Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

KẾ TOÁN QUẢN TRỊ hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.6 KB, 64 trang )

Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
BÀI 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
I.

Khái niệm, bản chất, vai trò của kế toán quản trị
1. Khái niệm
Kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống kế toán của hợp tác xã. Cho nên đối
tượng của kế toán quản trị cũng là tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Với mục tiêu của kế toán quản trị là cung cấp thông tin, đáp ứng yêu cầu
quản lý cụ thể trong nội bộ hợp tác xã, có một số định nghĩa về kế toán quản trị như sau:
Kế toán quản trị là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động sản
xuất kinh doanh một các cụ thể phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch (dự
toán), điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch (dự toán) và quản lý hoạt động kinh tế, tài
chính trong nội bộ hợp tác xã.
Ngoài ra còn có một số định nghĩa khác: kế toán quản trị là môn học trình bày các
phương pháp soạn thảo hệ thống các báo cáo nội bộ nhằm giúp cho người quản lý có được
các phương pháp phân tích, các công cụ quản trị hữu hiệu hơn. Kế toán quản trị là môn học
phục vụ cho công việc quản trị và điều hành hoạt động kinh doanh của hợp tác xã.
Kế toán quản trị là phương pháp xác định, đo lường phân tích, phiên dịch và truyền
đạt thông tin nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức. Kế toán quản trị là một bộ phận
quan trọng trong tiến trình quản lý và kế toán quản trị viên là thành viên chiến lược của bộ
phận quản lý tổ chức. Bộ phận quản lý tìm cách tạo ra nhiều giá trị cho tổ chức bằng cách
sử dụng hợp lý các nguồn lực vật chất, con người, các hoạt động để đạt được mục tiêu một
cách hiệu quả.
 Hệ thống kế toán quản trị
Trong nền kinh tế thị trường, các hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nói riêng hoạt
động trong điều kiện phức tạp, thường xuyên biến động dễ phát sinh rủi ro. Do đó, người
quản lý phải chủ động trong kinh doanh, thường xuyên có các điều chỉnh liên quan đến các
vấn đề kinh tế tài chính. Để các quyết định có xác suất sai lầm thấp nhất, thông tin để làm
cơ sở cho các quyết định phải là thông tin đa dạng, thông tin hữu ích. Những thông tin này
không cần thiết là số liệu của phòng kế toán, mà nó còn mang tính hoạch toán thống kê,


hoạch toán nghiệp vụ và không loại trừ các chỉ tiêu tài chính, bởi vì kế toán và tài chính
luôn có các quan hệ mật thiết trong các sự kiện kinh tế . Loại thông tin này chỉ được cung
cấp trong kế toán quản trị của hợp tác xã.
Như vậy kế toán quản trị không chỉ là kế toán chi tiết mà là kế toán chi tiết và phân
tích phục vụ yêu cầu quản trị hợp tác xã. Trong các hợp tác xã Việt Nam hiện nay, phần kế
toán tài chính là phần được chú trọng duy nhất, mặc dù các yêu cầu về cung cấp thông tin
phục vụ công tác quản lý luôn được đặt ra. Để hệ thống kế toán quản trị được áp dụng vào
các hợp tác xã Việt Nam, vận hành đồng thời với kế toán tài chính, cần phải có sự hướng
dẫn, tác động từ phía nhà nước.
Tuy nhiên kế toán quản trị xuất phát từ mục tiêu quản lý hợp tác xã, mang tính đặc thù
của loại hình hoạt động, nên không thể mang tính bắt buộc thống nhất trong các loại hình
hợp tác xã. Về phía hợp tác xã, là chủ thể hành động, cần phải nhận thức rõ sự cần thiết
của kế toán quản trị, phân biệt phạm vi kế toán quản trị, nội dung kế toán quản trị, phương
pháp tiến hành kế toán quản trị, để tổ chức tiến hành công tác kế toán quản trị, tổ chức sổ,
xây dựng hệ thống báo cáo nội bộ.
1


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Một hệ thống kế toán quản trị là một hệ thống thông tin nhằm cung cấp thông tin cho
người quản lý để sử dụng các nguồn lực và tạo ra giá trị. Nó là một phần của hệ thống
thông tin quản lý. Hệ thống kế toán quản trị thường xuyên tiến triển và thích nghi với các
thay đổi của môi trường kinh doanh. Gia tăng cạnh tranh toàn cầu và các thay đổi ngoạn
mục của khoa học kỹ thuật đang đặt ra nhu cầu lớn hơn về thông tin được cung cấp từ kế
toán quản trị. Nhiều tổ chức đang chuyển từ việc hoạch toán chi phí đã phát sinh sang
thông tin chi phí dùng để ra quyết định. Do đó, kế toán quản trị viên là một thành viên của
đội quản lý theo chức năng, người tìm kiếm tạo ra giá trị cho tổ chức bởi các nguồn lực tổ
chức, các hoạt động, và nhân lực để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
2. Bản chất của kế toán quản trị


Sự phát triển kinh tế xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác nhau về kế toán
quản trị và chính nền kinh tế thị trường đã làm nổi bậc nhu cầu về kế toán quản trị, thúc
đẩy kế toán quản trị phát triển nhanh chóng. Ngày nay kế toán quản trị có thể nhận thức
khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản kế toán quản trị là một quy trình định dạng, thu thập,
kiểm tra, định lượng để trình bày, giải thích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính về hoạt
động của hợp tác xã cho nhà quản trị thực hiện toàn diện các chức năng quản trị.
Kế toán quản trị ra đời, hình thành và phát triển gắn liền với nhu cầu thông tin quản trị
của những nhà quản trị trong hợp tác xã. Sự ra đời, phát triển của kế toán quản trị luôn gắn
liền với nghiên cứu đối tượng là nguồn lực kinh tế gắn liền với quy trình tạo giá trị của
hoạt động sản xuất kinh doanh tại hợp tác xã. Kế toán quản trị có những đặc điểm mang
tính chất quy chuẩn như kế toán tài chính và nó cũng có đặc điểm khá linh hoạt trong phản
ảnh, cung cấp thông tin quản trị. Kế toán quản trị luôn gắn liền với chức năng phản ảnh và
cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu thông tin để thực hiện các chức năng quản trị của
những nhà quản trị trong hợp tác xã. Để đảm bảo nội dung thông tin cho nhà quản trị, kế
toán quả trị cũng sử dụng khá linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật trong thu thập, định
lượng, trình bày, giải thích các thông tin quản trị. Quá khứ, hiện tại và tương lai, kế toán
quản trị luôn đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin thực hiện chức năng quản
trị.
3. Vai trò kế toán quản trị
3.1 Sự cần thiết áp dụng kế toán quản trị trong hợp tác xã
Kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhà hợp tác xã phải biết mình là ai, hoạt động
sản xuất kinh doanh như thế nào, hiệu quả ra sao ...? Hàng loạt câu hỏi đó đặt ra cho nhà
quản lý cần phải giải thỏa đáng. Trên thực tế, các nhà quản lý đã vận dụng nhiều phương
pháp quản lý khác nhau để thức đẩy sự quản lý của hợp tác xã. Song áp dụng kế toán quản
trị - một công cụ chủ yếu trong hệ thống công cụ quản lý đã và đang còn là vấn đề phức
tạp, vừa có ý nghĩa về lý luận, vừa có ý nghĩa về thực tiễn.
Với sự phát triển của hệ thống thông tin nói riêng và nền kinh tế nói chung, làm cho
kế toán quản trị trở thành công cụ sắc bén trong việc chỉ đạo quá trình sản xuất kinh doanh
và cung cấp dịch vụ của bất kỳ loại hình hợp tác xã nào. Bởi gì bất kỳ nhà kinh doanh nào
đều có mục đích hướng tới lợi nhuận tối đa trong dài hạn. Nếu là tổ chức hoạt động không

vì mục tiêu lợi nhuận như: hội chữ thập đỏ, hội nông dân, ủy ban nhân dân, trường học thì
vẫn có mục tiêu là hiệu quả tối ưu. Để đạt được mục tiêu này thì việc tính toán lợi nhuận
hay hiệu quả đều dựa trên cơ sở doanh thu, chi phí. Thêm vào đó khi kinh doanh nhiều loại
dịch vụ, sản phẩm, hàng hóa thì nhà hợp tác xã cần phải biết sản phẩm nào, hàng hóa nào
đem lại lợi nhuận cao nhất bên cạnh chỉ tiêu tổng lợi nhuận. Do đó, kế toán quản trị không
những chỉ cung cấp thông tin chi tiết, tỷ mỉ theo yêu cầu quản lý mà còn có khả năng phát
2


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
hiện những khả năng tiềm ẩn mà hợp tác xã chưa khai thác như: tình hình tiết kiệm chi phí,
sử dụng hiệu quả nguồn tài lực, nhân lực, vật lực của hợp tác xã.
Kế toán quản trị cung cấp thông tin chi tiết, có độ tin cậy, phù hợp với ý tường về yêu
cầu của nhà quản lý. Trên cơ sở đó có thể quyết định phương án kinh doanh tối ưu nhất
nào – từ một tổ hợp công nghiệp cho tới một cửa hàng thực phẩm – đều phải dựa vào các
thông tin của kế toán. Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như: ngân hàng,
khách sạn, các công ty bảo hiểm, kế toán, luật,...đều cần thông tin kế toán quản trị để quyết
định chi phí của các dịch vụ cung cấp và định giá cho các dịch vụ đó. Các tổ chức kinh
doanh vì lợi nhuận sử dụng các thông tin của kế toán quản trị để điều hành các hoạt động
và tối đa hóa lợi nhuận. Các tổ chức phi lợi nhuận và các cơ quan chính phủ sử dụng thông
tin kế toán quản trị để lập các dự toán ngân sách và báo cáo kết quả thực hiện. Các kế toán
viên, các chuyên gia phân tích tài chính, các đại lý bảo hiểm, các chuyên viên ngân hàng,
chuyên viên nghiên cứu thị trường và các nhà kinh tế...đều sử dụng thông tin của kế toán
quản trị. Mọi nhân viên trong hợp tác xã có liên quan tới công tác quản lý đều phải dựa vào
thông tin của kế toán quản trị.
Nhà quản lý có thể có được thông tin chắc chắn từ những báo cáo tài chính định kỳ,
nhưng thường thì những thông tin này không đầy đủ cho những yêu cầu của họ. Bởi vì
những báo cáo tài chính này chứa đựng những thông tin tổng quát và theo định kỳ, trong
khi đó nhà quản lý cần những thông tin mang tính chi tiết, cập nhật và có định hướng cho
tương lai để điều hành những hoạt động cụ thể, gắn liền với từng bộ phận, từng chức năng

nhất định và phù hợp với yêu cầu ra quyết định kinh doanh.
3.2 Vai trò của kế toán quản trị trong đều hành hợp tác xã
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hợp tác xã phải lập kế hoạch cho hợp tác
xã mình. Từ đó các bộ phận triển khai thành các mục tiêu thực hiện và kiểm tra kết quả
thực hiện các mục tiêu này. Đó chính là kiểm tra quản lý – kiểm tra hướng hoạt động của
hợp tác xã. Trong quá trình thực hiện các mục tiêu đề ra phải quản lý các quy trình cụ thể,
chi tiết hơn như quản lý tồn kho, quản lý sản xuất...
Kế toán quản trị là công cụ để dánh giá việc thực hiện những mục tiêu thông qua việc
phân tích các chi phí, là công cụ kiểm tra quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh theo kế hoạch đề ra, từ đó có những quyết định hợp lý để hoạt động ngày càng có
hiệu quả cao hơn. Do đó, kế toán quản trị là công cụ chủ yếu để điều hành quản lý, là một
bộ phận quan trọng trong tiếp thị để quyết định sản xuất kinh doanh nhiều hơn hay ít hơn
mặt hàng này hay mặt hàng khác.
3.3 Vai trò của quản trị viên
Kế toán viên có chức năng quan trọng thực sự trong bất kỳ hợp tác xã nào. Như là
người cung cấp thông tin, họ phải nắm rõ từng động tĩnh của tổ chức. Trong hầu hết các
lĩnh vực, kế toán viên và các người bán hàng, chuyên gia tài chính, người sản xuất, nhà
quản trị các cấp thường xuyên tác động lẫn nhau. Để thi hành các nhiệm vụ một cách hiệu
quả, người làm công tác kế toán quản trị phải có kiến thức không chỉ về kế toán mà còn
các lĩnh vực khác. Hơn nữa, các kỹ năng giao tiếp, nói cũng như viết sắc bén ngày càng
tăng cơ hội cho sự thành công của kế toán viên. Để nâng cao trình độ chuyên môn, người
làm công tác kế toán nên tham gia vào các tổ chức nghề nghiệp để bắt kịp các phát triển
mới trong lĩnh vực này. Thêm vào đó vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng cần được tuân thủ.
Như là một nghề nghiệp, kế toán viên có nghĩa vụ với chính họ và tổ chức để giữ vững các
chuẩn mực của đạo đức nghề nghiệp.
3


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Cụ thể là vấn đề năng lực, các nhân viên làm công tác kế toán có trách nhiệm duy trì

trình độ nghiệp vụ thích hợp bằng cách nâng cao kiến thức và kỹ năng của mình, hoàn
thành các trách nhiệm phù hợp với luật lệ, quy định và chuẩn mực nghiệp vụ thích hợp,
chuẩn bị các báo cáo rỏ ràng và hoàn chỉnh và đề nghị dựa vào các phân tích hợp lý của
các thông tin thích hợp và xác thực. Thêm vào đó sự cẩn mật cũng cần được hiểu đúng.
Các nhân viên làm công tác kế toán hay quản trị tài chính có trách nhiệm giữ kín các thông
tin bí mật được biết khi làm việc không kể khi được ủy quyền trừ khi nghĩa vụ phải như
vậy, thông báo cho cấp dưới biết các thông tin thích hợp với công việc của họ và quản lý
các công việc đó để đảm bảo giữ vững sự cẩn mật, giữ kín các thông tin thu được và đã sử
dụng hoặc xuất hiện từ công việc cho các cá nhân bất hợp pháp hoặc ngay cả đệ tam nhân.
Để có thể cung cấp các thông tin có giá trị cao đòi hỏi kế toán viên có tính tích cực. Các kế
toán viên trách nhiệm tránh các xung đột về lợi ích và báo trước cho các bên về bất cứ
xung đột nào có thể xảy ra. Trong bất kỳ hoạt động nào, hạn chế các lời hứa tạo thành kiến
về khả nằn của người khác khi tiến hành các nhiệm vụ, từ chối bất kỳ quà tặng, đặc ân mà
ảnh hưởng hoặc có vẻ ảnh hưởng đến hoạt động của mình. Nội dung cuối cùng trong vấn
đề đạo đức nghề nghiệp là tính khách quan. Các kế toán viên phải truyền đạt thông tin
chính xác khách quan, đầy đủ tất cả các thông tin thích hợp mà những người sử dụng các
báo cáo, các lời bình luận hay giới thiệu mong đợi hay định dùng.
Để quyết định các vấn đề thuộc về đạo đức, kế toán viên nên thẻo luận tình huống với
các người giám sát trực tiếp, nhưng phải đảm bảo rằng cá nhân đó không dính líu đến vấn
đề cần được tư vấn. Nếu có thì nên thảo luận với cấp quản lý cao hơn.
 Nhiệm vụ của người làm công tác kế toán quản trị
- Xác định chỉ tiêu quản lý ở từng bộ phận của hợp tác xã: Trên thực tế nhiều doanh nghiệp
chỉ cần tập trung quản lý chi tiết một số chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình phát triển và hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã. Như vậy, chọn chỉ tiêu nào, vào thời
điểm nào để quản lý có hiệu quả, nhằm thu thập được thông tin, phục vụ cho việc ra quyết
định là rất cần thiết đối với người làm công tác kế toán.
- Thu nhận thông tin theo các chỉ tiêu đã lựa chọn: Nhiều nguồn thông tin phục vụ cho kế
toán quản trị nguồn thông tin này có thể thu thập từ các kế hoạch, dự toán trong ngắn hạn
hay dài hạn, thông tin của bộ phận thống kê trong hợp tác xã, của ngành hay niên giám
thống kê, hệ thống dự báo, sổ sách ghi chép ban đầu, đây là thông tin của bộ phận kế toán

tài chính. Kế toán viên cần căn cứ vào các chỉ tiêu đã lựa chọn để thu thập thông tin cho
phù hợp.
- Xử lý thông tin: Sau khi thông tin đã được thu thập phù hợp với các chỉ tiêu đã lựa chọn,
cần phải thực hiện việc xử lý thông tin theo các nguyên tắc sau. Thứ nhất là loại bỏ các
thông tin không quan trọng, kế tiếp là tính toán, phân bổ các số liệu theo tiêu chuẩn phân bổ
thich hợp cho các chỉ tiêu cụ thể để có kết quả chi tiết, sau cùng là tổng hợp các số liệu chi
tiết liên quan đến chỉ tiêu lựa chọn và phân tích chi tiết. Trên cơ sở đó hình thành các báo
cáo phù hợp.
- Cung cấp thông tin: Sau khi sử lý và phân tích, tổng hợp các thông tin liên quan đến các chỉ
tiêu quản lý, kế toán viên phải đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý theo từng tình
huống cụ thể, nhận xét, đánh giá và trình bày kiến nghị cho từng phương án. Đây là giai
đoạn mang tính nghệ thuật hơn là khoa học. Vì phương pháp cung cấp thông tin, thời điểm
cung cấp ảnh hưởng đến mức độ thành công của dự án.
- Quyết định lựa chọn phương án: Việc quyết định lựa chọn phương án tốt nhất thuộc quyền
của người lãnh đạo kinh doanh cao nhất trong hợp tác xã. Tuy nhiên, họ phải tham khảo các
4


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
ý kiến khác nhau đã được trình bày trong báo cáo kế toán và các tờ trình phương án kinh
doanh của các bộ phận quản lý, tư vấn trong doanh nghiệp. vì vậy, lựa chọn phương án
đúng hay chưa đúng phụ thuộc nhiều vào quá trình thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin
của kê toán quản trị.
Xác định các chỉ tiêu quản lý
Hoạt động sản xuất kinh doanh

Thu thập thông tin

Quyết định
Xử lý thông

Cung cấp thông tin

SƠ ĐỒ 1.1 NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
4. So sánh giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Ở giác độ của hệ thống thông tin kế toán, kế toán quản trị và kế toán tài chính là hai
bộ phận không thể thiếu để cung cấp thông tin. Dựa vào các khái niệm về kế toán được
trình bày theo 3 khía cạnh. Theo khoa học, kế toán là một khoa học, với phương pháp riêng
của mình nghiên cứu đối tượng là tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự vận động của
chúng trong quá trình hoạt động kinh doanh. Theo tác nghiệp: kế toán là công việc ghi
chép, theo dõi, phản ánh, báo cáo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến sự thay đổi
về tài sản, nguồn vốn và quá trình sản xuất kinh doanh theo các nguyên tắc kế toán chung
được chấp nhận rộng rãi. Theo khía cạnh quản trị: kế toán là công cụ đắc lực và chủ yếu
nhất trong việc cung cấp thông tin hữu ích một cách có hệ thống cho quá trình quản trị nội
bộ tổ chức.
Kế toán tài chính sử dụng các thông tin kế toán để báo cáo cho các tổ chức bên ngoài.
Người sử dụng thông tin của kế toán tài chính bao gồm cổ đông hiện tại và tiềm năng, chủ
nợ, nhà phân tích tình hình đầu tư, các đoàn thể, khách hàng, nhà cung cấp và các cơ quan
nhà nước có liên quan như thống kê, thuế, hoạch định chiến lược. Thông tin này cung cấp
ra bên ngoài thông qua các báo cáo đối ngoại được lập định kỳ và theo khuôn mẫu do bộ
tài chính quy định. Theo quy định hiện hành, hệ thống báo cáo tài chính có bốn loại báo
cáo. Với định nghĩa của kế toán tài chính thì vẫn có sự giống nhau giữa thông tin kế toán
tài chính và kế toán quản trị là cả hai cùng sử dụng dữ liệu ban đầu là các chứng từ kế
toán. Đây là hệ thống các thủ tục được các bộ phận và máy tính cập nhật hằng ngày, tính
toán và lưu trữ dữ liệu tài chính của tổ chức. Cả hai bộ phận đều thể hiện trách nhiệm quản
lý và phục vụ cho những người cần sử dụng thông tin kế toán. Một phần quan trọng trong
toàn bộ hệ thống kế toán là kế toán chi phí tích trữ các dữ liệu chi phí cho quản lý. Ví dụ
như chi phí sản xuất giúp nhà quản trị xác định giá bán (kế toán quản trị), giá trị hàng tồn
khô trong bản cân đối kế toán (kế toán tài chính). Hai hệ thống thông tin này có mối quan
hệ chặt chẽ qua các điểm sau đây. Cùng phục vụ cho việc quản lý quá trình sản xuất kinh
doanh của hợp tác xã nhưng ở các gốc độ khác nhau. Đều là các bộ phận của một hệ cung

cấp thông tin kế toán. Trong khi kế toán tài chính cung cấp thông tin tổng quát, kế toán
5


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
quản trị sử dụng rộng rãi các số liệu ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính nhằm cụ thể
hóa các số liệu, phân tích một cách chi tiết để phục vụ yêu cầu quản lý cụ thể. Kế toán
quản trị và kế toán tài chính đều gắn liền với trách nhiệm quản lý trên các gốc độ khác
nhau. Kế toán tài chính liên quan đến trách nhiệm quản lý ở từng bộ phận. Từng hoạt động,
từng hoạt động, từng loại chi phí, thu nhập cụ thể. Song chúng có sự hỗ trợ, bổ sung nhau
cùng phục vụ mục đích quản lý và phát triển hợp tác xã.
Tuy nhiên, khi nhắc đến hai hệ thống thông tin này thì thường tập trung vào các điểm
khác nhau. Kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống thông tin kế toán và khác với kế
toán tài chính ở một số điểm. Những người sử dụng thông tin kế toán quản trị là những
người quản lý bên trong tổ chức. Thông tin kế toán quản trị thì không có tính chất bắt
buộc, không bị kiểm soát, và có thể lấy thông tin của hệ thống kế toán và cả các nguồn
khác. Ngược lại, phần lớn người sử dụng thông tin kế toán tài là những người bên ngoài tổ
chức, tuân theo các chuẩn mực kế toán và dựa trên các nghiệp vụ đã hoàn thành. Chúng có
những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
BẢNG 1.1 SỰ KHÁC NHAU GIỮA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ KẾ TOÁN TÀI
CHÍNH
Kế toán quản trị

Kế toán tài chính

Bên trong tổ chức: quản lý
và nhân viên các cấp

Bên ngoài tổ chức: ngân
hàng, cổ đông, nhà cung

cấp, tổ chức nhà nước...

Nguyên tắc trình bày và
cung cấp thông tin

Không theo các chuẩn mực
và quy định bên ngoài tổ
chức. Thông tin được trình
bày và cung cấp theo nhu
cầu của người quản lý

Phải tuân thủ nghiêm túc
các chuẩn mực kế toán và
quy định hiện hành của Bộ
Tài chính

Nguồn thông tin

Các thông tin tài chính và
phi tài chính, thực tế hay
kế hoạch, bên trong hay
bên ngoài cung cấp

Các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh và đã hoàn thành có
chứng từ hợp pháp

Đặc điểm thông tin

Thông tin lịch sử, hiện tại,

tương lai, chủ quan, thích
hợp, kịp thời, chi tiết theo
yêu cầu

Thông tinlichj sử, khách
quan, được kiểm toán, tin
cậy, không thất thiết phải
kịp thời và thích hợp

Thời điểm báo cáo

Theo yêu cầu, chu kỳ ngắn

Định kỳ theo năm tài chính

Nhiều

ít

Đối tượng sử dụng thông
tin

Quan hệ với các chuyên
ngành khác

 Mục tiêu của hoạt động kế toán quản trị

Ngày nay việc phân tích trong kế toán quản trị được xem xét quá nhiều trong quản lý
một hợp tác xã ở hầu hết tình huống kế toán quản trị viên là thành viên quan trọng của ban
6



Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
quản lý. Lúc trước kế toán viên đóng vai trò thụ động như người cung cấp thông tin, thì bây
giờ là vai trò tiên phong trong các quyết định chiến lược và quyết định hằng ngày của công
ty.
Mặc dù nhiều thông tin do bộ phận kế toán cung cấp thuộc tài chính, ở đây có xu
hướng trình bày cả các dữ liệu phi tài chính trong hệ thống kế toán quản trị. Kế toán viên
cung cấp mọi loại thông tin để quản lý và hành động như những thành viên chiến lược trong
vai trò quản lý. Hệ thống kế toán quản trị hiện tại tập trung vào ngày càng nhiều vào các
hoạt động xảy ra ở mọi cấp trong tổ chức. Đo lường, quản lý và cải tiến các hoạt động tổ
chức liên tục thì ảnh hưởng đến thành công của công ty. Hoạt động kế toán quản trị thông
thường có năm mục tiêu chính. Đầu tiên hoạt động kế toán nhằm cung cấp thông tin cho
việc ra quyết định và lập kế hoach, và tham gia trước tiên như một thành viên chiến lược
của ban quản lý trong việc định hướng và điều khiển các hoạt động tổ chức, đồng thời thúc
đẩy người quản lý và các nhân viên khác phấn đấu hoàn thành các mục tiêu của tổ chức
trong ngắn hạn hay dài hạn. Một mục tiêu khác của bộ phận kế toán quản trị là theo dõi và
đo lường sự thực hiện các hoạt động. Những người quản lý và các nhân viên khác trong hợp
tác xã. Đối với đa số hợp tác xã thì bộ phận kế toán phải thường xuyên đánh giá vị trí cạnh
tranh toàn cầu như hiện nay.
Mục tiêu của kế toán xuất phát từ mục tiêu của hợp tác xã là tối đa hóa lợi nhuận và
tối đa hóa thu nhập cho các thành viên. Tuy nhiên lợi nhuận chưa phải là mục tiêu duy nhất
vì nó luôn bị bóp méo do các nguyên nhân như lợi nhuận đôi khi là đều mơ hồ vì dựa vào
các nguyên tắc kế toán. Vì thế áp dụng các phương pháp kế toán khác nhau sẽ cho kết quả
kinh doanh khác nhau. Đôi khi lợi nhuận khác hoàn toàn với dòng tiền mặt, là hiệu số giữa
doanh thu và chi phí. Điều này dẫn đến một số hợp tác xã kinh doanh có lợi nhuận nhưng
không có khả năng thanh toán, làm mất tính cạnh tranh trong thương trường, thậm chí
không thể tồn tại. Cuối cùng lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro, tỷ suất lợi nhuận càng cao
thì tỷ số an toàn càng giảm. Từ đó, trong tất cả các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư,
hoạt động tài chính, hợp tác xã nên xem xét tính đến hiệu quả của hoạt động thông qua sự

trợ giúp của bộ phận kế toán quản trị.
II.
Các chủ đề chính trong kế toán quản trị hiện đại
1. Thông tin và các động cơ
Nhu cầu thông tin là xuất phát điểm để tổ chức bộ phận kế toán quản trị. Tuy nhiên
thông tin của kế toán quản trị thường phục vụ hai chức năng: làm thuận tiện và ảnh hưởng
đến quyết định. Thông tin thường được cung cấp cho người ra quyết định để giúp họ chọn
một phương án. Thông thường các thông tin này cũng làm ảnh hưởng đến quyết định của
người quản lý.
2. Vấn đề về cách ứng xử
Sự phản tác dụng của cá nhân và nhóm của các thông tin kế toán quản trị sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng lên các hiệu quả hoạt động của tổ chức. Nếu quá nhiều thông tin chi
tiết được cung cấp cho người quản lý sẽ làm loãng thông tin và mất tập trung vào các điểm
chính. Câu hỏi đặt ra về xu hướng ứng xử và các giới hạn theo kinh nghiệm của kế toán
quản trị viên trong việc sử dụng thông tin. Kế toán quản trị viên hiểu biết về cách cư xử
càng tốt, thì anh/chị sẽ trở thành người cung cấp thông tin càng hiệu quả.
3. Chi phí và lợi ích
Thông tin là một loại hàng hóa, giống như lúa hay bắp. Nó có thể được tạo ra, mua
bán, tiêu thụ. Nó có thể có chất lượng cao hay thấp, sớm hay muộn, thích hợp cho các mục
đích định trước hay hoàn toàn không thích hơp. Đúng với tất cả các loại hàng hóa và dịch
7


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã

4.



-


-

-

-

-

1.
2.

3.
4.
5.

vụ, thông tin đưa đến cả chi phí và thu nhập. Mong muốn của bất kỳ kỹ thuật hay thông tin
kế toán nào cần phải xác định được các chi phí và lợi ích. Tuy nhiên, chúng ta ủng hộ việc
từ bỏ vấn đề chi phí lợi ích ở phạm vi hợp tác xã hay trong ngắn hạn để thu nhập thông tin
mặc dù tốn nhiều chi phí.
Sự phát triển và thích ứng
Kế toán quản trị là một khoa học còn non trẻ. Do đó các khái niệm và công cụ kế toán
quản trị vẫn mở ra nhiều cách mới trong việc tìm ra cách cung cấp thông tin trợ giúp việc
quản lý. Hơn nữa, môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng nên kế toán quản trị là
công cụ hữu ích cho tương lai cũng như quá khứ và nó phải thích ứng với các thay đổi đó.
Vài thay đổi trong môi trường kinh doanh có thể liên quan đến kế toán quản trị và ảnh
hưởng của các thay đổi đó lên nhiều chủ đề khác của kế toán quản trị và ảnh hưởng của các
thay đổi đó lên nhiều chủ đề khác nhau của kế toán quản trị sẽ được tìm ra sau đó như cạnh
tranh toàn cầu, chú trọng đến khách hàng, ứng dụng máy tính vào sản xuất, quản lý hàng
tồn kho, quản lý chất lượng toàn bộ, cải tiến liên tục.

Đặc điểm của chuyên ngành
Kế toán quản trị tập trung vào quản lý hiệu quả các nguồn lực để quản lý các cấp xếp
hạng chúng nhằm tăng cường giá trị khách hàng và gia tăng vốn chủ sở hữu. Vì thế đặc
điểm của chúng tập trung vào các điểm sau:
Đặt trọng tâm cho tương lai hơn là nhìn lại quá khứ để tận dụng các kỹ thuật phân tích
nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh hiện tại theo các khía cạnh như chất lượng, kênh phân
phối, thời gian, cải tiến liên tục.
Cung cấp các thông tin cho sử dụng nội bộ để xây dựng các chiến lược kinh doanh.
Tập trung vào các bộ phận hơn là toàn bộ hợp tác xã trong viecj lập kế hoạch ngân sách và
điều khiển sự thực hiện.
Có sự linh hoạt và mềm dẻo cảo trong việc đánh giá chi phí đầu vào.
Để nghiên cứu kế toán quản trị, kế toán có thể sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp
nghiệp vụ.Sau đây là một số các phương pháp nghiệp vụ cơ sở dùng trong kế toán quản trị.
Thiết kế thông tin thành dạng so sánh được: đây là phương pháp cơ bản của kế toán để
người sử dụng thông tin có thể đưa ra những nhận xét thích đáng hơn như so sánh kỳ này
với kỳ trước, thực tê với kế hoạch, số liêu của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh hay mức
trung bình ngành.
Phân loại chi phi: đây là phương pháp đặc trưng của kế toán quản trị dựa trên quan điểm
những loại quyết định khác nhau đòi hỏi những cách phân loại phù hợp.
Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán dưới dạng phương trình: đây là phương
pháp ứng dụng những kết quả toán học vào phân tích kế toán dựa trên một số giả định cần
thiết.
Trình bày thông tin dưới dạng đồ thị: đây là phương pháp mang tính trực quan sinh động
nhằm mô phỏng thông tin và đưa ra những nhận xét hợp lý nhất.
Câu hỏi ôn tập
Kế toán quản trị là gì?
“Kế toán quản trị là một bộ phận của kế toán nhằm cung cấp những thông tin kinh tế cho tất
cả những người có liên quan hay quan tâm”. Bạn có đồng ý với nhận định này không? Giải
thích?
Phân biệt giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính theo nhiều khía cạnh?

Ra quyết định có phải là chức năng quan trọng nhất của nhà quản lý không? Giải thích?
Bài tập tình huống
8


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Ông Nguyễn Chiến Thắng là nhân viên văn phòng của công ty lớn ở Cần Thơ. Nam
nay ông 52 tuổi nhưng đã bị hợp tác xã cho về hưu non. Lý do là hợp tác xã đã áp dụng
thành công nhiều tiến bộ kỹ thuật nên không c.ần nhiều nhân viên nữa. sau khi thanh toán
các khoản, ông chuyển về cù lao ở quê sống. Đây là vùng có rất nhiều vườn trái cây và ông
cũng là chủ một mảnh vườn tươi tốt cạnh bờ sông. Vài năm gần đây có nhiều du khách đến
với cù lao này để tận hưởng không khí trong lành, thưởng thức trái cây, câu cá, bơi thuyền.
Với sô vốn tự có và sự ủng hộ của người thân. Ông thắng đã mở rộng thêm quy mô hoạt
động và cung cấp thêm nhiều dịch vụ vui chơi giải trí. Số lượng du khách ngày càng tăng
nên việc kinh doanh cũng thuận lợi và ngày càng phát triển. Từ đó ông thuê một nhân viên
kế toán. Mục tiêu của ông trong ngắn hạn là kêu gọi hợp tác và thành lập một hợp tác xã du
lịch sinh thái và làm cho nó ngày càng lớn mạnh.
a. Những thông tin gì mà ông Thắng cần nhân viên kế toán cung cấp?
b. Để thực hiện mục tiêu ủa mình ông cần sự tham gia của nhân viên kế toán nhưng cô đã từ
chối vì nói rằng cô chỉ biết ghi chép theo các chứng từ có sẵn. Như vậy là đúng hay sai?
c. Những sự chuẩn bị nào nên làm để việc kinh doanh tốt hơn?

9


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
BÀI 2. CHI PHÍ VÀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ
I.

II.


Khái quát về chi phí
Để hoạt động hiệu quả, mọi tổ chức nói chung và hợp tác xã nói riêng tập chung quản
lý các nguồn lực. Chính vì thế, hiểu và quản lý chi phí là một phần rất quan trọng của kế
toán quản trị. Người quản lý sử dụng các thông tin liên quan đến chi phí để lập kế hoạch,
điều tiết các chi phí hiện hành. Chi phí nói chung là sự hao phí bằng tiền trong quá trình
kinh doanh. Chi phí phát sinh trong các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ nhằm đạt
mục tiêu cuối cùng của hợp tác xã là doanh thu và lợi nhuận.
Chi phí được định nghĩa theo nhiều phương diện khác nhau. Chi phí có thể hiểu một
cách trừu tượng là biểu hiện bằng tiền những hao phí lao động sống và lao động vật hóa
phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc chi phí là những phí tổn về
nguồn lực, tài sản cụ thể sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những nhận thức
chi phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện chi phí nhưng tất cả đều thừa
nhận một vấn đề chung: chi phí là phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh
gắn liền với mục đích kinh doanh. Đây chính là bản chất kinh tế của chi phí. Bản chất này
giúp nhà quản trị phân biệt được chi phí với chi tiêu, chi phí với vốn. Thật vậy, chi phí gắn
liền với hoạt động sản xuất kinh doanh, được tài trợ từ vốn kinh doanh và được bù đắp từ
thu nhập, chi tiêu không gắn liền với mục đích kinh doanh, được tài trợ từ những nguồn
khác vốn kinh doanh như quỹ phúc lợi, trợ cấp của nhà nước...và không được bù đắp từ thu
nhập hoạt động kinh doanh, vốn là biểu hiện bằng tiền những tài sản của hợp tác xã nhưng
bản thân chúng chưa tạo nên phí tổn.
Đối với những người quản lý thì chi phí là mối quan tâm hàng đầu, bởi vì lợi nhuận
thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của những chi phí đã chi ra. Do đó vấn đề
được đặt ra làm sao kiểm soát được các khoản chi phí. Nhận diện, phân tích các hoạt động
sinh ra chi phí là điều mấu chốt để có thể quản lý chi phí, từ đó có những quyết định đúng
đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã.
Từ chi phí thì quen thuộc với mọi người. Chúng ta thảo luận về chi phí của một cá
nhân, chi phí hội thảo khoa học, hay học phí. Nhưng đối với chương này, từ chi phí có
nhiều nghĩa khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Kế toán quản trị viên thường dùng
chi phí đã được phân loại theo nhiều cách khác cho các mục đích khác nhau. Hiểu được các

thuật ngữ chi phí, nội dung các phân loại là cơ sở cho bất cứ nghiên cứu nào về kế toán
quản trị.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
1. Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế
Cách phân loại này cho thấy vị trí, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh ở hợp tác xã, là căn cứ để xác định giá thành sản phẩm và
tập hợp chi phí, cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính. Cách
phân loại này thường sử dụng ở các hợp tác xã sản xuất sản phẩm. Một hợp tác xã sản xuất
gắn liền với sự chuyển biến của nguyên liệu (đầu vào) thành thành phẩm (đầu ra) thông qua
sự nổ lực công nhân và việc sử dụng thiết bị sản xuất. Từng phân xưởng sản xuất cần xác
định đối tượng chịu chi phí – đối tượng chịu chi phí trình bày sự phân loại chi phí theo nơi
phát sinh của chi phí . Ví dụ như nhiên liệu từ kho xuất ra được sử dụng cho phân xưởng,
cho phòng hành chính hay cửa hàng. Tóm lại chi phí sản xuất là những khoản mục chi phí
phát sinh tại nơi sản xuất hay tại phân xưởng.
10


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Thêm vào đó, cách phân loại chi phí này cung dựa trên tính chất của tài sản thường
xuyên và tài khoản tạm thời: một khoản mục chi phí thuộc loại tài khoản thường xuyên sẽ
được phép có số dư cuối kỳ trong khi một khoản mục chi phí thuộc loại tài khoản tạp thời
không được phép có số dư cuối kỳ.
1.1 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí này bao gồm nhiều loại nguyên liệu, vật liệu chính tạo ra thực thể của sản
phẩm: sắt, thép, gỗ, vải,...được xác định thông qua phiếu xuất kho nguyên liệu. Chi phí về
nguyên vật liệu trực tiếp được tính thẳng vào chi phí sản xuất sản phẩm, ngoài ra trong quá
trình sản xuất còn phát sinh những loại nguyên liệu có tác dụng phụ thuộc, nó kết hợp với
nguyên liệu chính để sản xuất ra sản phẩm. Vật liệu phụ có tác dụng là tăng chất lượng sản
phẩm, hoặc tạo ra màu sắc, mùi vị hoặc rút ngắn chi kỳ sản xuất của sản phẩm. Thông
thường chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành. Chi phí này tăng

giảm có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
1.2 Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí này bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp liên quan đến tiền lương của
người công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm được tập hợp như là chi phí tiền lương trực
tiếp. Khả năng và kỹ năng của họ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng của
sản phẩm. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí về tiền lương, các khoản tính theo
lương được tính thẳng vào sản phẩm họ sản xuất ra. Một số ngành nghề thì chi phí này
tương đối lớn, nhưng khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì chi phí này cung giảm
nhanh chống.
1.3 Chi phí sản xuất chung
Tất cả những khoản mục phát sinh tại nơi sản xuất hay phân xưởng mà không phải là
chi phí nguyên liệu trực tiếp và chi phí tiền lương trực tiếp được xem là chi phí sản xuất
chung bao gồm: chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí khấu hao tài sản cố định, sửa
chữa, bảo trì, quản lý tại phân xưởng...Trên giác độ toàn hợp tác xã cũng phát sinh những
khoản chi phí tương tự gắn liền với quá trình quản lý và tiêu thụ, nhưng không được kể là
một phần của chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung có ba đặc điểm chính. Thứ nhất nó bao gồm nhiều khoản mục
chi phí khác nhau nên chúng được nhiều bộ phận khác nhau quản lý và rất khó kiểm soát.
Thêm vào đó chi phí chung có tính chất gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm hay dịch vụ nên
không thể tín thẳng vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ cung cấp giống như chi phí nguyên
ật liệu và nhân công. Cuối cùng chi phí sản xuất chung bao gồm cả định phí, biến phí và chi
phí hỗn hợp, trong đó định phí thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Do tính chất gián tiếp của chi phí sản xuất chung, nên để tính giá thành của các bộ
phận khác nhau phải tiến hành phân bổ chi phí thông qua đơn giá phân bổ và số lượng căn
cứ phân bổ sử dụng. Công thức phân bổ chi phí sản xuất chung:
Đơn giá phân bổ = Tổng CPSXC ước tính / Tổng số đơn vị được chọn làm căn cứ
Chi phí sản xuất chung phân bổ = Đơn giá phân bổ x Số lượng căn cứ phân bổ
Thông thường các căn cứ phân bổ được chọn là tổng số giờ lao động trực tiếp, tổng số
giờ máy hoạt động, khối lượng sản phẩm,...
1.4 Chi phí thời kỳ

Chi phí này còn được gọi là chi phí hoạt động, chi phí kinh doanh, là chi phí phát sinh
ngoài nơi sản xuất hay phân xưởng sản xuất hay là những chi phí làm giảm lợi tức của đơn
vị trong kỳ. Những chi phí phát sinh trong quá trình quản lý đều hành hợp tác xã khi tiến
11


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
hành hoạt động kinh doanh được xem là chi phí quản lý. Đó là những chi phí hành chính, kế
toán, quản lý chung,...Ở tất cả các hợp tác xã đều có loại chi phí này.
Những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình đem sản phẩm đến người mua được
gọi là chi phí bán hàng, bao gồm các khoản chi phí như vận chuyển, bốc vát, bao bì, lương
nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, khấu hao tài sản cố định và những chi phí liên
quan đến khâu dự trữ thành phẩm. Loại chi phí này xuất hiện ở tất cả các loại hình hợp tác
xã như sản xuất, thương mại, dịch vụ...Ranh giớ giữa chi phí bán hàng và chi phí quản lý
không phải lúc nào cũng rành mạch. Trừ yêu cầu phân tích, trong một số trường hợp không
cần thiết phải phân biệt 2 loại chi phí này.
Như vậy, chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ khác nhau ở chỗ: chi phí thời kỳ phát
sinh ở thời điểm nào được tính ngay vào kỳ đó và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi tức của kỳ mà
chúng phát sinh. Ngược lại chi phí sản phẩm thì phải tính để xác định kết quả khi sản phẩm
được tiêu thụ, không phải tính ở kỳ mà chúng phát sinh. Tuy nhiên, chi phí sản phẩm cũng
ảnh hưởng đến lợi tức nhiều kỳ của hợp tác xã vì sản phẩm có thể được tiêu thụ ở nhiều kỳ
khác nhau.
Chi phí sản xuất

Bảng cân đối kế toán

Nguyên liệu trực tiếp

Nguyên liệu tồn kho


Báo cáo kết quả kinh doanh

Doanh thu

Trừ
Nhân công trực tiếp

Sản phẩm dở dang

Thành phẩm

Sản xuất chung

Giá vốn hàng bán
Trừ
Lãi gộp
Trừ

Chi phí thời kỳ

Chi phí bán hàng và quản lý
=
Lãi thuần

12


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
SƠ ĐỒ 2.1 SỰ LUÂN CHUYỂN CỦA CHI PHÍ TRONG HỢP TÁC XÃ SẢN XUẤT
1.5 Chi phí ban đầu, chi phí chuyển đổi

Chi phí nguyên liệu trực tiếp kết hợp với chi phí tiền lương trực tiếp được gọi là chi
phí ban đầu. Chi phí này có tác dụng phản ảnh mức chi phí đầu tiên, chủ yếu của sản phẩm,
đồng thời phản ánh mức chi phí riêng biệt, cụ thể từng đơn vị sản phẩm mà ta nhận diện
ngay trong tiến trình sản xuất, và là cơ sở lập kế hoạch về lượng chi phí chủ yếu cần thiết
nếu muốn sản xuất sản phẩm đó.
Chi phí tiền lương trực tiếp kết hợp với chi phí chung được gọi là chi phí chuyển đổi.
Chi phí này có tác dụng phản ánh mức chi phí cần thiết để chuyển đổi nguyên liệu từ dạng
thô sang dạng thành phẩm, và là cơ sở để lập kế hoạch về lượng chi phí cần thiết để chuyển
biến một lượng nguyên liệu nhất định thành thành phẩm.
Chi phí sản phẩm

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp

Chi phí ban đầu

Chi phí sản xuất chung

Chi phí biến đổi

Chi phí ngoài sản xuất

Chi phí bán hàng



Chi phí quản lý

SƠ ĐỒ 2.2 TỔNG QUAN PHÂN LOẠI CHI PHÍ TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT
BẢNG BÁO CÁO CHI PHÍ SẢN XUẤT
Các hợp tác xã sản xuất phân loại chi phí trong quá trình sản xuất, làm cơ sở để thiết

lập báo cáo chi phí. Báo cáo chi phí sản xuất là một báo cáo nội bộ trình bày chi tiết các loại
13


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
chi phí tạo nên giá giá vốn hàng bán trong một kỳ nhất định. Mặc dù đây là bảng báo cáo
nằm ngoài các báo cáo tài chính bắt buộc, nhưng tất cả các hợp tác xã sản xuất đều định kỳ
thiết lập báo cáo này, liên kết giữa thông tin chi phí và các báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu
được tính toán theo công thức sau:
Giá thành sản phẩm

Giá vốn hàng bán

=

=

Sản phẩm dở dang đầuTổng
kỳ chi phí sảnSản
xuấtphẩm dở dang cuối kỳ
+
-

Thành phẩm đầu kỳ Giá thành sản phẩm
Thành phẩm cuối kỳ
+
BẢNG 2.2 BÁO CÁO CHI PHÍ SẢN XUẤT

A. Chi phí nguyên liệu trực tiếp
1. Nguyên liệu tồn kho đầu kỳ

2. Nguyên liệu mua vào trong kỳ
3. Nguyên liệu tồn kho cuối kỳ
4. Nguyên liệu sử dụng trong kỳ (1+2-3)
B. Chi phí tiền lương trực tiếp
C. Chi phí sản xuất chung
D. Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ

-

-

(A4 + B + C)
a. Sản phẩm dở dang đầu kỳ
b. Sản phẩm dở dang cuối kỳ
E. Chi phí sản xuất trong kỳ
(D + a – b)
c. Thành phẩm tồn kho đầu kỳ
d. Thành phẩm tồn kho cuối kỳ
F. Chi phí hàng bán (E + c – d)
BẢNG 2.3 BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
G. Doanh thu
H. Lãi gộp (G – F)
I. Chi phí ngoài sản xuất
J. Lãi thuần trước thuế (H – I)
Hầu hết các hợp tác xã sản xuất đều quản lý chi phí từ lúc bắt đầu sản xuất đến thành
phẩm được tiêu thụ. Quá trình này chia làm bốn khâu:
Khi nguyên liệu được mua, chi phí mua nguyên liệu sẽ làm cho giá trị hàng tồn kho tăng
lên, tiền biến thành hàng.
Nguyên vật liệu trong kho được chuyển sang bộ phận sản xuất sử dụng, giá trị hàng xuất
kho trở thành chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ, cuối cùng nó chuyển thành sản

phẩm dở dang đến khi quá trình sản xuất được hoàn thành. Chi phí nhân công và sản xuất
chung cũng phát sinh trong giai đoạn này và là một phần trong giá trị sản phẩm dở dang.
Khi sản xuất hoàn thành, phần sản phẩm này chuyển thành giá trị thành phẩm, được nhập
trở lại kho với một hình thái mới, loại hàng tồn kho này đã sẳn sàng tiêu thụ.
14


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
-

Khi tiêu thụ được phần thành phẩm nào, giá trị hàng tồn trở thành giá vốn, chi phí này sẽ
được bù trừ bởi doanh thu thu được, hay nói cách khác hàng biến thành tiền.
Chúng ta xem xét báo cáo chi tiết sản xuất của hợp tác xã A vào ngày 31 tháng 12 năm
20xx như sau:

BẢNG 2.4 BÁO CÁO CHI PHÍ SẢN XUẤT
Hợp tác xã A – Ngày 31 tháng 12 năm 20xx
Số lượng thành phẩm 1000 triệu đồng
Đơn vị tính: triệu đồng
A. Chi phí nguyên liệu trực tiếp
1. Giá trị nguyên liệu ngày 1 tháng 1
10000
2. Nguyên liệu mua vào trong kỳ
100000
3. Giá trị nguyên liệu có thể sử dụng
110000
4. Nguyên liệu tồn kho cuối kỳ
5000
5. Nguyên liệu sử dụng trong kỳ
105000

B. Chi phí tiền lương trực tiếp
200000
C. Chi phí sản xuất chung
115000
1. Nguyên liệu gián tiếp
8000
2. Nhân công gián tiếp
17000
3. Khấu hao tài sản tại phân xưởng
50000
4. Khấu hao thiết bị
20000
5. Tiền điện
15000
6. Bảo hiểm
5000
D. Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
420000
a. Sản phẩm dở dang đầu kỳ
25000
b. Sản phẩm dở dang đầu kỳ
30000
E. Chi phí sản xuất sử dụng trong kỳ
415000
e. Thành phẩm tồn kho đầu kỳ
80000
f. Thành phẩm tồn kho cuối kỳ
70000
F. Chi phí bán hàng
425000

BẢNG 2.5 BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
6. Doanh thu
700000
7. Trừ chi phí bán hàng
425000
8. Lãi gộp
275000
9. Chi phí ngoài sản xuất
175000
10. Lãi thuần trước thuế
100000
2. Phân loại chi phí theo mục tiêu quản trị
Phân loại chi phí theo mục tiêu quản trị, phục vụ cho các báo cáo nội bộ của kế toán
quản trị. Đây cũng là cách phân loại đặc thù, chỉ dùng cung cấp thông tin cho đối tượng bên
trong. Cách phân loại này rất linh hoạt, không theo khuôn mẫu quy định. Cùng là chi phí
thuê tài sản cố định nhưng là chi phí khả biến đối với hợp tác xã này và có thể là chi phí bất
biến đối với hợp tác xã khác.
2.1 Chi phí khả biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp
Một khoản mục chi phí là chi phí khả biến khi tổng chi phí sẽ thay đổi khi thay đổi
mức độ hoạt động. Ví dụ như lượng sản phẩm sản xuất tăng thêm 20% thì chi phí nguyên
vật liệu cũng tăng xấp xỉ 20%. Tuy nhiên tính đến một đơn vị sản phẩm thì mức độ tiêu thụ
15


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
nguyên vật liệu không thay đổi. Số lượng sản phẩm được gọi là căn cứ ứng xử. Căn cứ ứng
xử là một khái niệm chỉ mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa một hoạt động mà dựa
trên sự ứng xử tăng hay giảm của hoạt động này thì theo đó một khoản mục chi phí sẽ tăng
giảm (chi phí khả biến), không đổi (chi phí bất biến), hay tăng giảm không theo một tỷ lệ
nhất định nào đó (chi phí hỗn hợp).

Ví dụ: Chi phí thuê điện thoại:
- Chi phí thuê bao (68.000đồng/tháng): Là chi phí bất biến (định phí) với số lần gọi
không quá 150 lần/tháng.
- Chi phí điện thoại của cuộc gọi thứ 151 trở đi (nội hạt) là biến phí.
Nếu ngoài tiền thuê bao, hợp tác xã phải trả thêm 1000 đồng/cuộc cho các cuộc gọi
phụ trội và nếu trong tháng hợp tác xã gọi 250 cuộc, thì tổng chi phí điện thoại phải trả là:
68.000 đ + (100 x 1000đ) = 168.000 đồng/tháng.
Ví dụ: Cũng ví dụ trên nhưng nếu các cuộc gọi điện thoại đường dài hợp tác xã đều
phải trả thêm tiền ngoài tiền thuê bao và số tiền gọi đường dài phải trả là 250.000 đồng
trong tháng thì tổng chi phí điện thoại công ty phải trả trong tháng là : 68.000 đ + (100 x
1000đ) + 250.000 đ = 418.000 đồng.
Như vậy, biến phí trong trường hợp này xảy ra khi:
- Khối lượng hoạt động vượt quá mức cơ bản.
- Biến phí phát sinh ngay khi có hoạt động khác với loại hoạt động cơ bản.
Ví dụ: Một hợp tác xã thuê một xe du lịch để hoạt động với giá thuê cố định là
12.000.000 đồng/năm. Ngoài ra hợp đồng còn quy định mỗi km hoạt động phải trả
thêm 1000 đ/km. Nếu trong năm công ty sử dụng 10.000km thì tổng chi phí thuê xe sẽ là:
12.000.000 đ + (10.000km x 1000 đ) =22.000.000 đ
2.2 Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp

Để đưa ra quyết định kinh doanh, người quản lý phải nắm được chi phí của một vật,
một quá trình hay một công việc nào đó gọi chung là đối tượng tạo phí, chẳng hạn như các
bộ phận phòng ban, các sản phẩm, đất đai, quãng đường, hay thậm chí số giờ giảng
dạy,...cũng như phải nắm được chi phí có mối quan hệ trực tiếp với đối tượng tạo phí hay
không.
Chi phí trực tiếp là chi phí tự bản thân nó được chuyển vào một bộ phận do có mối
quan hệ thật sự chặt chẽ giữa chi phí đó và bộ phận làm phát sinh ra nó, khi bộ phận bị mất
đi thì chi phí trực tiếp không tồn tại và ngược lại. Hay nói cách khác chi phí trực tiếp là chi
phí cấu thành sản phẩm, gắn liền với một sản phẩm hay dịch vụ nhất định đã hoàn thành. Ví
dụ như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, lương của nhân viên

quản lý là chi phí trực tiếp nếu bộ phận của nhân viên này được coi là đối tượng tạo phí, và
là chi phí gián tiếp nếu sản phẩm hay dịch vụ của sản phẩm đó được coi là đối tượng tạo
phí...Tuy nhiên không phải lúc nào chi phí nguyên vật liệu cũng là chi phí trực tiếp, nó sẽ là
chi phí gián tiếp khi tính chung cho nhiều đối tượng chịu chi phí.
Chi phí gián tiếp là chi phí phải qua quá trình phân bổ mới trở thành chi phí của một
bộ phận. Mối quan hệ giữa một yếu tố chi phí gián tiếp và bộ phận sử dụng nó được hình
thành thông qua một mối quan hệ trung gian khác. Hay nói cách khác, chi phí gián tiếp liên
16


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
quan đến nhiều sản phẩm, không làm tăng giá trị sản phẩm: chi phí quản lý, lương nhân
viên hành chính, chi phí bảo hiểm,...Cụ thể hơn, chi phí trực tiếp là chi phí có thể dễ dàng
nhận dạng với một đối tượng tạo phí cho trước và ngược lại, chi phí gián tiếp là chi phí
không thể dễ dàng nhận dạng với một đối tượng tạo phí cho trước.
Cần phải nhắc đến một khái niệm quan trọng khác là khái niệm tổng chi phí gián tiếp,
chỉ những chi phí không thể dễ dàng nhận dạng với đối tượng tạo phí là sản phẩm hay dịch
vụ đầu ra. Các chi phí này có thể là năng lượng, lao động gián tiếp, lương quản lý, chi phí
thuê, bảo hiểm và khấu hao...Có một cách tương đối để phân biệt là các chi phí này bao
gồm chi phí ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp.
2.3 Chi phí có thể kiểm soát và chi phí không thể kiểm soát
Tùy theo các trung tâm trách nhiệm hay các cấp quản lý, một chi phí nào đó có thể
được kiểm soát bởi một trung tâm này nhưng lại nằm ngoài tầm kiểm soát đối với một trung
tâm khác. Các trung tâm trách nhiệm thường là: trung tâm chi phí, trung tâm tiêu thụ (bán
hàng), trung tâm lợi nhuận, và cao nhất là trung tâm đầu tư. Chi phí có thể kiểm soát được ở
một cấp quản lý hay một trung tâm trách nhiệm nào đó nếu cấp quản lý hay một trung tâm
trách nhiệm đó có quyền ra quyết định về chi phí đó. Những chi phí nằm ngoài khả năng
định ra được của một cấp gọi là chi phí không thể kiểm soát được.
Ví dụ: Tại cửa hàng, người quản lý có thể định ra được chi phí tiếp khách của của
hàng, nhưng chi phí khấu hao những máy móc sản xuất ra hàng hóa mà cửa hàng bán là chi

phí không thể kiểm soát được đối với cấp của anh ta. Cấp quản lý càng cao thì số lượng chi
phí quản lý được càng nhiều. Tuy nhiên khi nền sản xuất hàng hóa càng phát triển sẽ làm
hạn chế tính kiểm soát của người quản lý chi phí.
2.4 Chi phí lặn
Chi phí này còn được gọi là chi phí chìm, là những chi phí không thể thay đổi được
trong tương lai. Hay là những chi phí đã bỏ ra trong quá khứ, nó không có gì thay đổi cho
dù phần tài sản đại diện cho những chi phí này có được sử dụng như thế nào hoặc không
được sử dụng như chi phí đầu tư mua sắm tài sản cố định. Các loại chi phí này thường được
ghi chép bởi kế toán tài chính nhưng lại không hỗ trợ cho người quản lý trong việc ra quyết
định, thậm chí có thể dẫn đến một quyết định sai.
Ví dụ như công ty đã đầu tư 10 tỷ cho dây chuyền sản xuất hiện tại, dây truyền này
được mua cách đây 2 năm và thời gian khấu hao là 10 năm. Tuy nhiên đến đầu năm thứ 3,
sản phẩm sản xuất ra đã không còn được ưa chuộng và lượng nhiên liệu tiêu hao ngày càng
nhiều. Công ty đang cân nhắc có nên thay đổi công nghệ hay không thì số tiền 10 tỷ đã chi
ra được gọi là chi phí chìm.
2.5 Chi phí hợp lệ
Chi phí này còn được gọi là chi phí thích hợp. Về bản chất, loại chi phí này khác hoàn
toàn với chi phí lặn. Chi phí hợp lệ được đánh giá bởi bộ phận kế toán quản trị, nên không
được sử dụng để lập báo cáo tài chính. Đồng thời lượng chi phí này cũng thay đổi tùy vào
thời điểm xem xét. Chi phí hợp lệ của một phương án là những chi phí có thể tránh được
nếu chúng ta loại bỏ phương án này để chọn phương án khác. Ví dụ trên được xem xét tiếp
tục khi công ty đang đứng trước quyết định mua dây chuyền mới hay tiếp tục sử dụng dây
truyền củ, thì giá bán dây truyền của tại thời điểm hiện tại là chi phí hơp lệ.
2.6 Chi phí cơ hội và doanh thu cơ hội
Trong kinh doanh, mỗi một khoản mục chi phí phát sinh đều được phản ánh và theo
dõi trên sổ sách kế toán, tuy nhiên có một loại chi phí không được phản ánh lên sổ kế toán
nhưng lại rất quan trọng, phải được xem xét, cân nhắc mỗi khi hợp tác xã lựa chọn phương
17



Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
án kinh doanh, đó là chi phí cơ hội. Doanh thu bị mất của một phương án kinh doanh nếu
chúng ta từ bỏ phương án đó sẽ trở thành chi phí cơ hội của phương án được chọn.
Doanh thu có thể phát sinh từ ảnh hưởng ngoại vi khi chọn một phương án được gọi là
doanh thu cơ hội của phương án đó. Thông thường khi đứng trước sự lựa chọn của nhiều
hơn hai phương án kinh doanh thì lợi ích cao nhất của một trong các dự án bị bỏ qua trờ
thành chi phí cơ hội của dự án được chọn.
Tóm lại, chi phí cơ hội là những thu nhập tiềm tàng bị mất đi khi chọn hành động này
thay cho hành động khác. Khái niệm chi phí cơ hội là yếu tố quan trọng và chủ yếu khi tính
toán hiệu quả của sự án, nhất là về mặt giá trị kinh tế, mặc dù chúng không được hoặc chưa
từng phản ánh trong sổ sách kế toán.
Ví dụ: Một nhân viên có mức lương 10.000.000 đồng/tháng quyết định nghỉ làm để đi
học thì ngoài tiền học phí anh ta còn phải mất thêm một khoản chi phí cơ hội là 10.000.000
đồng. Hay khi quyết định đầu tư vào kinh doanh 500 triệu (lợi nhuận 25%/năm) thì cần phải
xem xét mức lãi suất ngân hàng hiện hành 1%/tháng.
Tóm lại, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà kế toán sử dụng các hình thức phân loại
một cách linh hoạt, phục vụ cho việc ra quyết định tốt hơn. Hay nói cách khác các chi phí
khác nhau sử dụng cho các mục đích khác nhau. Cụ thể cách phân loại chi phí như sau:
Căn cứ phân loại
Căn cứ ứng xử

Các loại chi phí

Sử dụng để

Khả biến (mức độ sản Lập kế hoạch
phẩm, bộ phận)
Điều chỉnh chi phí
Bất biến (bắt buộc, tùy ý)
Ra quyết định

Trực tiếp
Gián tiếp

Đánh giá giá thành hàng
hóa dịch vụ, chi phí của
từng bộ phận, từng hoạt
động

Điều khiển được
Không điều khiển được

Đo lường sự thực hiện của
từng cấp quản lý
Điều chỉnh chi phí

Phát sinh trước: nghiên cứu
phát triển, thiết kế, cung
ứng
Chế tạo hay sản xuất
Phát sinh sau: tiếp thị, phân
phối, dịch vụ khách hàng

Đánh giá cấu trúc chi phí
và xác định chiến lược
Đo lường sự thực hiện
Điều chỉnh, quản lý chi phí

Quá trình sản xuất

Nguyên vật liệu trực tiếp

Nhân công trực tiếp
Sản xuất chung

Xác định giá thành
Xác định giá vốn dùng
trong báo cáo thu nhập,
đánh giá hàng tồn kho
trong bản cân đối kế toán

Thời gian phát sinh

Sản xuất

Lập báo cáo thu nhập và

Cách phân bổ

Khả năng quyết định

Chuỗi giá trị

18


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Thời kỳ

bảng cân đối kế toán

Ở mức độ cơ bản, chi phí là khoản tiền hi sinh, thường được đo bằng các nguồn lực

bỏ ra để đạt được mục địch cụ thể. Nếu chúng ta xem xét cẩn thận hơn, từ chi phí có nhiều
nghĩa khác nhau dựa vào tình huống sử dụng. Dữ liệu chi phí được phân loại và báo cáo
theo một cách cụ thể cho một mục đích thì có thể không thích hợp cho mục đích khác. Ví
dụ như các chi phí phát sinh để sản xuất dầu lửa năm trước rất quan trọng trong việc lập kế
hoạch của bộ phận lọc dầu ở năm tới nếu giá thành của dầu thay đổi lớn hoặc nếu các
phương pháp sản xuất dầu cải tiến. Điểm quan trọng là cách phân loại và định nghĩa chi phí
khác nhau được sử dụng cho mục đích khác nhau. Hiểu được cách phân loại và định nghĩa
chi phí giúp kế toán viên cung cấp các dữ liệu chi phí thích hợp cho người muốn sử dụng
chúng.
- Theo sự biến đổi của chi phí: khả biến, bất biến và hỗn hợp
- Theo tính chất của chi phí: trực tiếp, gián tiếp, kiểm soát và không kiểm soát
- Trong thẩm định các dự án đầu tư: chi phí thích hợp, chi phí cơ hội, chi phí chìm, chi phí
chênh lệch, chi phí biên, chi phí trung bình,...
III.
Phương pháp phân tích chi phí
Nhằm mục đích lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí hỗ hợp, hợp tác
xã cần phải phân tích nhằm tách riêng các yếu tố khả biến và bất biến. Có 3 phương pháp
để xác định mối quan hệ giữa chi phí và mức hoạt động thường được sử dụng là:
 Phương pháp cực đại cực tiểu
Phương pháp này đòi hỏi phải quan sát các chi phí phát sinh cả ở mức độ cao nhất và
thấp nhất của hoạt động trong phạm vi phù hợp. Dựa trên một dãy quan sát của một khoản
mục chi phí hỗn hợp chúng ta chọn ra 2 quan sát có mức độ hoạt động (X) cao nhất và thấp
nhất. Tỷ số giữa mức chênh lệch của mức độ hoạt động (X) là hệ số b, thay vào công thức Y
= a + bX để tìm ra a. Theo phương pháp này phạm vi phù hợp của công thức chi phí được
giới hạn ở mức cao nhất và thấp nhất của mức độ hoạt động.
Phương pháp này tuy đơn giản, để áp dụng nhưng có nhược điểm lớn là chỉ sử dụng 2
điểm để thành lập phương trình biến thiên của chi phí, do đó chưa đủ để cho kết quả phân
tích chi phí chính xác, trừ khi hai điểm được chọn nhằm đúng vị trí để phản ảnh đúng mức
trung bình của tất cả các giao điểm của chi phí và các mức hoạt động.
Ví dụ: Chi phí điện năng của một một hợp xã quan sát qua các tháng sau đây:

Tháng

Giờ lao động trực tiếp (giờ)

Chi phí điện (đồng)

1

7.200

2.550

2

6.400

2.500

3

7.800

2.600

4

8.200

2.700


5

8.400

2.900

Qua kết quả quan sát, chúng ta thấy số giờ lao động trực tiếp (mức độ hoạt động)
19


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
tăng thì chi phí điện tăng, như vậy có yếu tố của biến phí trong chi phí điện.
Để tách yếu tố chi phí khả biến khỏi chi phí bất biến, áp dụng phương pháp cực đại cực tiểu sẽ có kết quả sau:
Giờ lao động trực tiếp (giờ)

Chi phí điện (đồng)

Mức cực đại

8.400

2.900

Mức cực tiểu

6.400

2.500

Số chênh lệch


2.000

400

Chi phí khả biến cho 1 giờ công lao động thực tế = Chi phí chênh lệch / chênh lệch
mức hoạt động = 400/2.000 = 0,2 đồng/giờ
Xác định định phí hoạt động trong tháng:
Định phí = Tổng chi phí - biến phí.
+ Mức cao nhất: Định phí = 2.900 - (8.400 x 0,2) = 1.220 (tháng 5).
+ Mức thấp nhất: Định phí = 2.500 - (6.400 x 0,2) = 1.220 (tháng 2). Xác định
phương trình biểu diễn của chi phí điện:
Y = 1.220 + 0,2X Trong đó:
Y : Tổng chi phí, biến số phụ thuộc biến số X.
X : Mức hoạt động, là biến số độc lập hay biến số nguyên nhân của Y.
Phương pháp cực đại - cực tiểu đơn giản, rất dễ áp dụng nhưng có nhược điểm
là chỉ sử dụng 2 điểm để xác định công thức xác định chi phí hỗn hợp, do đó kết quả
phương pháp này thường không chính xác trừ khi các điểm xảy ra đúng vị trí để phản
ảnh mức trung bình của tất cả các giao điểm của chi phí và các mức độ hoạt động.
Việc phân biệt định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp có ý nghĩa quan trọng trong
việc thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí, sản lượng và
lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn và các quyết định quan trọng khác trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Ngoài ra, việc phân biệt định phí, biến phí còn giúp nhà quản trị xác định
đúng đắn phương hướng để nâng cao hiệu quả của chi phí:
- Đối với biến phí: Phương hướng chính là tiết kiệm tổng chi phí và chi phí cho một
đơn vị khối lượng hoạt động.
- Đối với định phí: Cần phấn đấu để nâng cao hiệu lực của chi phí trong sản xuất kinh doanh.
2. Phương pháp đồ thị
Phương pháp này đòi hỏi phải có các số liệu về mức hoạt động đã được thống kê qua
các kỳ của hoạt động kinh doanh và cuối cùng đã đi đến phương trình dự đoan về chi phí

hỗn hợp có dang Y = a + bX. Biểu diện các quan sát trên đồ thị, đường trung bình của các
tọa độ này chính là đường biểu diễn các công thức chi phí. Chi phí bất biến a là giao điểm
giữa đường trung bình (đường hồi quy) với trục tung. Thay a vào phương trình Y = a + bX
20


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
để tìm ra b. Để xác định được giá trị Y cho trước, chúng ta cần có ít nhất một điểm quan sát
nằm trên đường hồi quy.
Phương pháp này ứng dụng ngay trên đồ thị, cho thấy nhà quản trị thấy mô hình chi
phí một cách trực quan, do đó ít có khả năng bị ảnh hưởng của sự kiện bất thường. Quan sát
các điểm của chi phí tại các mức độ hoạt động khác nhau ngay trên đồ thị cho thấy rõ mô
hình mối liên hệ chi phí với mức độ hoạt động như thế nào? Điều này phương pháp cực đại
– cực tiểu không có. Một đồ thị phân tán là một dụng cụ cần thiết cho các nhà phân tích có
kinh nghiệm. Đường biểu diễn của chi phí sẽ bị uốn cong do nguyên nhân của: sự đình
cong, thời tiết xấu...Nhiều người cho rằng đồ thị phân tán là điểm đầu tiên của mọi quá
trình phân tích chi phí vì các lợi thu được qua các số liệu ở ngay trên biểu đồ.
Phương trình chi phí: Y = a X+ b
+ Y : Tổng chi phí
+ X : Khối lượng sản phẩm hay qui mô hoạt động
+ b: Tổng chi phí bất biến
+ a : Chi phí khả biến đơn vị sản phẩm
3. Phương pháp hồi quy
Phương pháp này còn được gọi là phương pháp bình phương bé nhất nhằm xác định
phương trình biến thiên của chi phí dựa trên sự tính toán của phương trình tuyến tính trong
phân tích thống kê. Phương pháp này là trình bày lại phương pháp đồ thị bằng các phép tính
toán thống kê sao cho tổng bình phương các độ lệch từ các tọa độ đến đường hồi quy là bé
nhất, kết quả cho ra với độ chính xác cao, thích hợp với dự đoán tương ứng. Ưu điểm của
phương pháp này là có thể sử dụng nhiều căn cứ ứng xử cùng một lúc để phân tích chi phí
chính xác hơn. Ví dụ như hoa hồng bán hàng thay đổi theo số lượng bán ra và số lượng

khách hàng thì có thể dùng hồi quy đa chiều để phân tích. Với việc ứng dụng các phần mềm
máy tính thì công thức chi phí có thể tìm ra dể dàng hơn.
Trong 3 phương pháp trên thì phương pháp số bình phương bé nhất có tính chính xác
cao nhất. Phương pháp cực đại – cực tiểu có tính chính xác thấp nhất. Phương pháp đồ thị
có tính trực quan và do đó có ích cho người quản lý. Việc lựa chọn sử dụng phương pháp
nào là tùy thuộc vào yêu cầu quản trị, khả năng thu thập số liệu, và sự lựa chọn chủ quan
của nhà quản lý.
Câu hỏi ôn tập
1. Tại sao kế toán quản trị lại tập trung nhiều vào các loại chi phí?
2. Giải thích và cho thí dụ cho nhận định sau: “các cách phân loại chi phí khác nhau sử dụng
cho các mục đích khác nhau”.
3. Theo kế toán, khi nào số tiền bỏ ra để sản xuất kinh doanh là tài sản, khi nào là chi phí?
4. Phân loại các khoản mục chi phí sau đây:
- Thép dùng sản xuất máy bay
- Cá da trơn trong hợp tác xã chế biến thủy sản
- Chi phí bảo hiểm tai nạn cho nhân viên văn phòng
- Quảng cáo
- Khấu hao ô tô của giám đốc
- Tiền xăng của đội xe tải
- Tiền lương của giám đốc bán hàng
- Văn phòng phẩm dùng tại phân xưởng
- Chi phí thuê ngoài vận chuyển nguyên vật liệu
21


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
Khoản mục

Chi phí khả
biến


Chi phí bất
biến

Chi phí sản
xuất

Chi phí thời
kỳ

5. Phân loại chi phí phát sinh của một bộ phận bảo trì của hợp tác xã sản xuất sau:
- Chi phí khấu hao tài sản
- Tiền lương làm thêm giờ của nhân viên
- Tiền lượng ban quản lý chung phân bổ cho bộ phận
Các loại phí và lệ phí
- Tiền điện

Xác định chi phí trực tiếp và gián tiếp
Xác định chi phí nào có thể điều khiển được của giám đốc bộ phận?
6. Điền vào các khoản mục còn trống trong bảng báo cáo sau:

Nguyên vật liệu

Quý 1

Quý 2

Quý 3

Quý 4


4500

6000

3000

4000

3000

7000

4000

Tiền lương trực tiếp
Chi phí sản xuất chung

5000

Chi phí sản xuất phát sinh
trong kỳ

18500

20000

SPDD đầu kỳ

2500


3000

SPDD cuối kỳ

4000

1000

Chi phí sản xuất phân bổ
trong kỳ

18000

Thành phẩm tồn kho đầu

3000

9000

4000

3000

2000

2000

14000


22


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
kỳ
Hàng có sẵn chờ bán
Thành phẩm tồn kho cuối
kỳ

18000
4000

2000

Chi phí bán hàng
Doanh thu

19500
4000

19000
25000

28000

30000

31000

Lãi gộp

7. Hợp tác xã sản xuất một sản phẩm có các thông tin cuối kỳ như sau:

Số sản phẩm được sản xuất

29000

Số sản phẩm bán ra

?

Sản phẩm tồn kho cuối kỳ

?

Doanh thu

1300000

Các khoản mục chi phí
- Quảng cáo

150000

- Giải trí và dịch vụ

40000

- Tiền lương trực tiếp

90000


- Tiền lương gián tiếp

85000

- Chi phí mua nguyên liệu

480000

- Công cụ dụng cụ dùng tại phân xưởng

108000

- Bản quyền tác giả: 1500 đồng/sản phẩm

?

- Thuê nhà: phân xưởng chiếm 80%

40000

- Bảo trì máy móc phân xưởng

9000

- Tiền thuê thiết bị chuyên dùng: 7 triệu đồng + 300

?

đồng/sp

- Tiền lương, nhân viên bán hàng và quản lý
23

160000


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
- Chi phí khác phát sinh tại phân xưởng

68000

- Chi phí khác phát sinh ngoài phân xưởng

20000

Tồn kho

1/12/200x

31/12/200x +1

Nguyên liệu

20000

30000

Sản phẩm dở dang

50000


40000

0

?

Thành phẩm

Thành phẩm tồn kho được tính theo chi phí sản xuất trung bình. Giá bán là 50/sản
phẩm.
-

Xác định số lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ và giá trị thành phẩm tồn kho cuối kỳ.

-

Lập báo cáo sản xuất

-

Lập báo cáo thu nhập

24


Kế Toán Quản Trị Hợp Tác Xã
BÀI 3. PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ CHI PHÍ – KHỐI LƯỢNG – LỢI NHUẬN
I.


Các chỉ tiêu dùng trong phân tích CVP
CVP là công cụ quản lý hữu hiệu nhất của quản lý để khai thác nhưng điểm nằm bên
trong hợp tác xã. Đặc biệt làm tăng lợi nhuận trong ngắn hạn. Phân tích mối liên hệ chi phí
– khối lượng – lợi nhuận là sự nghiên cứu các mối quan hệ giữa các yếu tố sau đây ảnh
hưởng đến lợi nhuận của hợp tác xã như: giá bán sản phẩm, khối lượng sản phẩm bán ra,
các yếu tố chi phí khả biến, các yếu tố chi bất biến, kết cấu hàng bán.
Phân tích CVP có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khai thác khả năng tiềm năng
của hợp tác xã, là cơ sở để đưa ra các quyết định như: chọn dây truyền sản xuất, định giá
sản phẩm, chiến lược bán hàng.
Để sử dụng quan hệ CVP, người báo cáo nên trình bày báo cáo thu nhập theo dạng
đảm phí. Mẫu báo cáo thu nhập chia ra chi phí bất biến và khả biến, và giúp người quản lý
nhận biết các nhr hưởng lên lợi nhuận từ các thay đổi sản lượng. Báo cáo thu nhập dạng
đảm phí cũng phơi bày cấu trúc của công ty, nó có sự cân đối giữa chi phí bất biến và chi
phí khả biến của nó. Cấu trúc chi phí của một tổ chức có sự tác động quan trọng lên mối
quan hệ CVP. Cấu trức chi phí của một tổ chức xác định đòn bẩy hoạt động của nó, xác
định sự tác động lên lợi nhuận từ các thay đổi sản lượng.
1. Số dư đảm phí
Tổng số dư đảm phí là chênh lệch giũa doanh thu và tổng chi phí khả biến. Số dư đảm
phí đơn vị là chênh lệch giữa giá bán và chi phí khả biến đơn vị, số dư đảm phí có thể tính
cho tất cả sản phẩm, một loại sản phẩm và một đơn vị sản phẩm. Thông qua số dư đảm phí
ta thấy được mối quan hệ giữa sản lượng và lợi nhuân: nếu sản lượng tăng lên một lượng thì
lợi nhuận tăng lên một lượng bằng sản lượng tăng lên nhân cho số dư đảm phí đơn vị (khi
hợp tác xã đã vượt qua điểm hòa vốn).
Ví dụ:
Tổng số dư đảm phí = 240.000,000 – 84.000.000 = 156.000.000
Số dư đảm phí đơn vị = 20.000 – 7.000 = 13.000
Như vậy, lợi nhuận của hợp tác xã là 156 triệu, trước khi bù đắp chi phí bất biến, hợp
tác xã sẽ có thêm 13.000 đồng lợi nhuận khi tiêu thụ thêm một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên
nó cũng có nhược điểm là chưa cung cấp cho người quản lý có cái nhìn tổng quát toàn bộ tổ
chức khi kinh doanh nhiều loại sản phẩm hay dịch vụ, bởi vì sản lượng của từng sản phẩm

hay dịch vụ không thể tổng hợp ở toàn xí nghiệp. Vì thế đôi khi làm cho người quản lý dể
bị nhầm lẫn trong việc ra quyết định, bởi tưởng rằng tăng doanh thu của những sản phẩm có
số dư đảm phí lớn thì lợi nhuận tăng lên, nhưng đều này có khi hoàn toàn ngược lại. Để
khắc phục nhược điểm của số dư đảm phí, ta kết hợp sử dụng tỷ lệ số dư đảm phí.
Tổng số dư đảm phí = Doanh số bán ra –Tổng chi phí khả biến
Số dư đảm phí đơn vị = Giá bán – Chi phí khả biến đơn vị
Tỷ lệ số dư đảm phí = Tổng số dư đảm phí / Doanh số = Số dư đảm phí đơn vị / Giá
bán
Thông qua khái niệm tỷ lệ số dư đảm phí thì rút ra mối quan hệ giữa doanh thu và lợi
nhuận: nếu doanh thu tăng một lượng thì lợi nhuận tăng một lượng bằng doanh thu tăng lên
nhân với tỷ lệ số dư đảm phí. Trong ngắn hạn, bộ phận nào có tỷ lệ số dư đảm phí cao hơn
sẽ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn.
2. Đòn cân hoạt động
25


×