Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHỮNG NHÀ GIÁO nổi TIẾNG NHẤT TRONG LỊCH sử VIỆT NAM LỊCH sử và GIAI THOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.25 KB, 86 trang )

NHỮNG NHÀ GIÁO NỔI TIẾNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
THẦY CHU AN
(1292-1370)
Chu An cũng được gọi là Chu Văn An, Chu Văn Trinh tự là Lịnh Triệt, hiệu là Tiều ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt,
huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Quá trình học tập của ông thời thanh thiếu niên chưa được rõ lắm: có sách nói
ông thi đỗ thái học sinh (tiến sĩ) nhưng lại có chỗ nói ông không đỗ đạt gì. Đời vua Trần Minh Tông (1314-1320), ông được
mời ra giữ chức Tư nghiệp trưởng Quốc Tử Giám, đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), ông từ chức về ở ẩn tại núi Phượng
Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Dương). Khi Trần Nghệ Tông (1370-1372) lên ngôi, có mời, nhưng ông chỉ về
kinh chúc mừng, rồi trở lại núi cũ, không nhận chức tước. Lúc ông mất, được triều đình truy tặng tước Văn Trinh Công (cái
tên Chu Văn Trinh là do sự ân tặng này). ông được ban tên thụy là Khanh Tiết và thờ ở Văn Miếu.
Con người và sự nghiệp Chu An có thể khái quát qua một vài nét lớn:
- Một vị đại thần cương trực:
Nói là một vị đại thần, song thực ra Chu Văn An không giữ trọng trách gì về chính sự. ông không được giao nhiệm vụ
điều hành việc nước, mà chỉ là một vị học quan, được quản lý trường Quốc Tử Giám (như một ông hiệu trưởng đại học sau
này). Nhưng ông đã để ý đến tình hình triều chính, và rất bất bình với bọn quan lại vô trách nhiệm, bọn gian thần lũng đoạn
nước nhà. ông đã dâng sớ lên vua Trần Dụ Tông, xin chém 7 tên gian thần. Sử gọi tờ sớ ấy là Thất trảm sớ. Không có tài
liệu nào cho biết nội dung sớ viết thế nào, và những kẻ gian thần ấy là ai. Nhưng ngay trong thế kỷ đó (thế kỷ XIV), Thất
trảm sớ có tiếng vang lớn. Đã có lời đánh giá là: Tờ sớ Thất trảm, lòng trung nghĩa động đến đất trời (Thất trảm sớ, nghĩa
động càn khôn). Không rõ là vua Trần Dụ Tông đã xem xét bài sớ như thế nào. Cũng không thấy nói bọn quyền thần có trả
thù người dâng sớ hay không, chỉ biết rằng, sớ dâng lên, không có kết quả gì. Chu An đã phản ứng bằng cách từ quan về
quê, không liên hệ gì với các nhà cầm quyền nữa. ông đã đấu tranh cho chính nghĩa, nhưng không dẹp được sự bất bình,
nên quay trở về sống yên lặng, thanh cao, không dính dáng gì với cuộc đời ô trọc. Vua mời ông ra làm việc, ông từ chối.
Vua cho quà cáp, ông phải theo phép tắc mà nhận lấy nhưng không dùng mà đem cho những người khác. ông luôn luôn giữ
vững tiết tháo của mình.


- Một học giả chân nho:
Những tác phẩm về đạo đức, về học thuyết của Chu An, đến nay không còn. Nhưng sử sách có nhắc đến bộ Tứ thư thuyết
ước của ông, gồm 10 quyển. Học giả đời sau đều nhất trí cho là bộ sách nói đầy đủ và trung thành những tư tưởng của Nho
giáo qua các tài liệu chính truyền như Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung. Huỳnh Thúc Kháng cho rằng "tư tưởng Chu
An không giống Tống nho" (Nghĩa là đúng với tinh thần Khổng Mạnh). Có điều lạ là tuy không mấy người được đọc, nhưng


ai cũng nhất trí như thế mà không có sự ngờ vực nào. Có thể một phần vì trong thời gian Chu An truyền bá tư tưởng của mình,
ông đã làm cho mọi người thấm nhuần cái giáo lý cơ bản. Do đó, dù không giữ được tác phẩm, người ta vẫn nắm được những
đường hướng quan trọng. Đó là một thành công đặc biệt của ông. Tư tưởng chính truyền nho giáo này, phù hợp với truyền
thống đạo đức Việt Nam, đặc biệt trong hoàn cảnh thối nát của triều Trần Dụ Tông, càng làm cho gương sáng của Chu An
thêm rực rỡ.
- Một nhà thơ trong sáng:
Chu An làm nhiều thơ. Có thơ chữ Hán: Tiều ẩn thi tập; có thơ chữ nôm: Quốc ngữ thi tập. Nhưng những tác phẩm ấy ngày
nay cũng đã thất lạc, chỉ còn sót lại có 11 bài trong Toàn Việt thi lục và Phượng Sơn từ chí lược. Chỉ cần một số ít bài còn lại ấy,
vẫn có thể có nhận xét qua về sáng tác của Chu An. ông quả có tâm hồn thi sĩ. Tình cảm yêu thiên nhiên của ông rất đậm đà
thắm thiết. Tâm hồn ông luôn luôn vươn đến một sự thanh tịnh tuyệt đối. Phan Huy Chú sau này nhận xét là thơ Chu An rất
trong sáng, u nhàn. ông luôn luôn tỏ ra cao thượng, không gợn chút bụi đời. ông yêu giếng thơi vì giếng luôn luôn bình tâm
không gợn sóng, yêu đám mây lẻ thong dong trên nền trời, yêu hoa sen vì gần bùn mà không phai hương sắc. Câu thơ được
truyền tụng nhất và cũng làm nổi được phong cách của Chu An là:
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Nghĩa là:
(Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian
Lòng như nước giếng xưa, không bao giờ gợn sóng)
- Một người thầy:


Nhưng nét nổi bật và chủ yếu hơn cả ở con người Chu An, vì ông là một người thầy toàn vẹn trong lịch sử nước ta. Từ
trước đời Trần, đã có nhiều người thầy không hiếm những thành tựu xuất sắc, và các triều đại về sau, thầy giáo càng nhiều và
càng nhiều những bậc tôn sư đạo cao đức trọng. Nhưng không ai có thể sánh được với Chu An. Người thầy này có nhiều đặc
điểm:
+ ông đã dạy hầu hết các loại học sinh cao thấp: từ bậc đại học cho đến lớp học sinh bình thường ở nông thôn. ông là thầy
(hiệu phó) ở trường Quốc Tử Giám dạy con em các vua quan. ông đã là hiệu trưởng (và là giáo viên độc nhất) một trường tư
nhỏ tại huyện Thanh Đàm. Trường của ông là trường Huỳnh Cung (làng Cung Huỳnh, cạnh làng Văn huyện trên, nơi Chu An
làm nhà đọc sách). Ngôi trường nhỏ bé như vậy mà đã thu nạp hàng ngàn học sinh đến "chật cửa". Chính từ cơ sở Huỳnh
Cung nhỏ bé này, mà Chu An nổi tiếng, được vua mời về triều.

+ Nội dung giảng dạy của ông, ta không được biết một cách đầy đủ, nhưng chắc chắn là ông đã nỗ lực giảng giải học
thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều kiện cho lý thuyết Khổng Mạnh được dần dần độc tôn. Ta biết rằng, dưới thời Lý cũng
như thời Trần, đạo Phật là quốc giáo. Nhiều vị vua đi sâu vào Phật học và có những lý thuyết riêng cho Phật giáo Việt Nam.
Dân chúng cũng mộ Phật rất nhiều. Dành cho nho học một vị trí lớn trong giáo dục không phải là điều đơn giản, nhưng Chu
An đã làm được công việc này, khiến cho lớp vua quan sùng nho sau này phải biết ơn ông. Ta không thấy ông bài bác gì Phật
giáo, nhưng các học sinh ông đào tạo được ra nắm quyền chính sự lại bài bác Phật giáo rất nhiều. Bài Phật để tôn Nho, tôn
Nho là theo đúng phương hướng, ý chí người thầy của họ.
+ Về phương pháp giảng dạy, có lẽ Chu An đã có một phong cách đặc biệt, hấp dẫn mọi người và làm cho mọi người phải kính
nể, tôn phục. Chắc chắn ông đã tỏ ra rất gương mẫu, rất uy nghi, nên ai cũng thấy phải tự xếp mình dưới tầm ông một bậc hoặc
nhiều bậc. Tài liệu xưa còn kể lại, ông rất nghiêm nghị. Những học trò cũ đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát
về thăm ông, vẫn phải khép nép giữ gìn, và khi có điều gì chưa ổn, vẫn cứ bị ông quát mắng. Sự nghiêm minh này lại khiến
cho thầy Chu Văn An được học trò kính mến hơn.
+ Có câu chuyện huyền thoại rằng ông có người học trò vốn là thuỷ thần, đã biến hình để xin được vào trường học của ông.
Câu chuyện khó tin, nhưng lại bộc lộ được một sự thật: Chu An đã có cái đức cái tài của ông thầy. Đức và tài ấy khiến thuỷ thần
cũng phải tìm đến để xin thụ giáo. Hơn ai hết, chỉ riêng ở Chu An mới có được câu chuyện về cái đạo đức siêu trần này. Phải
thấy như thế, mới hiểu được vì sao mà chung quanh thầy giáo Chu An đã được điểm tô bằng nhiều chuyện hoang đường.
+ Còn có một số tài liệu cho biết thêm rằng Chu An cũng là một nhà nghiên cứu đông y, đã biên soạn cuốn Y học yếu giải,
Tập chú di biên, sách Thanh Trì Quang Liệt Chu thị di thư cũng nói như vậy. Vấn đề này còn phải được thẩm tra thêm.


Ngay từ hồi Chu An đang sống, cả nước như đã nhất trí ca ngợi phẩm chất thanh cao tuyệt vời của ông, đã đồng tình tôn
ông là người thầy vĩ đại. Triều đình phải đưa ông vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày
xưa. Tài đức của ông được mọi người đồng ý như sự đánh giá của Trần Nguyên Đán: nhờ có ông mà bể học xoay làn sóng,
phong tục trở lại thuần hậu. Người dân vùng quê ông thờ ông làm Thành hoàng và gọi là đức Thánh Chu. Việt Nam có những
thánh võ như Thánh Gióng, Thánh Trần, thì cũng phải có thánh văn. Thánh văn là một nhà giáo và là thầy Chu An. Những di
tích trong nước có liên quan đến ông đều gắn với uy danh người thầy giáo: đền Thanh Liệt, đền Huỳnh Cung, đền Văn Điển,
đền Phượng Sơn, Mả Thuồng Luồng, Đầm Mực, Lân Đàm, v.v… Vị trí của ông trong lịch sử giáo dục Việt Nam là hoàn toàn
khẳng định.

C


VĂN BIA Về CHU AN
ái đức của bậc tiên triết, dân muốn sáng tỏ, ắt phải tế tự, đó là cái đạo từ xưa. Thánh triều ta tôn trọng tế tự, Văn Miếu
thờ những nhà nho có đức qua các đời, được liệt vào tả hữu. Bởi vậy mà có Trần Tử, Chu Tử được thờ, biểu hiện đức

hiền.
ôi! Cái sáng của đức, không ở chỗ ẩn cư hãy hiển đạt, nếu không giữ được mẫu mực trí nhân dũng thì dân chẳng ưa. Tiên
sinh sự học tinh tuý mà giữ lấy điều cốt yếu, nghiêm khắc tiết hạnh, đúng mực thẳng thắn. Cái đạo của ông, dùng đến thì hoạt
động, bỏ đi thì ẩn cư, tiến thoái có mức độ, y thái thuần khiết, chính xác không bỏ được.
Lúc đầu ông dạy học ở Cung Hoàng, tự đặt hiệu là Tiều ẩn. Khi được vời làm quan Tư nghiệp, quan Tể tướng Trần Nguyên
Đán mừng nói rằng: Thái Sơn, Bắc Đẩu trong trường học, nay đã có người rồi?
Dụ Tông bê tha bỏ việc nước, bọn tay chân hoành hành, tiên sinh liền bật lên dâng Thất trảm sớ, không được trả lời, ông
biết lời mình không được dùng, cái đạo không được thực hành, khó trừ được cái nạn tiểu nhân, nhà Trần không gượng lên,
cuối cùng sẽ mất thôi. Nhà Trần sắp mất, không nỡ nhìn sự nguy nan, huỷ diệt cả triều đình, ông bèn về ẩn cư ở núi Phượng
Hoàng, sống nhàn dạt. Tuy sống cuộc sống ẩn dật ngoài cuộc đời, lòng ông vẫn không lúc nào quên nhà Trần. Thơ ông thường
ngâm vịnh vẫn biểu lộ ý ấy. Những bài như Thái lăng, Miết trì vẫn tỏ rõ nỗi thương nhớ kinh đô. Bởi vậy mỗi khi có triều hội,
ông vẫn về chầu. Nhưng vua mời ông giữ việc chính sự, ông từ chối mà về.
Nghệ Hoàng khôi phục nhà Trần, ông liền xuống núi về kinh yết kiến, rồi không chịu phong chức tước mà trở về, quan
Chương Túc Trần Nguyên Đán có làm thơ tặng.
ông lại về núi ẩn, làm sáng đạo kẻ hiền, hiếu cổ hậu kim, như thế cho đến hết cả đời.


ông mất, được tặng tên thuỵ là Văn Trinh Công, được thờ phụ ở Văn Miếu. Văn là sự biểu hiện bên ngoài của đức. Trinh là
sự kiên trinh chính trực vậy! Bàn về đức, tìm dấu vết, chẳng phải là nên chăng?
Sách ông viết có Tứ thư thuyết ước, nay không còn. Học trò của ông như Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh đều giữ được học
thuyết của thầy, bài bác nhà Phật, ta biết được là nhờ mấy bài của họ để lại.
ôi! Tiến thì làm cho nước mạnh, thoái thì lập được mẫu mực cho kẻ sĩ, sự tích của ông còn trong khoảng mờ mịt, khiến cho
kẻ trên lúc bấy giờ sợ lời ông mà vẫn phải làm rõ thân thế ông, vứt đạo ông mà không thể không làm sáng cái đức của ông,
không phải là người trí nhân dũng trong thiên hạ thì ai có thể được như vậy? Những kẻ sĩ đương thời, mong được sáng theo
mà bước theo. Nhà Trần mất, các vị tiền bối như Trần Trung Thế, Bùi Mộng Hòa 1 đều lấy khí tiết tự phấn dũng. Những người

có phong thái quật cường như vậy, chẳng phải là gương cho kẻ mềm yếu lập chí đấy chăng. Cái đức người hiền ấy, khiến cho
người ta kế tiếp bước theo, thảnh thơi ở chốn học rộng mà giữ lễ, đó chẳng phải là người không theo Phật mà tiên tri giác, sau
giác ngộ lại giác ngộ thêm đấy? Tự nhiên được liệt vào thứ tự thờ ở Văn Miếu, há có thể thấy được? Kẻ sinh sau như chúng
ta, đọc thơ ông mà như thấy ông, sấp ngửa vẫn không mất chất, không phải tiên sinh thì còn ai?
Song chỗ ông ẩn cư ở núi Phượng không để văn lại. Ngày gần đây, ông Hiến sát họ Lê, người Bắc Giang, theo lệnh ông
Tham tụng Bùi Tồn Am, lập đá làm bia, đến nay vẫn còn 2. Nơi đây thông reo quế rậm, xuân ấm thu tốt nhìn xa nhìn gần đều
làm người ta cảm động tâm hồn. Do đó, ông Trung Thuận đại phu, án sát sứ Hải Dương là Định Phủ Nguyễn Bảo 1 người
Châu ái (Thanh Hoá), lúc làm quan ở đó đã thăm dò, ngẩng trông thấy di tích tiêu điều, bèn về bàn với đồng liêu thuộc hạ,
xây đền thờ ngay trên đất ấy. Qua mấy tháng đền xây xong, sắm đủ ruộng thờ, đồ thờ. Nói rằng không dám xa xỉ, cũng không
dám thô lậu vậy!
Đền thờ này sẽ là nơi thờ phụng ông, không bỏ mất cái đẹp còn lại của ông. Lấy đó mà nêu cao chế độ của triều đình, tỏ rõ
cái đức về sau, lại nghĩ ông để lại nhiều tác phẩm, người đời sau cũng viết nhiều về ông, bởi vậy sưu tầm ở các nơi về hành
trạng, thư sớ và thơ, tuyển chép lại. Những tác phẩm nay không còn, thì chủ yếu dựa vào sử đời Trần, lấy các sách khác tham
khảo phụ. Thuật lại hành trạng làm Tập I; còn như thi tập truyền lại, cùng các thơ tặng, luận ký, các sách chép về các đền biên
1

. Trần Trung Thế: Có lẽ là Trần Đình Thâm, giả điếc, không ra làm việc với Hồ Quý Ly. Bùi Mộng Hoà: Người đã dâng sớ lên Trần Nghệ Tông, vạch tội Hồ Quý Ly
và sau đó bỏ quan, không làm việc với nhà Trần nữa.
2

. Hiến sát họ Lê: Tức Lê Duy Đản, người dựng cột đá trong núi Phượng Hoàng để tôn vinh Chu An.

- Bùi Tồn Am: Tức Bùi Huy Bích.
1

. Nguyễn Bảo: Còn có tên là Nguyễn Thu, quê ở Nông Cống, Thanh Hóa, đỗ cử nhân, làm quan án sát ở Hải Dương, viết cuốn Phượng Sơn từ chí lược, ghi chép
về Chu An, và dựng lại đền. Đền dựng xong, Nguyễn Bảo mời Ngô Thế Vinh làm bài ký, khắc vào bia, tức là bài trên này.


lại thành Tập II và Tập III. Đồng thời các bài về hành trạng đều cho cất ở đền, gọi là "vô vong tam hiệp" "ba tráp không

quên". Sau đó viết thư cho Khúc Giang Ngô Thế Vinh2, mới làm bài ký, khắc vào bia đá.
ôi! Cái đức của Văn Trinh tiên sinh, nay vì nghĩa xây đền. Vinh này thiển lậu, sao có thể thuật lại được. Chỉ vì lòng riêng hâm
mộ, không thể chỉ để trong lòng, nên kính cẩn viết bài ký này. Lại làm thêm bài minh rằng:
Núi nào cao hơn
Vòi vọi Phượng Hoàng.
Vực nào sâu hơn
Cuồn cuộn Thanh Lương.
Chỉ có hiền nhân.
Mọi người học tập.
Học thành đạo cao
ân hành độc lập.
Trước có cùng quý.
Đức không cô lập.
Trăng sáng cùng soi.
Tiết trong phải học.
Cơ nghiệp nhà Trần.
Việc giao làm gấp.
Xán lạn hào quang,
Báo ơn đền lập.
Lời quý cẩm nang.
Hiện ra nhà học.
2

. Ngô Thế Vinh: Có hiệu là Trúc Đường và Dương Đình (1802-1856). Đỗ tiến sĩ năm 1829, quê ở huyện Nam Trực (Nam Định). Ông cũng là một thầy giáo danh
tiếng.


Không quên đức này,
Để nêu phẩm hạnh.
Chót vót đền núi

Dài cùng gió mây.
Xây trên núi cao.
Muôn đời bất hủ.
(Theo tập Chu Văn Trinh tiên sinh hành trạng.
VHV 1292 KHXH - Bản dịch của Trần Lê Sáng)

2. HàNH TRạNG CHU VĂN TRINH TIÊN SINH1

C

hu Văn Trinh là nho tông nước Việt, văn hạnh bình sinh của ông, đáng truyền thuật sáng chói. Bảo ngày đọc sử, khi đọc
đến chỗ viết về ông, thường không khỏi cúi đầu bồi hồi chiêm ngưỡng. Song trong lòng nghĩ ngợi, tiếc là sử chép sơ
lược quá, khiến cho người sau vì muốn biết nhiều hơn mà giận lòng.
Xưa Lý Bật đời Đường, việc xuất xử, tiến thoái của ông, nói rằng không vết, nhưng chưa có tình tiết cảm động mạnh
người ta. Đường sử chép về ông, nói rằng lúc đầu ẩn cư, ba lần mời không ra. Giữa đời dời Đông Đô, lại ra làm quan, cuối
đời từ chức về nhà. Thế mà đời sau nêu ông lên không biết chán, những lời ông nói được lưu truyền trong dân, ghi chép kỹ
càng mãi không thôi! Vì vậy, khiến sự việc bình sinh của ông, rõ ràng để khảo. Điều đó không những các bậc quân tử lấy
làm mừng, mà mọi người đều mừng.
1

. Tác giả bài viết này là Nguyễn Bảo. Bài viết này vừa tả tóm tắt hành trạng của Chu An, vừa giới thiệu cách biên soạn cuốn sách Phượng Sơn từ chí lược của

Nguyễn Bảo.


Chu tiên sinh của nước ta, thành tựu có ảnh hưởng đến học nghiệp về sau. ông ra sức bảo vệ chính đạo, tránh xa tà thuyết.
Việc làm thầy của ông thì tôn nghiêm, việc chung thì thành tâm trung quân ái quốc, đến mức dâng sớ Thất trảm, muốn làm
sạch chính đạo, chỉnh đốn cương kỷ, không phải là người vĩ đại thì sao làm được như vậy? ông giữ việc học chân chính, đạo
đức thuần tuý, đến độ gan trung thành, phế phủ đạo nghĩa, sao ta lại bỏ quên những cái ấy được!
ôi! Người ta giận là sự nghiệp không đáng truyền, nếu đáng truyền, sao lại ghi chép quá sơ lược. Một con người đứng đầu mà

sử ghi không tường tận bằng một phần mười sử nhà Đường! Cả quá trình được mời, dâng sớ, treo mũ, dạy học cho đến chết, chỉ
ghi chung chung sơ sài, không có đại thư, đặc thư, nhằm nêu cao đạo đức của ông. Đến như bài sớ Thất trảm cũng chẳng chép
lại chữ nào; Tứ thư thuyết ước cũng không còn một mảnh. Năm tháng ngày sinh, ngày chết của ông cũng không khảo cứu được,
đó chẳng phải là sử ghi quá sơ lược đấy ư?
Tướng công Bùi Tồn Am cùng các nhà nho có ý tìm thuật sự tích và nêu gương Chu Văn An, chép lại thơ ông, để lại chứng
cớ cho ngày nay. ông lại tự viết bài ký ở đền Văn Điển, nói rằng: học giả mong được theo đạo thánh, mời tiên sinh làm chuẩn.
ôi! Sự học hưng khởi biểu hiện ở sự làm sáng tỏ người trước, khuyến khích người sau, đến như vậy sao? Cho nên trước đây
quan Tiến sĩ họ Lê1, người Bắc Giang đến Hải Dương, lập tức ra lệnh tìm kiếm nơi ẩn cư của Chu Văn Trinh, lập bia ghi chữ,
không hề mỏi mệt mà bỏ dở. ôi, đó có phải là vì người đồng hương mà thích thú đâu!
Bảo tôi may gặp thời, đến giờ đất này, chính mắt nhìn thấy Miết Trì ở Phượng Sơn là nơi ông ẩn cư xưa kia; cúi xuống
nhặt được sách, ngẩng lên nhìn thấy mây xanh, ngày thường xúc tiếp mà trong lòng hâm mộ; lòng có sở nguyện mà không
dám làm một mình, bèn thương nghị việc quyên góp, lập đền ngay trên chỗ ẩn xưa để thờ, chẳng nói được là suy tôn ông,
nhưng cũng là sự nhớ lại chuyện Bạch Lộc xưa2 để tỏ lòng riêng. Một là để không quên đi ý của quan Tể tướng họ Bùi trước
đây, hai là muốn viết hành trạng, thêm vào cho sử sách để sự nghiệp của ông được bất hủ. Tôi không dám lật ngược ý các sử
gia, lập truyện cho tiên sinh. Biết rằng làm hành trạng riêng cho tiên sinh, từ xưa đứt đoạn cho đến nay là khó, nhưng không
làm thế thì làm sao đáp ứng được lòng thành của tiền bối họ Bùi trông cậy ở đời sau!
Cho nên, tôi lấy sử nhà Trần làm chính, tham khảo thêm nghị luận của các nhà, biên tập thành hành trạng của tiên sinh làm
tập thứ nhất; sau đó chép thơ tiên sinh làm tập thứ hai; sau cùng chép các thơ tặng, luận thuyết của các nhà, cùng các bài bi ký
1

. Tiến sĩ họ Lê: Tức Lê Duy Đản, đã chú ở trên.

2

. ở Trung Quốc, đời Đường, Lý Bật về ẩn cư chuyên nuôi hươu trắng. Nhà ông gọi là động Bạch Lộc, cũng dựng cả trường học. Nói Bạch Lộc được dùng làm

hình tượng để chỉ nơi ở ẩn của thầy Chu.


làm tập thứ ba. Lại cho vẽ bản đồ các đền thờ, đóng thành tập, đó là tập thứ tư. Qua mấy lần đưa cho các bậc quân tử xem xét,

được một tập cành ngọn về hành trạng của tiên sinh. Đối với lòng ngưỡng mộ, tôn sùng Chu tiên sinh của người đời sau, có lẽ
tôi tránh được tội cầu an vậy!
Năm tháng sinh, chết của tiên sinh phải khảo rộng riêng; còn như bài Thất trảm sớ, bộ Tứ thư thuyết ước thì đại nghĩa
vẫn còn và là cách ngôn dạy ý hạnh cho người ta hàng ngày, đại ý nó phần nhiều đáng truyền. Đến như việc có vật thần,
được thần ủng hộ, Bảo này biết chuyện đó mờ tỏ tuỳ thời, có nguyên nhân nào đó mà lưu truyền rộng ra, nó cùng di tích núi
này được truyền cùng cõi, không bị huỷ diệt trong đám cây cỏ rậm rạp mịt mờ. Như truyện Miết thần (thần Giải) chẳng hạn.
Người ấp Quang Liệt truyền rằng khi tiên sinh dạy học, học trò rất đông; có một người hàng ngày đến nghe giảng, tiên sinh
khen anh chăm học mà không biết người ở đâu. Tiên sinh bèn bảo người theo anh ta, xem về đâu. Thấy anh ta đến bên đầm
Cung Hoàng thì biến mất, qua đó biết anh ta là thủy thần. Gặp năm đại hạn, sau khi buổi học tan, tiên sinh gặp anh học trò
kia, bảo: "Trời ra tai hạn hán, thực ra không dám trái ý, nhưng mắt thấy dân địa phương khổ cực không khỏi chạnh lòng,
nếu anh có pháp thuật, anh giúp thầy cứu dân?". Người học trò kia không dám trái lệnh thầy, bèn mài mực đặc, ra sân hòa
với nước mà vẩy. Một chốc quả nhiên mưa to, anh từ biệt thầy ra về. Hôm sau có một con giải to lớn chết, nổi trên hồ. Tiên
sinh khóc thảm thiết, sai người thu lượm chôn cất, nay mộ vẫn còn.

* THầY LƯƠNG ĐắC BằNG
(1471-1521)

ô

ng quê ở làng Hội Trào, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, đỗ bảng nhãn từ năm 1499, làm quan đến Thượng thư bộ
Lại, tước Đôn trung bá, dưới triều vua Lê Tương Dực. Chức quan này mãi cuối đời ông mới nhận, thời gian làm quan dài
nhất là ở chức Thị lang. Nhưng ông lại luôn luôn viện cớ xin nghỉ ở quê nhà để chăm lo dạy học.
ông nổi tiếng do tài học thời thanh thiếu niên, đáng lẽ có thể đỗ trạng nguyên, nhưng phải nhường vị trí này cho Đỗ Lý
Khiêm, để đứng vào hàng bảng nhãn. Sau đó, vua cho gọi các vị tân khoa vào, bắt làm bài ứng chế đầu đề là Ngũ vương
trướng (Cái màn của 5 vị thân vương). Lương Đắc Bằng được xếp hạng ưu: bài hay hơn cả bài của trạng nguyên.


Tiếng tăm của Lương Đắc Bằng còn được vang dội nhờ một bài văn khác: bài hịch kể tội Lê Uy Mục. ông vua này là một
bạo chúa, gây tác hại cho đất nước rất nhiều. Hoàng thân Lê Oanh đã nhờ Lương Đắc Bằng làm hịch dụ các đại thần và dân
chúng nổi lên lật đổ Uy Mục. Lời hịch của ông Lương rất quyết liệt vạch trọng tội của tên vua này:

"Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần lữa đã 5 năm, giết hại người xương thịt, dìm hãm
các thần liêu. Bọn họ ngoại được tin dùng mà phường nuôi chó tung hoành làm bậy. Kẻ cương trực bị ruồng bỏ mà người trung
nghĩa ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi. Đánh thuế tỉ mỉ tiêu tiền
như bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính, bề tôi ngựa trâu, coi dân như rác, kiêu ngạo còn quá Ngụy Canh. Nhân dân nhức óc,
cả nước đau lòng...".
Nhờ có bài hịch này, Lê Oanh tập hợp được lực lượng đông đảo, chỉ trong mấy ngày, giết được Lê Uy Mục, lên làm vua,
tức là vua Lê Tương Dực. Lương Đắc Bằng đã làm quan bộ Lại, phò tá ông vua này. ông đã soạn cho nhà vua một kế sách gọi
là Sách trị bình gồm 14 chước, yêu cầu sửa sang chính sự.
Mười bốn chước ấy là:
1. Hết sức cảnh giới để dẹp điều tai dị
2. Hết lòng hiếu thảo để tỏ lòng trung
3. Xa thanh sắc để làm gốc cho sự chính tâm
4. Bỏ kẻ tà nịnh để trọng nguồn phong hoá
5. Dè dặt việc cho quan tước để cẩn thận về việc khuyến trừng
6. Tuyển bổ công bằng để đường làm quan được trong sạch
7. Tiêu dùng phải dè dặt để giữ thói kiệm ước
8. Khen thưởng những người có tiết nghĩa để trọng đạo cương thường
9. Cấm hối lộ để bỏ thói gian tham
10. Sửa sang võ bị để thế nước được vững
11. Kén chọn gián quan để cho người dám nói phấn khởi
12. Bớt việc phục dịch để thoả tình dân trông ngóng


13. Hiệu lệnh phải nhất định để thống nhất lòng bốn phương
14. Cẩn thận pháp độ để mở đường thịnh trị.
Những ý kiến trong bài hịch và trong 14 chước trị bình như vậy cũng có thể phần nào giúp ta hiểu quan điểm của Lương
Đắc Bằng với tư cách là một người thầy của vua, cũng là người thầy của cả nước. Nhưng ông Lương không thực hiện được
ước mơ của mình... Những ngày đầu, vua Lê Tương Dực còn tỏ ra biết chăm lo, biết giữ gìn tư cách, coi sóc triều chính đúng
mực. Sau đó, bị tha hoá dần, vua cũng trở nên hoang dâm, tàn bạo. Lương Đắc Bằng bất bình, dù được cất nhắc lên làm
Thượng thư bộ Lại, ông cũng cáo về và tiếp tục mở trường dạy học ngay trên quê mình.

Trường học của thầy Lương Đắc Bằng ở xã Hội Triều (xưa thuộc giáp Cổ Hoằng, cũng là trấn Hội Triều,
vì ở ngay trên cửa Hới, huyện Hoằng Hoá). Cửa Hới thường được gọi là Lạch Trào, nhiều sóng gió, thuyền bè khó ra vào nhưng
là nơi tụ hội, tấp nập xưa nay. Đất Hoằng Hoá cũng có tiếng ham văn chương, chuộng nghề học (Có câu phương ngôn Thi
Hoằng Hoá, khoá Đông Sơn). Gia đình ông nổi tiếng học giỏi, từ Lương Đắc Bằng đến con là Lương Hữu Khánh, cháu là
Lương Khiêm Hanh đều nổi tiếng thần đồng. Do đó, trường học của ông bảng nhãn Lương Đắc Bằng rất đông học sinh theo
học. Có cả những thanh niên ở những trấn, những huyện khác trong nước xin về thụ giáo thầy Lương, trong đó có Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Thừa Hưu ở mãi ngoài xứ Bắc. Hai người này và Bùi Doãn Đốc cùng đỗ tiến sĩ cập đệ năm 1535, mà Nguyễn
Bỉnh Khiêm trúng trạng nguyên.
Tài liệu truyền văn (cũng có vài chỗ ghi trong sách vở) thường nói là ông Lương đã dạy cho Nguyễn Bỉnh Khiêm về
những vấn đề triết học và huyền học. Sách Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú ghi rõ: "ông Lương Đắc Bằng đi sứ
Minh, được bộ Thái ất thần kinh, đem truyền dạy cho Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông Nguyễn hiểu thấu được lẽ huyền vi và nắm
được chân truyền". Nhưng ngày nay, ta không thể biết được Lương Đắc Bằng đã dạy dỗ học trò như thế nào, vì không có bài
giảng nào của ông để lại. Thái ất thần kinh có thể là bộ sách từ Kinh Dịch mà ra. Lý luận nội dung của Dịch học từ xưa đến
nay đã được nghiên cứu nhiều, Lương Đắc Bằng đã tiếp nhận và phát triển ra sao không thể xác định được. Tìm hiểu trò, để
có khái niệm qua về thầy, ta chỉ biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này được học giả trong nước và ngoài nước coi là người nắm
chắc được lý học (An Nam lý học hữu trình tuyền). Vinh dự ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhờ Lương Đắc Bằng mà có.
Còn một nét có thể lưu ý trong tư cách người thầy của Lương Đắc Bằng. Trong giảng dạy, có thể ông đã có ý thức chọn
học trò và gửi gắm hy vọng vào người học trò mà ông rèn luyện. Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với ông, lại được ông ủy thác
việc chăm chút cho đứa con trai của mình. Vẫn sách Lịch triều hiến chương ghi rõ: "Lương Hữu Khánh lúc bé vâng lời cha mẹ


dặn lại, theo học trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm nên tinh thông về thuật số". Chi tiết đơn giản này, chứng minh tình nghĩa
thầy trò giữa Lương Đắc Bằng - Nguyễn Bỉnh Khiêm thật là sâu sắc.


* THầY NGUYễN BỉNH KHIÊM
(1491-1585)

ô


ng còn có tên là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng). Cha ông là Nguyễn Văn Định. Mẹ ông là con gái thượng thư Nhữ Văn Lan, một phụ nữ có học thức, thông thạo
nho y lý số.
Từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với mẹ, sau theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng (Thanh Hoá). Mãi đến năm 1535,
ông mới đi thi, đỗ trạng nguyên, ra làm quan triều Mạc đến chức Tả thị lang bộ Lại. ông dâng sớ hạch tội 18 viên lộng thần,
nhưng không được chấp nhận, bèn xin từ quan (1542). ít lâu sau, vua Mạc lại mời ông ra, thăng đến chức Thượng thư bộ Lại,
Thái phó, tước Trình tuyền hầu, rồi Trình quốc công. Vì vậy người đời thường gọi ông là Trạng Trình. Năm 70 tuổi, ông về
hẳn cho đến khi mất.
Những năm từ quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm lập trường dạy học, dựng am Bạch Vân, tự xưng là Bạch Vân cư sĩ. Học trò ông

nhiều
người
nổi
tiếng
về
võ như Nguyễn Quyện, về văn như Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, v.v… ông cũng lập quán ở làng, gọi
là quán Trung Tân, làm chỗ đàm đạo với người già ở địa phương, cùng các quan khách xa gần, bàn bạc về đạo đức.
ông được người đương thời và các thế hệ về sau tôn kính như bậc thầy, xem ông là cây đại thụ rợp bóng cả thế kỷ XVI.
Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Rồi cả triều Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe
đối lập nhau, cũng đều tôn kính ông, sai người đến xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đều bày vẽ
cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như một bậc đại hiền, bậc tiên tri.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác giả lớn. Tác phẩm của ông, chỉ còn thấy có hai bài văn xuôi và hai tập thơ chữ Hán, chữ
Việt: Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi. ở phần thơ chữ Hán, ta thấy rõ nội dung triết học theo Kinh Dịch và lý


học, với nhiều luận điểm về biến dịch tuần hoàn, lý thuyết âm dương. ở phần thơ chữ Việt, ông có nhiều bài phê phán thói đời,
và những bài ca ngợi, hoà hợp với thiên nhiên. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi rõ lòng yêu dân, thương nước, lo đời và đức
tính thanh cao, phong thái thoát tục. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là một địa trung tiên (ông tiên dưới cõi trần), một tiểu
thần tiên (ông tiên nho nhỏ), đứng trên cuộc đời xâu xé.
Chung quanh Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều giai thoại, phần lớn nói về tài tiên tri của ông. Các đời sau thường truyền tụng

những bài thơ, những câu ca dao cho là của Trạng Trình làm, báo trước những chuyện xảy ra hàng trăm năm sau. Những bài
ấy được ghi vào tập Trình quốc công sấm ký, tương truyền do ông để lại. Học sinh các thế hệ tôn ông với danh hiệu Tuyết
Giang phu tử. Còn nhân dân đã xem ông là một vị tiên, một ông thầy, một ông trạng: Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất xứng đáng là một vị thầy. ông thực sự có mở trường, có nhiều học trò và nhất là có đường lối và
phương pháp giáo dục riêng. Nếu Nguyễn Trãi là người cô đúc luân lý, đạo đức của truyền thống giáo dục Việt Nam, thì
Nguyễn Bỉnh Khiêm lại là người phát biểu cái triết học của truyền thống ấy. Thơ nôm của ông toàn diễn đạt những quan niệm
triết lý tự phát của nhân dân lao động và như đã hình thành ra một tư tưởng duy vật thực tiễn. Trong triết học Việt Nam, có lẽ
nên dành cho ông cái vinh dự đã nêu ra được một số phạm trù biện chứng như đầy vơi, thua được, họa phúc, dữ lành. ông đã
nhờ tư tưởng và kinh nghiệm của quần chúng mà khám phá ra những mâu thuẫn và tương quan trong sự vật. Từ sự khám phá
ấy, ông chỉ ra được đường đi nước bước cho người đương thời. Chính vì vậy mà mọi tập đoàn phong kiến, quân phiệt như Lê,
Mạc, Trịnh, Nguyễn dù xung đột nhau, tranh chấp nhau vẫn phải tìm đến ông để xin những lời chỉ giáo. Nhân dân thì thấy ông
nắm được lẽ biến dịch chiêm nghiệm qua cuộc sống, thừa nhận ông là bậc tôn sư. Những câu chuyện chung quanh cái tài tiên
tri tiên giác của ông, có lẽ cần phải hiểu theo khía cạnh đó.
Và bản thân, cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm lại là một bài học cao cả, đẹp đẽ. Người ta đục, ông trong; người ta tối, ông
sáng. ông nói đến chữ nhàn, song cái nhàn của ông không tách rời với thế sự. ông tránh đời nhưng khi cần thiết vẫn ra làm
việc đời. ông lên tiếng phê phán xã hội, chỉ trích thế lực của đồng tiền và làm đúng như điều mình nói. ông không bo bo theo
một chủ trương mù quáng. Làm tôi nhà Lê, vẫn giúp Mạc, vẫn bày vẽ cho Trịnh, Nguyễn một cách thung dung, không một
phe phái nào có thể chê cười hay mai mỉa. Tác dụng của ông đối với lịch sử có ý nghĩa giáo dục, chính là chỗ đó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy rất nhiều học trò. Trường học của ông có tên là trường Bạch Vân. Học trò của ông đều là những
người có tiếng trong chính trường cũng như trong văn học. Tuy nhiên phương pháp dạy của ông, nay chỉ truyền qua một số
câu chuyện giai thoại thường được giải thích là ông không muốn để lộ thiên cơ, nên chỉ dạy cho người nghe những lời bóng
gió. Có lẽ ta nên xem đó là một phương pháp truyền thụ đặc biệt thì đúng hơn. Lối dạy tâm truyền thường có nhiều biện pháp
gợi mở trí khôn, đòi hỏi người muốn tiếp thu phải động não, phải tự mình tìm ra lời giải cho bài toán... và ở đây là bài toán


cuộc đời, bài toán tự thân, ứng xử. Dạy như vậy, người thầy sẽ không phải là kẻ độc đoán, không biến học sinh thành người
thụ động giáo điều. Thực tế, qua các giai thoại, ta thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho các môn đồ - hoặc những người đến lĩnh
giáo - phải trở lại với thực tế hoàn cảnh, để tự thân tìm lấy một giải pháp, một lối đi, chứ ông không bao giờ bắt họ phải theo
những lời chỉ giáo bó buộc.



Tieồu sửỷ vaứ giai thoaùi

BA HìNH TƯợNG Về NGUYễN BỉNH KHIÊM
TRONG CảM QUAN FOLKLORE1

K

hông phải bất cứ một danh nhân lịch sử nào cũng có cái vinh hạnh được đi vào thế giới folklore. Và những người có điều
may mắn ấy cũng có những con đường khác nhau để trở thành bất tử. Có người có tác phẩm sống cùng quần chúng suốt
bao nhiêu thế hệ, ở nhiều địa hạt, nhiều mức độ khác nhau. Có người gia nhập hẳn vào hàng ngũ nghệ nhân, chính họ đã làm
giàu cho kho tàng folklore, nhất là cho các thể loại ca dao đối đáp, dân ca giao duyên tình tứ hay trí tuệ. Lại có người được quen
thuộc chủ yếu là nhờ những giai thoại về cuộc đời hay về phong cách. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một danh nhân văn hoá thế kỷ XVI
cũng đã đi vào nền văn hoá dân gian Việt Nam. Dân gian tiếp nhận ông theo một cảm quan, một hưởng ứng khác hơn, không
giống trường hợp nào so với một số danh nhân khác.
1. Trong bối cảnh thế kỷ XVI, có thể thấy ngay rằng nhân dân đang có một sự đợi chờ. ở phần sâu kín nhất của nguyện
vọng tâm tư, sự đợi chờ này là hướng về một con người siêu việt, một vị cứu tinh. Con người ấy, lúc này nếu chưa có được thì
lại phải hướng ước mong về một người ít nhất có thể làm được chỗ dựa tinh thần, làm cho nhân dân thông cảm được. Xưa kia
người ta đã "Đêm ngày trông thánh" (Thiên Nam ngữ lục) thì giờ đây có lẽ người ta "trông hiền". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xuất
hiện, và lập tức được hoan nghênh. Người ta thấy ông quả là bậc hiền nhân, mang tư cách là một ông thầy, đáng cho họ yêu
thương, tín nhiệm.
Cũng dễ dàng cho rằng nói như vậy là quá thực thà như chàng La Palisse. Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn là thầy giáo ở Bạch
Vân am. ông lại được các triều đình phe phái tôn sùng, nhóm nào cũng đến hỏi han, thỉnh giáo. Bảo ông là người thầy của
thời đại, hay như cách nói văn vẻ đã được chấp nhận: ông là cây đại thụ rợp bóng suốt thế kỷ XVI, thì có gì đáng gọi là phát
hiện công phu? Thực ra, không phải chỉ có thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người thầy, nhưng là người thầy đặc biệt, người
thầy theo cảm quan folklore của quần chúng, chứ không phải chỉ là vị tôn sư của làng Nho. Vấn đề cũng khá tế nhị.
1

. Văn hóa dân gian.



Nhân dân ta vốn có truyền thống trọng thầy. Những câu ca dao, tục ngữ ca ngợi vai trò người thầy có rất nhiều, không cần
phải nhắc lại. Những chuyện tiếu lâm chế giễu thầy đồ, cũng là một cách gián tiếp biểu lộ yêu cầu của dân về phẩm chất
người thầy. ông thầy trong tâm lý quần chúng, trước hết phải là con người có đạo đức thanh cao, trong sạch, không vướng
chút ô trọc của thói đời, thực sự coi khinh cả vinh hoa phú quý. Những nhà khoa bảng trước đây, bỏ quan về dạy học, thường
được bà con kính trọng, bởi vì nhân dân thấy họ thực sự tiêu biểu cho khí tiết, cho đạo đức cộng đồng. Chốn quyền môn
phong kiến không bao giờ chứa nổi đức độ của người thầy, cho nên ông thầy nào cũng "bực mình đạp chốn cửa quyền mà ra".
Lịch sử đã sẵn có tấm gương Chu An với bài "Thất trảm sớ" - nghĩa động càn khôn. Nay lại đến Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ
hạch tội 18 đứa lộng thần, để rồi quay về "cố quận". Nội một cái tiết tháo ấy đã đủ cho quần chúng tôn vinh. Huống chi thầy
Khiêm nay trở về lại không chịu hoàn toàn làm con người ẩn sĩ. ông về am chứ không về núi và một ngày của Nguyễn Bỉnh
Khiêm không phải chỉ có ở am, ở lớp, mà còn ở quán, ở bến, ở chỗ dễ dàng tiếp xúc với các bô lão, các nông phu. Am Bạch
Vân dành cho các môn đồ, quán Trung Tân dành cho tân khách. Và ở am hay ở quán, người ta vẫn chỉ thấy một con người
thành thực sống trong cảnh bình dị, quen với nền nếp dân tộc, phong tục quê mùa, luôn luôn bộc lộ niềm ưu tư với đại chúng.
Cái chí dù đổi đời mãn kiếp vẫn là cái chí lo nước thương đời không lay chuyển, mòn mỏi chút nào. Hương hỏa tam sinh chí
vị hôi là như thế.
Ai sống trong xã hội nông thôn xưa mới thấy hy vọng nhân dân đặt vào những ông thầy thật là bao trùm, to lớn. Không
phải thầy chỉ dạy chữ nghĩa, rèn cặp cho đứa trẻ nên người. Thầy còn là vị cố vấn cho toàn bộ cuộc sống. Đau ốm đến xin
thầy cắt thuốc, tang ma đến xin thầy chỉ vẽ, lễ tiết đến hỏi thầy nghi thức. Thậm chí người ta hỏi thầy cả giờ đi đứng, dựng
nhà, so tuổi, dựng vợ gả chồng, làm hộ các đơn từ kiện tụng. ông thầy gần như cuốn từ điển sống, mà là từ điển bách khoa. Có
lẽ quãng đời sống ở nông thôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là cuộc đời của ông thầy đa năng ấy. Ta không biết những chi
tiết cụ thể trong việc giao tiếp với nhân dân, nhưng thơ văn, nhất là thơ nôm của ông để lại, thì thấy rõ điều này. Bằng cái vốn
tục ngữ, ngạn ngữ phong phú của mình, ông đã cô đúc hộ người bình dân cả một pho triết lý về cuộc sống. ông nêu ra được
những phạm trù biện chứng, ông giáo dục đạo đức làm người, ông phê phán những thói hư tật xấu và trình bày một cách rất
bình dị, rõ ràng. Thật ra những điều ông nói quần chúng đã biết cả rồi. Công lao của ông là cô đúc lại, hệ thống hoá lại cái
triết lý bình dân của người bình dân sẵn có, nhưng khám phá sâu hơn, đầy đủ hơn và thiết thực hơn. Đó là nhờ ông biết liên
kết các hiện tượng, chọn lọc, đối chiếu làm nổi bật hiện trạng xã hội và xoáy sâu vào lòng người để thức tỉnh cái lương tri
đang bị cuộc sống xô bồ che lấp. Nhờ thế, quần chúng thấy ông quả là một ông thầy uyên bác, sâu sắc, đã có công cảnh tỉnh
họ, bày cho họ một lối ứng xử thích hợp với sự nhìn nhận của họ, sát sao với tầm vóc của họ. Biết được cách ứng xử ấy, quần
chúng có thể tồn tại giữa bao nhiêu cái mất còn của chế độ phong kiến đang lâm vào bước khủng hoảng suy vong. Khủng
hoảng càng kéo dài bao nhiêu thì thói đời lại lặp đi lặp lại những trò đảo điên đen bạc bấy nhiêu. Nhận xét của Nguyễn Bỉnh



Khiêm vốn đã gần gũi và thực tế lại trở nên có tầm khái quát sâu sắc, gần như là soi thấu ruột gan người đời. Quần chúng
càng thấy hâm mộ, đón chờ sự chỉ vẽ của ông. Người thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cảm quan folklore là như vậy.
2. Nét lớn trong bối cảnh xã hội lịch sử của đất nước ta vào thế kỷ XVI là lòng người điên đảo, đạo đức suy vi. Điều đó
đã đành một nhẽ, song còn có điều đáng lo lắng quan tâm hơn nữa là phải tìm cho ra con đường để bước tới. Không phải chỉ
có những người trí thức nho sĩ, những kẻ đang tìm mưu tính kế tiến thoái trong cuộc đấu tranh mới phải băn khoăn về
những hướng đi của đất nước. Nhân dân cũng lo lắng, cũng muốn được yên tâm về thời cuộc, về tương lai. Những chỉ vẽ
của ông thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm trên kia chỉ mới là ở mặt đạo đức hay sâu hơn là ở mặt triết học. Nhưng như vậy chưa đủ.
Giải bài toán cuộc đời đâu chỉ cần có những lời khuyên về luân lý, về phép xử thế tu thân dựa theo một lập trường nào đó
mà phải có cả những kiến giải khoa học nữa. Vào thời đại ấy, chúng ta chưa có khái niệm khoa học, nhưng những vấn đề có
tính cách khoa học thì lúc nào chẳng là thiết thực với cõi nhân sinh. Trong cái rối ren, lộn xộn của thế cuộc lúc bấy giờ, tìm
cho ra một hướng đi, quả là rất khó. Sự so sánh lịch sử có thể cho đời sau thông cảm với nỗi bế tắc của thế kỷ XVI này.
Trước kia, dù thời cuộc lộn nhào đến đâu, lịch sử như vẫn hé ra một hướng đi, lấp ló sau màn sương vẩn đục. Trong mười
hai sứ quân cát cứ, đã có Đinh Bộ Lĩnh. Suốt mười năm Minh thuộc, đã xuất hiện tiếng đồn về chúa Lam Sơn. Còn giờ đây?
Tất nhiên là ai cũng muốn hoà bình, nhưng hoà bình làm sao? Ai cũng mong thống nhất, nhưng ai sẽ là người thống nhất?
Con người mà lịch sử đợi chờ vẫn chưa có. Câu giải đáp vẫn còn để trống, chưa ai có thể đưa ra. Vấn đề cần một kiến giải
khoa học đặt ra là như vậy. Cố nhiên mỗi tầng lớp có một yêu cầu kiến giải khác nhau. Những nhóm quân phiệt đang muốn
tìm chúa mà thờ, điều họ cần thiết là một kiến giải về chiến lược quốc gia, chiến lược thời thế. Họ phải tìm đến một người
họ cho là uyên bác nhất, và có đủ tư cách nhất, để giúp giải bài toán đua tranh. Đã có Nguyễn Bỉnh Khiêm! Uyên bác nhất
thì rõ ràng, vì Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng nguyên, tiếng tăm lừng lẫy. Có tư cách nhất vì ông đã đứng ngoài vòng cương
toả, không thiên lệch với ai, không phù trợ ai (dù ông có nói nhiều về việc báo đáp công ơn vua Mạc), và không có ý định
diệt trừ ai. ông đứng ngoài, mà đứng cao, nên ông có thể nhìn được những cơ
vần chuyển biến. Kinh nghiệm nước ngoài cũng từng có những nhân vật như thế, chẳng hạn như chuyện Khổng Minh ở lều
tranh mà biết nhất định phải chia ba thiên hạ! Người ta đã hy vọng về Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế, nên đã đến hỏi ông. Và
quả thực những lời chỉ vẽ của ông đã có giá trị như những kiến giải khoa học khá thiết thực lúc bấy giờ, vì nó trở thành
hướng đi chiến lược cho từng con người và từng phe phái. Từng người, từng nhóm ấy cứ tưởng là ông đã vì họ mà bày cho
những mẹo mực để tồn tại hoặc để vươn lên, chứ họ không hiểu được rằng ông đã chỉ cho họ một con đường đi chung, con
đường đi khi đất nước chưa có khả năng thống nhất, chưa có người tiêu biểu để thu mọi mối giang sơn và nhất là con đường
đi ấy ít nhất cũng hạn chế được rất nhiều xung đột, đỡ được bao nhiêu cảnh đầu rơi máu chảy đau lòng. Có thể đó là một

kiến giải đúng đắn hơn cả lúc bấy giờ, một kiến giải thuộc tầm chiến lược.


Quần chúng lúc này cũng được biết, được nghe điều đó. Và như vậy là ở người thầy mà họ hằng mến thương tôn kính đồng
thời xuất hiện thêm bóng dáng của một nhân vật tài năng. Chẳng cần phải đi tìm những lời chỉ vẽ của ông cho những người,
những nhóm trên kia là xuất phát từ cơ sở nào, cũng chưa thể đánh giá dứt khoát là đúng hay sai, nhưng rõ ràng là có tác dụng
trước mắt khá cụ thể. Từ tác dụng ấy, họ hồn nhiên đánh giá, và cắt nghĩa nguyên nhân cũng hết sức hồn nhiên. Chỉ vẽ cho
người đời được đường đi nước bước mà đúng đến mức ấy thì quả thật là tài. Tài ấy là cái tài tiên tri, tiên đoán. Trong ký ức của
nhân dân đã sẵn có những câu chuyện về các ông trạng, không phải chỉ là những ông trạng chữ nghĩa, ông trạng oai nghiêm trên
ngựa bạch võng điều, mà là những ông trạng có tài biết trước, rất quen với dân chúng, rất hợp với khẩu vị người viết (chuyện
Trạng Lợn đã có từ đời Lê Thánh Tông). ông thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm này cũng đã có tài tiên tri như các trạng. Và chính ông
cũng đậu trạng cơ mà? Thêm hai ông trạng được hội nhập cùng trong một nhân vật: Trạng Trình là một vị tiên tri? Nguyễn Bỉnh
Khiêm trở thành trạng trong cảm quan folklore của nhân dân là như thế. Rồi với thời gian, với nhiều tưởng tượng hư cấu, với cả
ảnh hưởng của nhiều học thuyết hay Đạo giáo có nội dung tiên đoán, quần chúng đã tạo nên một Trạng Trình khác, sinh động
hơn mà cũng huyền bí và ly kỳ hơn, để tỏ lòng ngưỡng mộ đối với ông thầy đồng thời là ông trạng. Hàng trăm mẩu chuyện, từ
những chuyện liên quan đến người dân nghèo như "Cha con thằng Khả" cho tới chuyện quan Thượng thư Nguyễn Công Trứ
(Minh Mệnh thập tứ, thằng Trứ phá đền); từ chuyện tiếng gà gáy bên phòng Phùng Khắc Khoan đến chuyện toàn quyền Robin
ném bom Yên Bái, v.v… tất cả đều được ghép cho Nguyễn Bỉnh Khiêm để thoả trí tò mò, thoả lòng khao khát. Loại trừ những
điều dễ thấy của bọn làm nghề hay bọn theo hùa mê tín dị đoan thì phải thừa nhận rằng những tò mò và khao khát ở đây không
phải là không đáng chú ý. Nó chứng minh yêu cầu của quần chúng cần một kiến giải cho những vấn đề mắc mớ của họ. Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã cho họ một ít lời chỉ dẫn được họ chiêm nghiệm là đúng, là hợp lý, nên họ sẵn sàng quy tụ mọi khám phá bí mật
vô ngôn này cho cái tài tiên tri tiên giác của ông, đúc kết lại thành hình tượng trạng. Có thể nghiên cứu xem ông có đại diện cho
một ngành khoa học nào chưa có ở nước ta vào thời đại đó như ngành khoa học dự báo, ngành nghiên cứu chiến lược, v.v… hay
không? Song đó lại là một vấn đề khác.
3. Còn một hình ảnh mà đại chúng đương thời nhận thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa, dẫu không sắc nét, không phổ cập hay
biến hoá thành những giai thoại ly kỳ, nhưng chắc chắn là có thật. Cũng là một ông thầy, một ông trạng - trong đời thiếu gì thầy và
trạng, nhưng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm hình như có nhiều điều khác lạ. Về, ông không về hẳn; ở, ông cũng không ở hẳn. ông là
người vô sự nhưng lại nhiều việc, nhiều việc hơn bao nhiêu kẻ khác. Quả thật là ông nhàn song rất bận, chẳng khác gì ông
thầy thuốc Lãn ông sau này rất siêng năng cần mẫn nhưng lại cứ tự xưng là kẻ lười. Thì ra là vậy, họ đều lười, vô sự với phú
quý công danh, nhưng họ vẫn cứ theo đời để kịp ứng phó chủ trương hành hay tàng của họ. Cho nên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã

xử sự rất linh động khi ẩn khi hiện chẳng ai lường được thế nào. Nhất là từ lúc ông về hưu, cả một thời gian dài 40 năm,


người ta thấy có một ông già (về hưu là lúc ông đã 53 tuổi), khi lên núi lững lờ với mây trắng, khi phiêu diêu bên bờ sông
Hàn, khi đạo mạo giữa đám học trò nhiều tính cách, khi ôn tồn trong quán Trung Tân để bàn về lẽ chí thiện, khi lại thấy ông
ngồi giữa triều đình để bàn kế trị bình. Bỗng ở đó bỗng lại ở đây, mà ở đâu cũng riêng mình một bản lĩnh vững vàng không hề
vướng tục. Đã không vướng tục thì hẳn là một ông tiên rồi. Bản thân Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tự nhận mình là một ông tiên:
ông tiên dưới cõi trần (địa trung tiên), ông tiên nho nhỏ (tiểu thần tiên). Điều tự thú này của ông chắc đã được người đời thông
cảm. Xưa kia đã có người công nhận Nguyễn Trãi là một ông tiên trong gác vàng thì lúc này người ta cũng dễ nhận Nguyễn
Bỉnh Khiêm là tiên lắm chứ. Vả chăng, ông tiên này hình như "giống" hơn! Cái gọi là tiên phong đạo cốt chỉ là một sự tưởng
tượng của người đời thì Nguyễn Bỉnh Khiêm rất dễ cho người đời chấp nhận cốt cách ấy. "Sáng đến vườn rau, mây dính dép Đêm ra xóm lưới, nguyệt đầy thuyền", thật đúng dáng dấp một ông tiên. Vả chăng tiên thì phải có tài tiên tri. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã có cái tài ấy. Tiên bao giờ cũng gần gũi, chăm sóc cho người nghèo. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thế. Hơn thế, theo
quan niệm truyền thống thì tiên bao giờ cũng thích hoà bình. Có thần chiến tranh chứ làm gì có tiên chiến tranh. Bọn hiếu
chiến ăn cắp phép tiên để giết hại nhau, sẽ bị tiên trừng trị và thu hồi bảo bối. Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa thu được bảo bối để
trừng trị một bọn quân phiệt nào cả, nhưng ông đã có "phép" hạn chế dục vọng của chúng lại, và hơn ai hết, trong thời đại của
ông, ông đã cổ xuý không mệt mỏi cho hoà bình. ông thấy cái trò tranh giành xâu xé nhau là đáng nực cười và luôn luôn cảnh
cáo Hà tất khu khu sự chiến tranh! Nhân dân quý mến ông, ngưỡng mộ ông ở thái độ ấy và phong cách ấy. Hơn nữa, tiếp theo
cách nhìn của Nguyễn Trãi, ông cũng khẳng định được vai trò của người dân. Đắc quốc ưng tri tại đắc dân. Có được dân thì
mới được nước. Cả mấy lực lượng phong kiến quân phiệt lúc bấy giờ đã có nhóm nào "được dân" đâu? Nguyễn Bỉnh Khiêm
không thể làm vua như ước mong của bà mẹ ông (truyền thuyết này lại chỉ có ý nghĩa về lòng ngưỡng mộ của quần chúng đối
với ông mà thôi), nhưng quả là ông đã được lòng dân. ông là một ông tiên trong lòng họ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi vào thế giới folklore như thế và có lẽ như vậy cũng khá đầy đủ để cắt nghĩa vì sao ông trở thành
một danh nhân văn hoá sống mãi với thời gian. ông thờ Mạc, nhưng lại giúp Trịnh, giúp Lê, mà hậu thế, nhất là những kẻ sẵn
sàng theo thuyết ngu trung không ai dám chê trách. ông chẳng phải là người lập công gì to lớn, mà phần lập ngôn hay lập đức
cũng không vượt quá nhiều người, song tất cả những ai "lập" được ba thứ trên đây cũng phải kính nể ông. Ai cũng tin rằng
ông có cái vốn nào đó huyền bí, cao siêu nhưng không ai dám nghĩ hoặc xem ông như bọn vu nghiễn hoặc những bọn tướng
số làm nghề mê tín. Lịch sử vốn công bằng, mà nhân dân qua các thế hệ lại là người giám định vô tư và sáng suốt nhất.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và sẽ sống trong cảm quan folklore của đại chúng suốt thời gian người ta còn thấy phải tìm đến
sự viện trợ của ông. Một ông thầy khi mọi người đang cần sự chỉ vẽ về cách ứng xử thiết thực trong xã hội người bóc lột
người; một ông trạng khi người ta có nhiều mối băn khoăn về những huyền vi không giải đáp nổi; và một ông tiên, khi người



ta ước mong khao khát yên lành. Cả ba hình tượng ấy tập trung ở một Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ bằng cảm quan folklore
mới có thể nhìn rõ nét.


* THầY NGUYễN THIếP
(1723-1804)

T

hường được gọi là La Sơn phu tử. Sinh ngày 24 tháng 9 năm 1723, mất ngày 6 tháng 2 năm 1804, quê làng Nguyệt Ao,
huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ hương giải (1743), ra làm quan huấn đạo, tri phủ ít lâu thì cáo
về, ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, đọc sách, nghiên cứu lý học.
ông nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao, có trình độ uyên bác. Cả nước hâm mộ, tôn ông là bậc thầy. ông cũng là một
cao sĩ, sống ẩn dật.
Ngoài danh hiệu La Sơn phu tử, người ta còn gọi ông là Lạp Phong cư sĩ, hoặc gọi là Lục Niên (vì ông ẩn dật ở thành Lục
Niên).
Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba
bốn lần, ông mới nhận lời giúp. Sử sách ghi rõ những đóng góp của ông:
- Thống nhất với Quang Trung thời cơ đánh quân Thanh. Chiến lược "thần tốc" là do ông nêu ra. ông cũng khẳng định trước
là Quang Trung sẽ thắng.
- Nhận chức Viện trưởng Viện Sùng chính, chỉ đạo việc dịch các sách chữ Hán, chữ Nôm.
- Đề xuất với Quang Trung việc chính học, nhấn mạnh việc giảng dạy đạo đức.
- ông còn được vua Quang Trung giao cho việc tìm đất ở Nghệ An để xây dựng Phượng Hoàng trung đô, nhưng việc này
đã không xúc tiến được.
Khi Quang Trung mất, vua Cảnh Thịnh mời ông vào Phú Xuân, nhưng không giúp được gì để cứu vãn cơ đồ Tây Sơn. Vua
Gia Long cũng tỏ ý trọng đãi ông, nhưng ông đã từ chối không cộng tác.



Cũng như các vị tiền bối đạo hạnh cao niên, Nguyễn Thiếp được người đương thời tôn làm Phu tử, uy tín lừng lẫy. ông
không có địa vị khoa bảng cao, chỉ dạy học, rồi lui về ở ẩn. Tiếng tăm của ông do phẩm chất cao thượng và công trình tu
dưỡng của ông. Nguyễn Thiếp có chủ trương giáo dục riêng, theo lời ông tuyên bố thì là lối dạy và học theo Chu Hi đời Tống.
Song không thấy ông bàn gì đến những lí lẽ triết học, tư tưởng siêu hình của Chu Hi cả. ông có vụ sự thiết thực, để mong đưa
nước tới một cái đạo có thể làm cho dân, nước thịnh cường. "Đạo là những lẽ thường theo để làm người. Kẻ đi học là học điều
ấy vậy. Nước Việt ta từ khi lập quốc đến nay, chính học lâu ngày mất. Người ta chỉ tranh nhau đua tập việc học từ chương, cầu
công lợi và quên bẵng cái giáo tam cương ngũ thường. Chúa tầm thường, tôi nịnh hót: Quốc phá gia vong, những tệ kia đều ở đó
mà ra cả" (bản tâu ngày 10 tháng 8 âm lịch - 1791). Nguyễn Thiếp cũng đã đề ra phương châm phương pháp giáo dục: "Học
cho rộng, rồi ước lược cho gọn, theo điều học biết mà làm. Họa may nhân tài mới có thể thành tựu, nhà nước nhờ đó mà yên".
Có giai thoại kể rằng, khi triều Tây Sơn đã mất, Gia Long đòi Nguyễn Thiếp ra hỏi:
- Tây Sơn mời ông làm thầy, vậy ông dạy nó ra sao?
Đáp:
- Có 8 điều trong sách Đại học, 9 điều trong sách Trung dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm
được1.
Nếu cuộc đối thoại này mà có thực, thì đúng là Nguyễn Thiếp đã tâm niệm một chủ trương giáo dục, học tập nhằm mục
đích rèn luyện con người và quản lý xã hội. ông đã tỏ ra có tinh thần thực tiễn, chú ý đến việc ích nước lợi nhà, chứ không
phải là cái học kinh viện giáo điều như ở những nhà nho khác.
Hiện nay, ta không có tài liệu gì để có thể từ đó mà tìm ra phương pháp, nghệ thuật giảng dạy của Nguyễn Thiếp. ông dạy
rất nhiều lớp học sinh, từ những em bé vỡ lòng đến những nhà trí thức uyên bác, nhưng khó lòng để tìm ra những vấn đề về
giáo học pháp. Song về quan niệm của ông thì có thể nhận ra được. Ngoài những vấn đề vừa nêu trên đây, ta còn tìm thấy
trong thơ ca của ông những ý thức thuyết minh cho đạo lý giảng dạy. Thí dụ ông có ba bài thơ tóm lược nội dung các sách

1

. Tám điều trong sách Đại học là: Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Chín điều trong sách Trung dung là:
Tự thân, tôn hiền, thân thân
Kính đại thần, thể quân thần, tử thứ dân
Lai bách công, nhu viễn nhân, hoài chư hầu.



tính lý, Tứ thư đại toàn, năm bài thơ ca tụng các tiên nho như: Chu Hi, Trình Tử, Thiệu Khang, một bài thơ đề nhà học trong
thôn làng. Có một điểm đặc biệt đáng chú ý là Nguyễn Thiếp tỏ ra vừa chú trọng học đạo đức vừa chú trọng lao động.
Bài thơ "Sơn cư tác" có câu:
Thế sự vô như độc dữ canh
Lạo nhiên ngô chỉ, tế ngô hành
Nghĩa là:
Việc đời không gì bằng đọc sách và cày ruộng
Lụt thì ta nghỉ, khô ráo thì làm.
Đó cũng có thể là một gợi ý cho ta thấy Nguyễn Thiếp có chú ý cả lao động trí óc và lao động chân tay. Thực tế thì cuộc
sống của ông cũng gắn bó với nông thôn, và việc giảng dạy đạo lý của ông chủ yếu là làm cho con người tự bồi dưỡng nâng
cao để xây dựng cuộc đời thường cho trong sạch tiến bộ. ông dạy như thế, và đã tự mình sống như thế. ông ham thơ ca, yêu lý
thuyết, nhưng nhà ông không phải là tháp ngà, ông không hề tách rời cuộc sống như những nhà học giả chỉ biết thu mình
trong sách vở. Có lẽ vì thế mà ông đã thực sự trở thành một nhà giáo nhân dân (mặc dù lúc này, chưa có cái danh hiệu ấy).
Sách Lê Mạt tiết nghĩa lục chép: "Cách dạy của cụ là trước học tiểu học để bồi đắp lấy gốc, sau học kinh truyện để hiểu đến
ngành. Kẻ theo học đều cảm hoá cả, lại đem điều học được về giảng lại cho làng xóm. Cho nên cái luồng gió lễ nghĩa lan
khắp cả vùng"1.
Cả đất nước lúc này đều nhận thấy ở Nguyễn Thiếp là một vị thầy đạo cao đức trọng. Người ta đã xem ông như cụ Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - cây đại thụ tỏa rợp bóng trong thế kỷ XVI, thì giờ đây ở đất Hồng Lam lại có một cây đại thụ
khác cho giai đoạn cuối thế kỷ XVIII. Các thầy giáo thường là những người có phẩm chất thanh cao, có tư cách gương mẫu,
nhưng không nhiều thì ít, người nào có tên tuổi thì cũng phải vướng với bụi trần. Chỉ có Nguyễn Thiếp có đường lối xuất xử
độc đáo, có phong cách riêng biệt. Cuộc sống ẩn dật của ông - và ông kiên trì với lối sống này - lại khiến cho ông vượt lên
trên tất cả mọi người. Cuộc sống ấy cũng là một bài học để cảnh tỉnh những tư tưởng và hành vi thoái hoá của những người
cùng thế hệ. Ngay thời đại ông sống, người ta đã nhận ra điều này. Hoàng giáp Bùi Huy Bích làm Hiệp trấn ở Nghệ An (là vị
quan đầu tỉnh, trực tiếp lãnh đạo Nguyễn Thiếp) đã viết về ông những lời ca ngợi:
Ngẩng trông am núi cách vời
1

.


mạnh, VNK).

Theo

sách

La

Sơn

phu

tử

của

Hoàng

Xuân

Hãn

(tôi

nhấn


Núi cao rừng thẳm, tột trời mây xanh
Muốn lên thăm hỏi sự tình

Lại e một nỗi ông khinh người phàm.
Và:
… Khác người chỉ có một ông
ấn quan trao trả, non sông thoả tình
Người ta trỏ Lục Niên thành
Nam Sơn cạnh núi, náu hình am ông.
(Hoàng Xuân Hãn dịch)
Tiến sĩ Bùi Bật Trực viết về ông - trực tiếp dành cho ông những lời tán tụng không thể dành cho ai được:
Tứ hải ngưỡng cao Thiên Nhân đỉnh
Cửu trùng trọng vọng Lục Niên quan.
Nghĩa là:
(Cả bốn biển đều cúi trông lên đỉnh Thiên Nhẫn.
Từ chín bệ (nơi ngự của nhà vua) rất tôn vinh cửa thành Lục Niên).
Một người thầy được suy tôn như vậy, quả là xưa nay có một.
Tất nhiên, lúc này không phải không có người có ý khác về Nguyễn Thiếp. Nhất là khi thấy ông ra làm việc cho nhà Tây Sơn.
Đó là những người còn nặng tư tưởng ngu trung đối với nhà Lê, hoặc ghen tị với ông, hoặc không hiểu ông. Nhưng trước những ý
kiến ngược chiều, đã có người chiêu tuyết1 cho ông, công nhận hành vi xuất xử của ông và phân tích rất thoả đáng:
… "Tiên sinh có học hơn đời, có khí trùm chúng. Đương khi nhà nước đạo thịnh, người ta vui ra làm quan, chỉ một mình
tiên sinh từ nhật nguyệt mà vui với yên hà. Dựng nhà ở chốn danh sơn, gác công danh ngoài bụng nghĩ…
… Kịp khi quốc vận suy đồi, Tây Sơn chiếm cứ. Tiên sinh lại vì giỏi giang mà bị mời ra. Kẻ cho là phải, mừng tiên sinh ra
làm. Kẻ cho là hay, sợ tiên sinh mang tiếng.
1

. Chiêu tuyết: Khôi phục lại sự trong sáng.


×