiết lập hai sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy 1: với từ chìa khóa “Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực
dân Pháp” với các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Chính sách bóc lột về kinh tế về kinh...
- Chuyển biến về kinh tế...
- Chuyển biến về xã hội...

- Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam...
Từ các nhánh cấp 1 học sinh nghiên cứu, tìm tòi khám phá và xâu chuỗi các sự
kiện để phát triển các nhánh cấp 2,3...

9


Sơ đồ tư duy 2: với từ chìa khóa: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ
1919-1925” với các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Hoạt động của tư sản
- Hoạt động của tiểu tư sản
- Phong trào đấu tranh của công nhân
- Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Từ các nhánh cấp 1 học sinh nghiên cứu, tìm tòi khám phá và xâu chuỗi các sự
kiện để phát triển các nhánh cấp 2,3

* Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1925-1930
Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh thiết lập 05 sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy 1: từ chìa khóa: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong
những năm 1925-1930”
Các nhánh cấp 1, bao gồm:
10


- Hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
- Hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng
- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản năm 1929
- Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Từ các nhánh cấp 1 học sinh thiết lập các nhánh cấp 2,3 theo mục tiêu đạt
được về kiến thức.


Sơ đồ tư duy 2: với từ chìa khóa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”
Các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Sự thành lập
- Hoạt động
- Phân hóa tích cực
11


- Vai trò
Từ các nhánh cấp 1, học sinh tìm hiểu các thông tin và xâu chuỗi các sự kiện
để phát triển tiếp các nhánh cấp 2,3

Sơ đồ tư duy 3: với từ chìa khóa “Việt Nam quốc dân Đảng”
Các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Sự ra đời
- Tôn chỉ mục đích
- Hoạt động
- Nguyên nhân thất bại
Từ các nhánh cấp 1, học sinh tìm hiểu các thông tin và xâu chuỗi các sự kiện để
phát triển tiếp các nhánh cấp 2,3.

12


Sơ đồ tư duy 4: với cụm từ chìa khóa “Ba tổ chức Cộng sản năm 1929”
Các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Đông Dương cộng sản Đảng
- An Nam cộng sản Đảng
- Đông Dương cộng sản liên đoàn

- Nguyên nhân
- Ý nghĩa
Từ các nhánh cấp 1, học sinh tìm hiểu các thông tin và xâu chuỗi các sự kiện
để phát triển tiếp các nhánh cấp 2,3

13


Sơ đồ tư duy 5: với từ chìa khóa “ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1930”
Các nhánh cấp 1, bao gồm:
- Hoàn cảnh
- Nội dung hội nghị
- Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Ý nghĩa của hội nghị
Từ các nhánh cấp 1, học sinh tìm hiểu các thông tin và xâu chuỗi các sự kiện
để phát triển tiếp các nhánh cấp 2,3

14


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Thông qua phương pháp thực nghiệm để xác thực tính hiệu quả của sáng kiến
kinh nghiệm
2.4.1 Mục đích thực nghiệm
Với việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học: Bài 12:“Phong trào dân tộc dân
chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925” (Tiết 2) - Sách giáo khoa lớp 12 chương trình cơ
bản, kết hợp với phương pháp dạy học nêu vấn đề, tổ chức học sinh thảo luận, kiểm
tra, đánh giá, tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng hiệu quả của
sáng kiến kinh nghiệm.

2.4.2. Đối tượng thực nghiệm
Là học sinh lớp 12 trường THPT Sầm Sơn - Cụ thể là 2 lớp 12A4 và 12A7.
2.4.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
15


- Tôi chọn 2 lớp 12A4, 12A7 có cùng sĩ số như nhau (45 học sinh), trình độ nhận
thức tương đương, tinh thần ý thức học tập của 2 lớp đều rất tốt.
- Tôi tiến hành dạy 2 lớp với hai giáo án, cách thức tổ chức dạy học khác nhau cho
cùng một bài học:“Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925”(Tiết 2)
- Hai tiết dạy thực nghiệm và đối chứng được tiến hành vào tiết 3 - lớp 12A7
(sáng thứ 5, ngày 02/11/2017) và tiết 2 lớp 12A4 (sáng thứ 3, ngày 07/11/2017)
+ Lớp 12A4 là lớp đối chứng, tôi tiến hành dạy bình thường, chủ yếu dùng phương
pháp thuyết trình, giảng giải, phát vấn, sử dụng tranh ảnh, tư liệu SGK.
+ Lớp 12A7 là lớp thực nghiệm nên tôi chuẩn bị kĩ các loại đồ dùng trực quan như
lược đồ, sơ đồ tư duy, giấy A3, bút màu, tranh ảnh, kết hợp với các phương pháp
dạy học theo tinh thần đổi mới như tổ chức HS thảo luận, vẽ và thuyết trình theo sơ
đồ tư duy... nhằm phát huy tính tích cực chủ động, năng lực tự học của học sinh.
+ Sau khi dạy xong bài “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925”
(tiết 2), tôi tiến hành kiểm tra 10 phút ở cả 2 lớp (ở tiết kế tiếp) với đề bài như sau:
Đề bài: Từ những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 - 1925:
a) Anh (chị) hãy nêu công lao của Người đối với cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn này.
b) Xác định công lao to lớn đầu tiên của Người và giải thích.
Đáp án: Bài làm của học sinh phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản sau đây:
Câu

Nội dung cần đạt
a) Nêu được những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 19191925
- Cuối 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp và gia nhập Đảng xã

hội Pháp.
- 18-6-1919: Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc-xai bản yêu
sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ, quyền
bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam.
- 7-1920: Người đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin -> tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
- 25-12-1920: dự đại hội Tua, tán thành việc gia nhập Quốc tế III
và thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
- 1921: thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và ra báo « Người cùng
khổ » làm cơ quan ngôn luận của Hội; viết bài cho các báo Nhân
đạo, Đời sống công nhân,…đặc biệt là viết cuốn « Bản án chế độ
thực dân Pháp »
- 6-1923: Người sang Liên Xô dự Đại hội quốc tế nông dân.
- 1924: Người dự Đại hôi V Quốc tế Cộng sản.

Điểm
0,75
0,75
1,0
0,75
1,0

0,75
16


-11-11-1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp
0,75
tuyên truyền, giáo dục lí luận chính trị, xây dựng tổ chức cách

mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- 6-1925, sáng lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên...
0,75
* Công lao của Nguyễn Ái Quốc:
- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc...
0,75
- Chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng
0,75
cách mạng Việt Nam...
b) Công lao to lớn đầu tiên: tìm ra con đướng cứu nước đúng
đắn cho dân tộc...
1,0
- Giải thích: từ việc tìm ra con đướng cứu nước đúng đắn cho
dân tộc con đường cách mạng vô sản, là cơ sở, nền tảng vững
1,0
chắc về chính trị cho thắng lợi của cách mạng nước ta ở những
giai đoạn sau...
Đánh giá xếp loại:
+ Loại Giỏi: điểm 9-10, là những học sinh trình bày đầy đủ các nội dung một cách
chính xác, khoa học, lôgíc, mạch lạc.
+ Loại Khá: điểm 7-8, là những học sinh trình bày được tương đối đầy đủ các nội
dung, phần lý giải chỉ nêu chung chung.
+ Loại trung bình: điểm 5-6, là những học sinh trình bày nội dung còn sơ sài, diễn
đạt thiếu lôgíc.
+ Loại yếu: điểm dưới 5 là những học sinh trả lời còn lan man, mơ hồ hoặc không
trả lời được ý nào.
2.4.4. Kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được trình bày trong bảng sau:
Lớp
12A7 (lớp thực nghiệm)

12A4 (lớp đối chứng)
Kết quả
Số lượng
%
Số lượng
%
Giỏi
12
26,7
4
8,9
Khá
20
44,4
16
35,6
Trung bình
13
28,9
20
44,4
Yếu
0
0
5
11,1
Nhận xét: Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc sử
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử đã phát huy được tính tư duy độc lập và sự
chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh, cụ thể: kết quả học tập của lớp thực
nghiệm - 12A7 cao hơn lớp đối chứng - 12 A4: loại Giỏi ở lớp đối chứng chỉ có 04

em (chiếm 8,9%), loại yếu 05 em (chiếm 11,1%). Trong khi đó ở lớp thực nghiệm:
Loại giỏi 12 em (chiếm 26,7%), loại yếu 0%. Từ đó, cho phép tôi kết luận là nếu sử
dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Lịch sử nói chung và phần Lịch sử Việt
Nam thời kì 1919 - 1930 nói riêng, thì kết quả Dạy và Học sẽ cao hơn.
17


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trong hệ thống các môn khoa học ở chương trình phổ thông, môn Lịch sử có
tác dụng rất lớn trong việc giáo dục truyền thống, lòng tự hào và trách nhiệm đối
với quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ. Thế nhưng cho tới nay, môn học này vẫn
chưa được coi trọng đúng mức, vẫn được xem là môn phụ. Có thể là do nhiều
nguyên nhân: do quan niệm lệch lạc, do chưa có phương pháp phù hợp, do thiếu
phương tiện giảng dạy, do môn học trừu tượng, khô khan... Từ thực tế đó đặt ra yêu
cầu cần đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, kích thích sự
hứng thú và sự say mê học tập ở học sinh. Do vậy, việc sử dụng đồ dùng trực quan
nói chung và sơ đồ tư duy nói riêng trong dạy học lịch sử ngày càng có vị trí và ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả dạy học của bộ môn.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Lịch sử đóng vai trò quan
trọng, nếu giáo viên tích cực tìm tòi, sáng tạo, chịu khó đổi mới phương pháp thì sẽ
có tác dụng tốt, có thể áp dụng trong tất cả các trường Trung học phổ thông. Có làm
được như vậy, tôi tin chắc học sinh sẽ ham học môn Lịch sử, làm tăng hiệu quả của
giờ dạy trên lớp, từ đó chất lượng bộ môn được nâng cao.
Với kinh nghiệm giảng dạy từ thực tế là các giờ học và tính hiệu quả của nó, tôi
xin chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kì 1919-1930 nhằm phát huy năng
lực tự học của học sinh ”. Mặc dù phạm vi trình bày và nội dung nghiên cứu hẹp,
các thiết kế sơ đồ tư duy đối với giai đoạn lịch sử này mà tôi đưa ra có thể là chưa
đầy đủ, song bản thân cũng đã có nhiều cố gắng và luôn mong muốn được góp

thêm một số ít kinh nghiệm giảng dạy bộ môn lịch sử nói chung và phần Lịch sử
Việt Nam 1919-1930 nói riêng nhằm phát huy sự chủ động lĩnh hội kiến thức của
học sinh, góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Rất mong nhận được
ủng hộ của các thầy cô, và bạn bè đồng nghiệp để đề tài sáng kiến kinh nghiệm
được hoàn thiện và chất lượng hơn.
3.2. Kiến nghị
- Tôi có kiến nghị đưa sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy
trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kì 1919-1930 nhằm phát huy năng lực tự học
của học sinh” ứng dụng rộng rãi trong quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập
của học sinh để rút kinh nghiệm và mở rộng hơn về sáng kiến kinh nghiệm này
nhằm đem lại hiệu quả cao hơn trong quá trình dạy và học.
- Việc dạy học với sơ đồ tư duy rất thuận tiện với các tiết dạy giáo án điện tử, nhà
trường cần xây dựng các phòng máy cho giáo viên dạy học. Giáo viên cần được
rèn luyện kỹ năng lập sơ đồ tư duy, nên có các chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên,
nên mua bản quyền các phần mềm IMind Map v.4, v.5, v.6 cho giáo viên sử dụng.
18


- Nhà trường nên cho học sinh tham gia các hoạt động có sử dụng sơ đồ tư duy
trong sinh hoạt Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các tiết ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp...
- Hướng tiếp tục nghiên cứu và phát triển mở rộng của sáng kiến này là hình thành
các loại sơ đồ tư duy cho phần Lịch sử Việt Nam từ 1919-2000, có thể chia thành
các thời kì 1930-1945, 1945-1954,1954-1975,1975-2000 nhằm phát huy năng lực
tự học của học sinh lớp 12.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác

Đặng Thị Hạnh

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sánh giáo khoa lịch sử lớp 12 - Phan Ngọc Liên (Chủ biên) - NXB Giáo dục.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch sử lớp 12,
Phan Ngọc Liên - Nguyễn Xuân Trường (đồng Chủ biên) - NXB Giáo dục.
3. Lập bản đồ tư duy - Tony Buzan - NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
4. Bản đồ tư duy - phương pháp dạy và học hiệu quả .
Ths. Nguyễn Thị Thanh Xuân - khoa Kế toán DNU.
5. Phần mềm Mindmap.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn - trường THPT Sầm Sơn TP Sầm Sơn - tỉnh Thanh Hóa
TT
1

2


3

4

5

Cấp đánh giá Kết quả
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá
xếp loại
Sử dụng đồ dùng trực quan Sở GD và ĐT
B
trong giảng dạy bài Cách mạng Thanh Hóa
tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII
(CT SGK Lịch sử 10 - Cơ bản)
Thay đổi cấu trúc bài học để đạt Sở GD và ĐT
B
hiệu quả cao trong giảng dạy Thanh Hóa
bài "Cách mạng tư sản Pháp
cuối thế kỉ XVIII" (CT SGK
Lịch sử 10 - Cơ bản)
Một số biện pháp nhằm nâng Sở GD và ĐT
C
cao hiệu quả dạy học nội dung Thanh Hóa
khoa học - kĩ thuật phần Lịch sử
thế giới hiện đại từ 1945-2000"
(CT SGK Lịch sử 10 - Cơ bản)
Đồ dùng trực quan trong dạy Sở GD và ĐT
B

học bài "Chiến tranh giành độc Thanh Hóa
lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ" (CT SGK Lịch sử 10 - Cơ
bản)
Đồ dùng trực quan trong dạy
HĐKHSK
B
học bài "Chiến tranh giành độc Tỉnh Thanh
lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Hóa
Mĩ" (CT SGK Lịch sử 10 - Cơ
bản)

Năm học
đánh giá
xếp loại
2007-2008

2010-2011

2011-2012

2013-2014

2014-2015

21


22




×