Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử việt nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.44 KB, 18 trang )

Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Phần 1. MỞ ĐẦU.
1.1.

Lí do chọn đề tài.
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
( Lịch sử nước ta – Hồ Chí Minh)

Hai câu thơ của Bác Hồ cho thấy tầm quan trọng của giáo dục lịch sử dân
tộc. Học lịch sử để biết, để hiểu, để thấm nhuần đạo lý “ Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”. Song thực tế hiện nay là học sinh rất học lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc.
Phải chăng vì môn Lịch sử quá khó, khô khan, không hấp dẫn với học sinh.
Bởi vậy, việc làm sống dậy những sự kiện lịch sử, phục dựng lại bức tranh quá
khứ một cách sinh động là yêu cầu quan trọng trong dạy học lịch sử để học sinh
có biểu tượng lịch sử chân thực, chính xác, từ đó tích cực tư duy để chiếm lĩnh
tri thức.
Vấn đề là làm thế nào để bài giảng lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn?
Có nhiều biện pháp mà giáo viên có thể thực hiện như: Sử dụng đồ dùng trực
quan, sử dụng tài liệu tham khảo, trong đó có sử dụng tài liệu văn học dân gian.
Tài liệu văn học nói chung và tài liệu văn học dân gian nói riêng có khả
năng hàm chứa nội dung lịch sử tự nhiên và sâu sắc. Nó không chỉ có giá trị như
những tài liệu lịch sử mà còn phản ánh bản chất của từng sự kiện lịch sử cụ thể.
Văn học dân gian là một mặt biểu hiện độc đáo và sức sống mãnh liệt của dân
tộc ta. Nó là tấm gương phản ánh một cách trung thành hơn cả đời sống vật chất
và tinh thần của dân tộc ta ngày trước.Do đó văn học dân gian trở thành tài liệu
quan trọng trong dạy học lịch sử. Nó có ý nghĩa trong việc khôi phục, tái hiện
hình ảnh quá khứ một cách sinh động, giúp người học có thêm cơ sở để nắm
vững bản chất các sự kiện, góp phần hình thành khái niệm, rút ra quy luật, bài


học lịch sử.
Khai thác nguồn tài liệu phong phú của văn học dân gian trong dạy học
lịch sử Việt Nam ở trường THPT sẽ góp phần làm cho bức tranh lịch sử dân tộc
có hồn hơn, sinh động, thân quen hơn trong hành trình về nguồn của dân tộc.
Vấn đề này đã được đề cập đến trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch
sử” của Giáo sư Phan Ngọc Liên chủ biên và “Các con đường, biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT” của PGS – TS Nguyễn Thi Côi.
Các tác giả đã trình bày khá rõ vai trò to lớn của việc sử dụng tài liệu văn học

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

1


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

nói chung, văn học dân gian nói riêng trong dạy học lịch sử, song chưa nêu ra
phương pháp cụ thể.
Trong thực tế công tác tại trường THPT tôi đã áp dụng, đúc kết, rút kinh
nghiệm, từ đó đưa ra sáng kiến kinh nghiệm về vấn đề “ Sử dụng tài liệu văn
học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học ở trường THPT” với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm trong việc góp
phần nâng cao chất lượng môn học.
1.2. Mục đích của Sáng kiến kinh nghiệm.
Lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cũng
là lịch sử chống ngoại xâm quật cường, lịch sử vươn lên xây dựng một nền kinh
tế tự chủ, nền văn hóa đa dạng đậm đà bản sắc dân tộc. ...Tất cả các mặt hoạt
động đó của xã hội nước ta đều được phản ánh và gửi gắm trong các câu ca dao

tục ngữ, chuyện cổ tích, truyền thuyết... Vì vậy khai thác yếu tố lịch sử trong
văn học dân gian làm cho việc học lịch sử dễ đi vào lòng người.
Nếu giáo viên sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử một
cách hợp lí, sẽ làm cho sự kiện, nhân vật lịch sử trở nên sinh động hấp dẫn gần
gũi với học sinh, lịch sử sẽ bớt khô khan, bởi vì nó trở thành hơi thở, nhịp sống
thường ngà của dân tộc, từ đó chất lượng dạy học sẽ được cải thiện.
Kết quả của Sáng kiến kinh nghiệm sẽ góp phần nâng cao trình độ lý luận
dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Khẳng định vai trò, ý nghĩa của
việc sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử, ý nghĩa của phương
pháp dạy học tích hợp, liên môn.
Việc sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử cũng góp phần
hỗ trợ nhiều cho học sinh trong việc học môn văn học. Hiểu hơn hoàn cảnh ra
đời và nội dung lịch sử trong các tác phẩm văn học để có những cản nhận thực
hơn về các tác phẩm văn học. Góp phần nuôi dưỡng tâm hồn học sinh, đáp ứng
nhu cầu giáo dục và giáo dưỡng trong trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong phạm vi sáng kiến này tôi chỉ đề xuất một vài biện pháp kèm theo ví
dụ cụ thể về việc sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử lớp 10
như: dùng câu hỏi gợi mở, tường thuật, miêu tả, tạo biểu tượng lịch sử, hướng
dẫn tự học ở nhà ...
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài này tôi sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm. Kết hợp những lý luận về các phương
pháp dạy học tích cực, lý luận về dạy học theo định hướng năng lực và thực tiễn
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

2



Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

giáo dục tại trường THPT Cẩm Thủy 1. Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp
điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp thống kê, xử lý số
liệu…
Phần 2: NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1 Văn học dân gian và mối quan hệ của nó với lịch sử dân tộc.
Văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hóa dân gian. Văn học
dân gian còn gọi là văn học truyền miệng. Đó là những sáng tác tập thể, truyền
miệng của nhân dân từ đời này sang đời khác.
Văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của quần chúng nhân dân, nảy sinh
trong quá trình lao động và đấu tranh. Nó mang những đặc trưng riêng như: Tính
tập thể, tính truyền miệng và gắn với sinh hoạt xã hội. Văn học dan gian là
nguồn tư liệu phong phú ghi lại một cách chân thực, mộc mạc cuộc sống vật
chất và tinh thần của nhân dân ta, nó góp phần tạo dựng bức tranh lịch sử nên
thực tế nó là nguồn tài liệu quan trọng trong dạy học lịch sử.Văn học dân gian ra
đời sớm và rất phong phú gồm nhiều thể l như: Thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, truyện cười, sử thi, ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ, câu đố, hò vè, dân ca.... Mỗi
thể loại chứa những nội dung lịch sử nhất định.
* Thần Thoại: Là những chuyện kể có yếu tố hoang đường về các vị thần, con
người, loài vật mang tính chất thần kì, là sản phẩm của trí tưởng tượng, hồn
nhiên bay bổng của người xưa sáng tạo ra để giải thích thế giới tự nhiên và đời
sống xã hội như: Thần Trụ Trời, Thần Mưa, Thần Sấm Sét, Thần Nông, Nữ Oa,
Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thạch Sanh, Thánh Gióng ...
Đằng sau tấm màn hoang đường là những nội dung hiện thực lịch sử, nên
thần thoại trở thành nguồn tài liệu quan trọng, hấp dẫn trong dạy học lịch sử,
nhất là chương trình lịch sử lớp 10, phần Lịch sử Việt Nam thời nguyên thủy, cổ
đại, trung đại.

* Sử Thi: Là những áng thơ tự sự hoặc văn xuôi ca ngợi những thành tựu có tính
chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng. Có hai loại sử thi: Sử
thi thần thoại và Sử Thi anh hùng, với các sủ thi tiêu biểu như: Đẻ đất đẻ nước
của người Mường, Bài ca Đăm San của người Ê đê, Xinh Nhã của người Gia
Rai.
Sử thi cũng có những chi tiết hoang đường, nhiều chi tiết thần thánh hóa
như thần thoại song cốt lõi của nó vẫn phản ánh hiện thực lịch sử như phản ánh
lịch sử tìm đất, tìm nước xây dựng bản làng, phản ánh phong tục tập quán của
các dân tộc.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

3


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

* Truyền Thuyết: Là những truyện kể về các nhân vật lịch sử và những
biến cố lịch sử quan trọng. Chuỗi truyền thuyết quan trọng về thời Hồng Bàng
như: Con Rồng cháu Tiên, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh- Thủy Tinh,
Thánh Gióng, An Dương Vương, Mi Châu- Trọng Thủy... Truyền thuyết phản
ánh lịch sử thời phong kiến như Yết Kiêu, TRần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
TRạng TRình, truyền thuyết chàng Lía ...
Truyền thuyết cũng mang nhiều yếu tố li kì, huyền bí nhưng :hường có một
cái lõi là sự thuwch lịch sử mà dân ta qua nhiều thế hệ đã lí tưởng gửi gắm vào
đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng”
* Truyện cười: Là những truyện kể ngắn gọn có kết cấu chặt chẽ, kết
thúc bất ngờ, lấy tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để mua vui, giải trí hoặc
châm biếm,đả kích những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện thời kì suy

vong của xã hội phong kiến như: Trạng Quỳnh, TRạng Lợn, Ba Giai –Tú Xuất...
thể loại này giáo viên có thể sử dụng khi dạy thời kì Vua Lê, Chúa TRịnh.
* Tục ngữ: Gồm những câu ca ngắn gọn, có vần điệu, có hính ảnh, dễ
nhớ, dễ truyền có chức năng đúc kết kinh nghiệm, tri thức trong lao động sản
xuất, con người và xã hội. Qua các câu tục ngữ có thể biết được về đời sống, tập
quán, văn hóa, suy nghĩ, ước mơ , các nhân vật lịch sử ...như: Ăn lông ở lỗ, năm
ba cha mẹ, Lê Lai – Lê Lợi, Lê-Trịnh, Hội Gióng, Hội Dâu, Hội Đề Hùng...
Tục ngữ là lời ăn tiến nói hành ngày của nhân dân rất dễ thuộc lại cho biết
phần nào về lịch sử dân tộc nên có thể sử dụng trong dạy học lịch sử.
* Ca dao: Là những câu hát dân gian biểu hiện tư tưởng tình cảm tâm
trạng bằng thơ lục bát là chủ yếu. Tuy nhiên cũng có một nhóm ca dao lịch sử
phản ánh những nhân vật, sự kiện lịch sử như Bà Triệu, Vua Tự Đức ...
Ca dao lịch sử phần lớn phản ánh quan điểm đúng đắn của nhân dân về
các biến cố lịch sử, cho nên cung cấp cho người đời sau những tài liệu quý về
lịch sử.
*Câu đố: Là những sáng tác dân gian miêu tả, tường thuật đặc điểm của
sự vật bằn hình thức nói ngược để rèn luyện óc quan sát, thử tài suy đoán của
người ta. Có những câu đố mà vật đố là vấn đề xã hội như vấn đề sưu thuế
“Không vay mà trả”, vấn đề đút lót “ Vai mang bị lạc kè kè – chữ nhất không
biết chữ phê huyện làm”
Sử dụng câu đố trong các giờ ngoại khóa lịch sử là gợi ý hợp lí cho giáo
viên.

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

4


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm

nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

* Vè: Là những sáng tác văn vần, được biểu diễn dưới hình thức nói hoặc
kể, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời, hiệu quả những câu chuyện về người thực,
việc thực ở địa phương. Vè phát triển mạnh trong các thế kỉ XVIII, XIX, XX.
Có hai loại vè: Vè thế sự và vè lịch sử.
Vè thế sự là nguồn tư liệu phong phú về đời sống nhân dân như: Vè đi ở,
vè giữ trâu, vè sưu thuế, vè thời Tự Đức ...
Vè lịch sử lấy đề tài từ sự kiện lịch sử hòa quyện với nhân vật lịch sử cùng
sự hư cấu thần kì như: Vè chàng Lía, vè về khởi nghĩa Tây Sơn, vè vợ ba Cai
Vàng, vè thất thủ kinh đô năm 1883 ...
2.1.2: Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy
học lịch sử.
Sử dụng tài liệu văn học dân gian có ý nghĩa lớn đối với học sinh về cả giáo
dục lẫn giáo dưỡng. Nó là cái nôi tuổi thơ của mỗi người, với sự gần gũi, thân
thương của nguồn tài liệu này, khiến cho việc học lịch sử trở nên dễ nhớ, dễ hiểu
và hấp dẫn hơn.
Đối với học sinh, gần như em nào cũng có ít nhiều vốn kiến thức nhất định
về văn học dân gian, khi giáo viên khéo léo khai thác trong các bài học lịch sử sẽ
kích thích sự hứng thú trong tư duy học sinh, thậm chí sẽ tạo ra những xúc cảm
lịch sử, khiến việc học trở nên hiệu quả.
Không những vậy, sử dụng tài liệu văn học dân gian góp phần phát triển
ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh, phát triển ý thức dân tộc, ý thức cội nguồn
trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay.
2.2. Thực trạng của việc sử dụng Tài liệu văn học dân gian trong dạy học
Lịch sử ở trường THPT.
Qua quá trình công tác, tôi nhận thấy rằng đa phần học sinh không thích học
môn Lịch sử, không nắm được các nội dung cơ bản của lịch sử, đặc biệt là phần
lịch sử Việt Nam. Các em cho rằng môn Lịch sử khó, nặng về nhớ nhân vật, sự
kiện ...

Ngay bản thân giáo viên cũng không ít người bi quan chán nản khi môn
Lịch sử không được học sinh, gia đình, xã hội coi trọng.
Tuy nhiên vẫn có không ít những giáo viên tâm huyết luôn tìm tòi các biện
pháp dạy học mới làm sinh động bộ môn lịch sử. Khi được hỏi các thầy cô dạy
sử đều cho biết có sử dụng các loại tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử nhất
là tài liệu văn học dân gian. Tuy nhiên, các thầy cô cho biết đa phần sử dụng
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

5


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

mang tính chất minh họa là chính vì thời gian giảng dạy ít, bài dài, công việc
bận rộn không có điều kiện để nghiên cứu, sưu tầm tài liệu văn học dân gian. Đa
số các thầy cô sử dụng vốn văn học dân gian có sẵn của mình và áp dụng vào bài
khi cần thiết. Tất nhiên, một số thầy cô cũng hơi lạm dụng tài liệu này, sử dụng
với dung lượng quá nhiều trong một bài giảng làm mất đi ý nghĩa của giờ học
lịch sử.
2.3. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử
Việt Nam ở trường THPT.
2.3.1. Sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp nêu câu hỏi gợi mở.
Bản thân tài liệu văn học dân gian chưa thể đưa đến suy nghĩ tích cực trong
nhận thức, tư duy của học sinh nếu như giáo viên không gợi mở bằng những câu
hỏi. Đơn giản học sinh biết câu chuyện truyền thuyết, thần thoại, câu ca dao, hò
vè dân gian… nhưng chưa hiểu nội dung lịch sử được phản ánh trong đó. Nếu
giáo viên không gợi mở cho học sinh thì những tài liệu đó chỉ là những tác phẩm
văn học dân gian thuần túy. Câu hỏi của giáo viên cần xoáy vào những chi tiết

của văn học dân gian liên quan đến nội dung lịch sử đang học trong bài, để học
sinh có thể phát hiện ra các sự kiện, vấn đề lịch sử chứ không hỏi lan man toàn
bộ tác phẩ văn học dân gian.
Chẳng hạn khi dạy bài 14 “Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam” ,
giáo viên có thể sử dụng truyền thuyết Thánh Gióng, hướng dẫn học sinh trả lời
câu hỏi “Việc Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt,
một cái roi sắt, một áo giáp sắt và một cái nón sắt cho ta biết sự tiến bộ trong
công cụ lao động của ông cha ta thời bấy giờ như thế nào ?” trả lời câu hỏi này,
học sinh sẽ nắm được vào thời văn hóa Đông Sơn, nhân dân ta đã bắt đầu biết
dung đồ sắt bên cạnh đồ đồng thau đã trở nên phổ biến. Nhờ đó, kinh tế nông
nghiệp đùng cày có sử dụng sức kéo của trâu bò đã khá phát triển, các nghề thủ
công trong đó có rèn sắt cũng xuất hiện. Sự tiến bộ trong công cụ lao động là
tiền đề cơ bản đưa đến sự tiến bộ về kinh tế, tạo sự chuyển biến về xã hội và
hình thành nhà nước.
Cũng vẫn truyền thuyết Thánh Gióng, giáo viên có thể hỏi “Việc sứ giả
tìm người tài giúp nước và việc cậu bé Gióng 3 tuổi bỗng vươn vai thành người
khổng lồ đánh giặc cứu nước phản ánh thực tế gì ở nước ta” ? Học sinh tư duy
và hiểu được ngay từ buổi đầu nhân dân ta đã phải đấu tranh chống ngoại xâm.
Yêu cầu chống ngoại xâm đã gắn kết các bộ lạc trên đất nước ta đưa đến sự ra
đời sớm của nước Văn Lang (thế kỷ VII TCN). Lịch sử Việt Nam là lịch sử
dựng nước gắn liền với giữ nước. Chi tiết dân làng Phù Đồng góp cơm, góp gạo
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

6


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.


nuôi Gióng cho thấy tinh thần đoàn kết, nhất trí của toàn dân ta trong công cuộc
bảo vệ đất nước.
Cũng vẫn bài này giáo viên còn có thể sử dụng truyền thuyết Sơn tinh –
Thủy tinh với câu hỏi gợi mở “Việc Sơn Tinh dùng phép lạ, bốc từng quả đồi,
rời từng dãy núi ngăn dòng nước của Thủy Tinh cho thấy công việc gì của ông
cha ta thời đó” ? Trả lời câu hỏi này học sinh hiểu được đó là công việc trị thủy,
làm thủy lợi, công cuộc chinh phục thiên nhiên của ông cha ta để bảo vệ sản
xuất, bảo vệ mùa màng. Chính yêu cầu trị thủy đó khiến mọi người phải liên kết
với nhau chặt chẽ. Nhà nước Văn Lang do đó mà xuất hiện.
Khi tìm hiểu tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang, giáo viên có thể gợi mở
cho học sinh bằng câu hỏi “Đứng dầu nhà nước Văn Lang là ai, được nhắc đến
trong những câu chuyện truyền thuyết nào”. Học sinh trả lợi câu hỏi sẽ biết được
đứng đầu nhà nước Văn Lang là các vua Hùng, có tất cả 18 đời vua Hùng, được
phản ánh trong truyền thuyết Bánh Chưng Bánh Dày, Sơn Tinh Thủy Tinh.
Để học sinh hiểu được sự phát triển của nhà nước Âu Lạc so với Văn
Lang, giáo viên có thể sử dụng truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu –
Trọng Thủy với câu hỏi “An Dương Vương được thần Kim Quy giúp xây thành
Cổ Loa như thế nào, có hình dáng gì ? Việc các nhà khảo cổ tìm thấy hàng vạn
mũi tên bằng đồng ở thành Cổ Loa và dấu tích của thành Cổ Loa hiện nay ở
Đông Anh (Hà Nội) cho thấy sự lớn mạnh của nhà nước Âu Lạc hiện nay như
thế nào ?”. Học sinh dễ dàng biết được Triệu Đà đã dùng kế cầu hôn, tìm cách
đánh cắp bí mật quân sự nước ta rồi đem quân xâm lược. Đó là bài học xương
máu về vấn đề cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Khi tìm hiểu về đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang – Âu
Lạc, giáo viên cũng có thể gợi mở cho học sinh bằng những câu hỏi “Qua truyền
thuyết Bánh chưng bánh dày, sự tích Trầu cau, Dưa hấu, truyền thuyết Thánh
Gióng, em thấy người Việt cổ ăn gì ? Có phong tục tập quán gì ?” Trả lời các
câu hỏi, học sinh rút ra được người Việc cổ ăn cơm, thức ăn có rau quả, thịt cá,
có phong tục làm bánh chưng, bánh dày ngày tết, tục ăn trầu, tục thờ cúng tổ tiên
và người có công với nước. Giáo viên gợi mở cho học sinh câu thơ:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
“Mồng Bảy hội Khám
Mồng Tám hội Dâu
Mồng Chín đâu dâu cũng về hội Gióng”

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

7


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Sau đó giáo viên hỏi “Những câu ca dao trên phản ánh thực tế gì về đời
sống tinh thần chủ nhân dân ta”. Hs dễ dang thấy được đời sống tinh thần phong
phú và đạo lý” Uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
Một ví dụ khác, khi dạy bài 26, mục 1 GV sử dụng câu ca dao” Con ơi mẹ
bảo con này, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.” Hs từ đó thấy được xã hội
nước ta dưới triều Nguyễn đang lên cơn sốt một cách trầm trọng với tệ tham
quan ô lại, bọnđịa chủ, cường hào đục khoét, ức hiếp nhân dân. “Quan” đối với
“giặc”, “cướp ngày” đối với “cướp đêm”. Nghệ thuật đối đã đặt ngang hàng bọn
quan lại phong kiến với bọn giặc cướp. Đời sống nhân dân túng quẫn, cực khổ,
mâu thuẫn xã hội gay gắt. Đây là nguyên nhân làm bùng nổ hàng trăm cuộc khởi
nghĩa của nhân dân và binh lính chống lại nhà Nguyễn.
Nói tóm lại, giáo viên cần đưa ra những câu hỏi gợi mở, hướng dẫn học
sinh khai thác tài liệu văn học dân gian để phát hiện, tìm kiếm nội dung lịch sử
được phản ánh trong đó. Có như vậy học sinh mới tích cực học tập, nắm chắc
hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức.

2.3.2. Sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với tường thuật và miêu tả.
Lịch sử cần sống động như nó đã tồn tại. Muốn vậy, khi tường thuật, miêu
tả sự kiện , nhân vật lịch sử, giáo viên cần phải có cách trình bày sao cho hấp
dẫn, tránh việc liệt kê những con số, địa danh khô khan nhàm chán. Giáo viên có
thể xen một đoạn ca dao, tục ngữ, hò vè… cho sự kiện đang học làm cho nội
dung bài học trở nên phong phú, giờ học sinh động.
Bài 16: Khi tường thuật khởi nghĩa Hai Bà Trưng, giáo viên sử dụng một
đoạn trong bài “Thiên nam ngữ lục” – áng sử ca dân gian thế kỷ XIX.
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên…
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước Nam”.
Học sinh sẽ cảm nhận được khí thế hừng hực của nghĩa quân, bước chân
dũng mãnh của từng đoàn voi chiến, ghi nhớ những địa danh, nhân vật lịch sử.
Đây là đoạn rất quen thuộc, nếu giáo viên yêu cầu học sinh đọc để trình bày về
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, chắc chắn có nhiều em đọc được và khi đó các em rất
hứng thú.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

8


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.


Ví dụ khác, khi dạy bài 26, để miêu tả sinh động bức tranh ảm đạm của xã
hội Việt Nam dưới triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, giáo viên có thể đọc một đoạn
trong bài “Vè cái thời Tự Đức”:“ Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như di”.
Giáo viên cũng có thể sử dụng tài liệu văn học dân gian bài 14, trước khi
miêu tả nhằm thu hút sự chú ý của học sinh. Chẳng hạn trước khi miêu tả thành
Cổ Loa, giáo viên có thể đọc đoạn ca dao sau:
“Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng dấu thành còn đây”.
2.3.3. Sử dụng tài liệu văn học dân gian để minh họa, tạo biểu tượng lịch sử,
khái quát thời kỳ lịch sử, nêu khái niệm, rút quy luật, bài học lịch sử.
Bài 16: Để cụ thể hóa về nguyên nhân, mục tiêu của khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, giáo viên có thể sử dụng 4 câu trong bài diễn ca “Thiên Nam ngữ lục”:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.”
Để học sinh thấy được lòng tôn kính, sự ủng hộ của nhân dân ta với cuộc
khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô (248), giáo viên có thể sử dụng câu ca dao:
“Ru con con ngủ cho ngoan
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng”.
Nói về khởi nghĩa của Mau Thúc Loan, ở Nghệ An còn truyền lại một bài hát
chầu văn kể tội bọn đô hộ nhà Đường, vạch rõ nỗi thống khổ của nhân dân, quan
lại, quân lính nhà Đường về làng đánh đập dân, vơ vét tơ lụa, tiền thóc, bắt dân
cống vải, bắt phu:
“Nhớ khi nội thuốc Đường triều

Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai
Sân quả vải vì ai vạch lá
Ngựa hồng trần kể đã héo hon”.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

9


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Nói về ba lần chiến thắng trên song Bạch Đằng: Chiến thắng của Ngô
Quyền chống quân Nam Hán (938), của Lê Hoàn chống quân Tống (981), của
Trần Hưng Đạo chống quân Mông – Nguyên (1288), giáo viên có thể dẫn câu ca
dao:
“Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan”.
Bài 21 nói về cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều và chiến tranh Trịnh –
Nguyễn kéo dài hàng thể kỉ làm hao người tốn của, nhân dân chán ghét, li tán,
giáo viên có thể sử dụng những câu:
“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi chảy nước non Cao Bằng”.
Câu này nói về sự kiện quân nhà Mạc bị quân Lê – Trịnh đánh tan tác (1592)
phải bỏ chạy lên ẩn náu ở Cao Bằng, tiếp tục chống cự đến đầu thế kỉ XVII mới
bị tiêu diệt hoàn toàn.

Bài 23: Để tạo biểu tượng cho học sinh về chiến thắng rạch Gầm – Xoài
Mút (1785) diễn ra lúc trời còn chưa sang, ánh lửa đom đóm còn lập lòe trên
những cây bần ở ven sông, giáo viên dùng câu ca dao:
“Bần gie lửa đóm sáng ngời
Rạch Gầm soi dấu muôn đời uy linh”.
Minh họa cho sự kiện nghĩa quân Tây Sơn trên đường tiến quân ra Bắc dừng lại
ở Thanh Hóa, Nghệ An tuyển thêm quân lính, nhân dân nô nức đi theo:
“Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già”.
Bài 22: Sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự hưng khởi của các đô thị thế kỉ
XVI – XVIII, giáo viên có thể sử dụng những câu:
“Đình bảng bán ấm, bán khay
Phù Lưu họp chợ mỗi ngày một đông”.
“Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Hay
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

10


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

“Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Bài 26: Nói đến khởi nghĩa nông dân của chàng Lía ở Bình Định, giáo viên có
thể sử dụng đoạn vè: “Ai về Bình Định mà nghe
Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam”.
“Chiều chiều én liệng Chuông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”.

Về khởi nghĩa của Phan Bá Vành dân gian có câu “Trên trời có ông sao tua - ở
làng Minh Giám có vua Ba Vành”.
Giáo viên cũng có thể sử dụng tài liệu văn học dân gian để khái quát về sự kiện
lịch sử đang học. Ví như khi học xong mục 1 bài 18,giáo viên có thể khái quát
bức tranh kinh tế nông nghiệp thời Lê:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.
Để giúp học sinh thấy được quy luật “có áp bức có đấu tranh” dưới xã hội phong
kiến, giáo viên có thể dùng những câu “Được làm vua, thua làm giặc” hay
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Để học sinh rút ra bài học đoàn kết giáo viên không thể không sử dụng
câu chuyện bó đũa, câu chuyện Thánh Gióng, câu ca dao như:”Bầu ơi thương
lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
2.3.4. Sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với đồ dung trực quan và các
tài liệu tham khảo khác.
Văn học dân gian phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta
dưới sách nhìn của quần chúng nhân dân. Dù phong phú song văn học dân gian
cũng chỉ phản ánh được một phần của hiện thực lịch sử. Để cho bức tranh lịch
sử được toàn diện và sống động, giáo viên nên kết hợp tài liệu văn học dân gian
với đồ dung trực quan như kênh hình trong SGK, như tranh ảnh, lược đồ và các
nguồn tài liệu tham khảo khác nhất là tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử là căn cứ
khoa học, có độ tin cậy và chính xác cao sẽ góp phần khẳng định tính xác thực
của những nội dung lịch sử được phản ánh trong tài liệu văn học dân gian.

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1


11


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Ví dụ khi miêu tả thành bài Cô Loa giáo viên kết hợp câu ca dao, và cả tư
liệu lịch sử; “Thành được đắp bằng đất có 9 vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng
giữa 6,5km, vòng trong 1,6 km. Thành được xây theo phương pháp đào đất đến
đâu khoét hào đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoai thoải để
đánh vào thì khó, đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 – 5m, có chỗ cao 8 –
12m, chân lũy rộng 20 – 30m, mặt lũy rộng 6 – 12m. Quanh thành là hệ thống
mạng lưới thủy văn dày đặc tạo thành một vùng khép kín. “Sự kết hợp như vậy
cho học sinh biểu tượng cụ thể về công trình phòng ngự kiên cố, vững chắc của
quân dân Âu Lạc. Học sinh hiểu được ý thức quốc phòng của nhân dân ta và sự
lớn mạnh của Âu Lạc.
Ví dụ khác khi dạy bài 22 , trình bày sự hưng khởi của các đô thị ở Đàng
Ngoài, giáo viên đọc câu “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến”. Kinh Kỳ tức
Thăng Long (Kẻ Chợ) thì quen thuộc với học sinh vì đã được nhắc đến khi học
bài 18 nhưng còn phố Hiến thì rất lạ với học sinh vì bản than phố Hiến hiện nay
không còn nữa. Do vậy, giáo viên phải kết hợp với tư liệu lịch sử giới thiệu vài
nét về phố Hiến để học sinh biết được đây là đô thị lớn thứ hai ở Đàng Ngoài.
Phố Hiến nằm ở tỉnh Hưng Yên ngày nay, có điều kiện tự nhiên thuận lợi (nằm
cạnh sông), là trung tâm tiếp nhận hàng hóa bốn phương về để xuất khẩu. Nơi
đây có rất nhiều thương điếm của người nước ngoài, cả người phương Tây,
người Trung Quốc, người Nhật Bản. Những tài liệu phương Tây mô tả phố Hiến
với cảnh tượng tập nập trên bến dưới thuyền với trên 2000 nóc nhà, riêng người
Hà Lan đã có khoảng 100 nóc nhà.”
Bài 26: Bức tranh xã hội nước ta thời Nguyễn, giáo viên sử dụng những
câu ca dao, hò vè nói về tệ tham quan ô lại, nạn cường hào sách nhiễu nhân dân

vừa kết hợp sử dụng tư liệu lịch sử “Nhà Nguyễn còn tập trung sức dân, của cải
xây dựng kinh thành, cung điện ở Phú Xuân, phá dỡ cung điện của vua Lê ở Hà
Nội chuyển vào, điều động hàng nghìn dân đinh, binh lính Thanh Hóa, Nghệ An,
Bắc thành vào làm trong hàng chục năm. Theo sử cũ, trong một lần tuần du ra
Bắc vua triệu Trị đã bắt nhân dân xây dựng 44 hành cung ở dọc đường để vua
nghỉ.”Tự Đức xây lăng Vạn niên hao tổn nhiều nhân lực, vật lực đến mức nhân
dân khắp nơi oán than:
“Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
Tất cả để cuối cùng học sinh hiểu được vì sao nhân dân và binh lính lại nổi
dậy chống lại triều đình Nguyễn với hàng trăm cuộc khởi nghĩa từ Nam chí Bắc.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

12


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

2.3.5. Sử dụng tài liệu văn học dân gian để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
Theo sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh có thể sử dụng tài liệu văn học
mới. Muốn khai thác hiệu quả giá trị của những tác phẩm văn học dân gian trong
điều kiện thời gian trên lớp hạn hẹp, giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn học sinh
tìm hiểu trước ở nhà hoặc sưu tầm them sau mỗi bài học nhằm mục đích tìm
kiếm hoặc củng cố kiến thức lịch sử, bồi dưỡng vốn văn học dân gian cho học
sinh.
Ví như, trước khi dạy bài 14, giáo viên hướng dẫn học sinh ở nhà tìm đọc các
truyền truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy
Tinh, An Dương Vương, Mỵ Châu – Trọng Thủy, Bánh Chưng, bánh dày, trầu

cau… và trả lời các câu hỏi như Thời vua Hùng và Thục Phán An Dương
Vương, cư dân Việt cổ làm những nghề gì, ăn gì, đi lại ra sao, có phong tục tập
quán gì ?.
Học sinh làm theo hướng dẫn của giáo viên nghĩa là đã có sự chuẩn bị
kỹ lưỡng cho bài học, do đó khi lên lớp học sinh sẽ rất tích cực tham gia phát
biểu xây dựng bài, lĩnh hội kiến thức một cách vững chắc.
Ví dụ khác, khi dạy xong bài 16, giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà
sưu tầm các câu ca dao, truyện truyền thuyết nói về khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
Lý Bí, chiến thắng Bạch Đằng… để khắc sâu cho học sinh về những chiến công
vẻ vang của dân tộc trong lịch sử, giáo dục lòng biết ơn với tổ tiên và những
người có công với nước.
Tương tự dạy xong bài 19, giáo viên cũng yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm
đọc những tài liệu văn học dân gian nói về Dương Vân Nga, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, về sự tích Hồ Gươm, bà hàng nước thành
Cổ Lộng…
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Để kiểm tra hiệu quả, tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi tiến hành
thực nghiệm sư phạm
* Phương pháp: Tôi sọan hai giáo án dạy bài 20 ở hai lớp: Lớp thực
nghiệm (10 A5) và lớp đối chứng (10 A7). Giáo án thực nghiệm tôi soạn theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong đó đi sâu khai thác tài liệu văn
học dân gian.( Giáo án thực nghiệm bài 20, tôi trình bày phần 1. Quốc gia Văn
Lang-Âu Lạc ở phần phụ lục)
* Địa điểm: Hai lớp 10A5 và 10A7 , hai lớp có sĩ số và mức độ nhận thức
tương đương nhau.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

13



Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Cả giáo án thực nghiệm và đối chứng đều do tôi trực tiếp soạn trên cơ sở
góp ý của các thầy (cô) trong nhóm sử và sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà
trường. Tôi dạy ở lớp đối chứng trước, lớp thực nghiệm sau.
Để có cơ sở đánh giá, kiểm nghiệm hiệu quả các biện pháp mà tôi đưa ra
trong sáng kiến kinh nghiệm, ngay sau tiết học, tôi đều tiến hành kiểm tra hoạt
động nhận thức của học sinh bằng câu hỏi trắc nghiệm.( trình bày ở phần phụ
lục)
Tôi và các thầy cô trong nhóm sử đã tổ chức chấm bài, đánh giá ở cả hai
lớp thực nghiệm và đối chứng sau đó tổng hợp kết quả, đưa ra nhận xét, đánh
giá về các giải pháp tôi đã đề xuất trong sang kiến kinh nghiệm.
* Kết quả: Sau khi chấm bài kiểm tra, tôi thống kê kết quả, lập bảng xếp
loại theo thang điểm quy định.
Điểm 9 – 10: giỏi

Điểm 5 – 6: Trung bình

Điểm 7 – 8: Khá

Điểm dưới 5: Yếu, kém

Lớp

10A5
(thực nghiệm)
10A7
(đối chứng)


Số
học
sinh

Kết quả
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu, kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


43

3

7

27

64

12

17

1

2

41

1

2

18

44

19


46

3

7

Kết quả thực nghiệm cho thấy, điểm số ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp
đối chứng. Ở lớp thực nghiệm có 1 em dưới điểm trung bình trong khi ở lớp đối
chứng còn 3 em. Ở lớp thực nghiệm tỉ lệ học sinh đạt điểm khá chiếm đa số
(64%) trong khi đó ở lớp đối chứng tỷ lệ này chỉ đạt 46%. Số lượng học sinh đạt
điểm giỏi ở lớp thực nghiệm là 3 em, ở lớp đối chứng chỉ có 1 em.
Kết quả trên khẳng định hiệu quả và tính khả thi của sang kiến kinh
nghiệm đồng thời trong quá trình tiến hành thực nghiệm, tôi cũng đã rút ra kinh
nghiệm cho bản thân để có thể bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm, mong được
các thầy, cô góp ý.
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

14


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Phần 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Văn học dân gian là một nguồn tài liệu quan trọng trong dạy học lịch sử,
nhất là nội dung lịch sử Việt Nam ở trường THPT. Văn học dân gian gồm nhiều
thể loại khác nhau như thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện
ngụ ngôn, truyện cười, ca dao, tục ngữ, câu đố, vè… loại nào cũng phản ánh lịch

sử ở mức độ nhất định. Văn học dân gian có vai trò quan trọng trong việc tạo
dựng bức tranh lịch sử sinh động, gây hứng thú cho học sinh giúp học sinh có
biểu tượng lịch sử chuẩn xác là cơ sở để nắm khái niệm, rút ra quy luật và bải
học lịch sử.
Tuy nhiên việc học sử ở trường THPT hiện nay còn nặng nề, khô khan,
thiên về cung cấp sự kiện, việc sử dụng văn học dân gian trong dạy học lịch sử
nhất là lịch sử Việt Nam ở trường THPT còn chưa thường xuyên và chưa đạt
hiệu quả cao.
Qua thực tiễn giảng dạy, qua dự giờ học hỏi đồng nghiệp, qua tìm tòi
nghiên cứu, tôi đã đưa ra sang kiến kinh nghiệm của bản than trong đó đề xuất
một vài biện pháp sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt
Nam ở trường THPT. Các biện pháp đó là: sử dụng tài liệu văn học dân gian kết
hợp với nêu câu hỏi gợi mở, với tường thuật, miêu tả; sử dụng tài liệu văn học
Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

15


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

dân gian để minh họa, tạo biểu tượng, khái quát, nêu khái niệm, rút ra quy luạt
và bải học lịch sử, sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với các đồ dung
trực quan và tài liệu tham khảo khác; sử dụng tài liệu văn học dân gian để hướng
dẫn học sinh tự học ở nhà và tổ chức ngoại khóa cho học sinh.
3.2. Kiến nghị.
Sở GD tổ chức cuộc thi làm sang kiến kinh nghiệm với tất cả các giáo
viên ở các môn học và tạo điều kiện để các sáng kiến kinh nghiệm đó được thử
nghiệm và ứng dụng; nhà trường chỉ đạo cho thư viện phối hợp với giáo viên

sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ cho nhu cầu dạy và
học của giáo viên và học sinh trong đó có môn lịch sử. Tham gia các lớp tập
huấn, bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới phương pháp dạy học, hỗ trợ và ủng hộ
các tổ chuyên môn làm tốt hoạt động ngoại khóa của tổ chuyên môn và tổ chức
ngoại khóa cho học sinh.
Tổ chức thường xuyên các đợt tập huấn cho giáo viên, trong nội dung tập
huấn cần hướng dẫn cụ thể các cách thức lựa chọn nội dung và phương pháp sử
dụng các loại tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử, trong đó có tài liệu văn
học dân gian. Sở phối hợp với công ty sách và thư viện các trường phổ thông
cung cấp thường xuyên các đầu sách phục vụ nhu cầu giảng dạy, học tập của
giáo viên và học sinh.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018.
SKKN này do tôi làm, không coppy dưới
bất kì hình thức nào nếu sai tôi chịu hoàn
toàn trách nhiệm.
Người thực hiện

Hà Thị Hạnh

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

16


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Côi: Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử
ở trường phổ thông, NXBĐHSPHN, 2005.
2. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (CB): Phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử ở THCS, NXBGD, 1998.
3. Phan Ngọc Liên (CB): Phương pháp dạy học lịch sử tập 1, NXB ĐHSP, 2002
4. Phan Ngọc Liên (CB): Phương pháp dạy học lịch sử tập 2, NXB ĐHSP, 2002
5. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 10 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
6. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 11 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
7. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 12 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
8. Phan Ngọc Liên (CB): Kiến thức Lịch sử 10 , NXB ĐHQG TPHCM, 2006
9. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: Giáo dục học tập 1, NXB GD 1998
10. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: Giáo dục học tập 2, NXB GD 1998
11. Phạm Thu Yến (CB): Giáo trình văn học dân gian, NXB ĐHSP, 2008

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

17


Đề tài: Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.

Ngêi thùc hiÖn: Hà Thị Hạnh – GV: Trêng THPT CÈm
Thuû 1

18




×