Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN đề CHUYÊN đề THỜI đại HIỆN NAY và XU THẾ THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.66 KB, 20 trang )

2
Chuyên đề:
THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ NHỮNG XU THẾ THẾ GIỚI

Nghiên cứu về thời đại hiện nay và những xu thế của thế giới đầu thế
kỷ XXI cần thấu triệt những quan điểm cơ bản sau:
Một là, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, dựa chắc
vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để xem xét.
Hai là, xem xét với thái độ hết sức khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể
và phát triển.
Dựa chắc vào các quan điểm trên mới có thể đánh giá đúng thời đại
hiện nay, thế kỷ XX đã qua, thế kỷ XXI đến. Trên cơ sở đó, mới tin tưởng
tuyệt đối với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa
chọn; và mới thấy hết được những thành tựu và yếu kém, cơ hội và thách thức
của cách mạng Việt Nam trong dòng chảy lịch sử đó.
I. VỀ THỜI ĐẠI HIỆN NAY
1. Thời đại là gì? Cơ sở để xác định thời đại và phân chia các thời
đại
Xét dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội: Thời đại là một khái niệm
khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc thang phát triển
của xã hội loài người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã có không ít nhà tư tưởng, nhà khoa
học bàn đến thời đại, nhất là từ thế kỷ XVII đến nay. Chẳng hạn, nhà xã hội
học Vicô ở Italia (1668-1744) đã phân chia các thời đại như phân chia các giai
đoạn của một vòng đời: thơ ấu, thanh niên, thành niên và cuối cùng là tuổi
già. Nhà triết học duy tâm Hêghen (1770-1831) lại phân biệt lịch sử phát triển
của loài người thành ba thời kỳ chủ yếu, là thời kỳ phương Đông, thời kỳ Cổ
đại và thời kỳ Giécmani. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán của
Pháp - Phuriê (1772-1837) đã phân chia tiến trình lịch sử thành bốn giai đoạn



3
phát triển: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai
đoạn văn minh. Còn nhà nhân chủng học Mỹ - Hăngri Moocgăng (18181881) lại phân chia lịch sử xã hội thành ba thời đại chính: thời đại mông
muội, thời đại dã man, thời đại văn minh. Hiện nay, trên thế giới, một số đại
biểu lại đưa ra quan điểm phân chia thời đại theo nền văn minh: văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp. văn minh hậu công nghiệp…
Tất cả các cách phân chia đó tuy có những điểm hợp lý nhất định ở một
mặt, một phía nào đó của thời đại, nhưng nhìn chung mang tính siêu hình,
phiến diện, chưa chỉ ra được tính chất xã hội và động lực phát triển của thời
đại.
Kế thừa giá trị tư tưởng của những người đi trước, các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác - Lênin đã xem xét vấn đề thời đại trên cơ sở khoa học, phù
hợp với sự vận động của chính lịch sử loài người. Dựa vào hai phát kiến vĩ
đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã phát
hiện ra quy luật phát triển của xã hội loài người nói chung và quy luật phát
sinh, hình thành, phát triển và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản nói
riêng. Đồng thời, từ quan điểm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khám phá ra cơ sở khách quan để xem xét thời đại đó là hình thái kinh tế xã
hội. Ph.Ăngghen viết: "…trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của
sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết
định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự
phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt
nghĩa được lịch sử”1.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học để xem xét thời đại,
bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, tức là toàn bộ các yếu tố: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa
học, kỹ thuật… cấu thành bộ mặt của thời đại. Lý luận ấy không những giải
thích đúng đắn thời đại hiện tồn, mà còn làm rõ được thời đại đã qua cũng
như chiều hướng của thời đại sắp đến, theo những quy luật khách quan của sự

phát triển xã hội loài người.
1

C.Mác & Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.1995, tr.523.


4
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội còn chỉ ra động lực chủ yếu chi phối
sự vận động, biến đổi của thời đại là giai cấp đứng ở trung tâm thời đại.
Nghiên cứu quy luật khách quan phát triển của xã hội loài người, chủ
nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra các hình thái kinh tế- xã hội loài người là cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa, đồng thời khẳng định, theo quy luật đó, xã hội cộng sản chủ nghĩa tất
yếu sẽ thay thế hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Và sự phát sinh, phát triển,
tồn tại của một hình thái kinh tế - xã hội là một thời đại lịch sử rất dài. Trong
mỗi một thời đại lịch sử nhất định lại có thể chia ra thành nhiều thời kỳ hay
nhiều giai đoạn khác nhau. Việc phân chia thời đại lịch sử thành nhiều thời kỳ
hay nhiều giai đoạn là việc làm cần thiết để nhận thức càng đúng đắn hơn và
đầy đủ hơn về thời đại. Như vậy, có thể tránh được hai khuynh hướng: một là,
lấy đặc điểm của một thời kỳ, một giai đoạn cụ thể nào đó làm đặc trưng cho
cả một thời đại lịch sử dài; hai là, đưa ra quá sớm những khẳng định, những
kết luận cụ thể đối với tương lai, mà hiện tại mới chỉ là dự đoán.
Như vậy, cơ sở khoa học để xác định thời đại là những điều kiện vật
chất khách quan, tức hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là nội
dung cấu thành thời đại. Còn thời đại là thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển
và ngự trị của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
2. Nội dung cơ bản và các giai đoạn chính của thời đại hiện nay
a. Nội dung cơ bản của thời đại hiện nay
Thời đại hiện nay, hay thời đại chúng ta, thời đại mới, là những khái
niệm đồng nghĩa

Đề cập đến nội dung cơ bản của thời đại hiện nay. Hội nghị đại biểu các
Đảng Cộng sản và công nhân năm 1957 đã xác định: nội dung căn bản của
thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở
đầu bằng Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Hội nghị đại
biểu các Đảng Cộng sản và công nhân năm 1960 tiếp tục khẳng định lại và
phát triển thêm quan điểm của Hội nghị 1957. Trải qua mấy thập kỷ từ đó đến
nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi cả trong lĩnh vực sản xuất vật chất,
phát triển khoa học công nghệ, đời sống chính trị quốc tế… Do đó, cần phải
nhìn nhận một cách toàn diện hơn nội dung cơ bản của thời đại hiện nay.


5
Kế thừa quan điểm tư tưởng về thời đại đã được trình bày trên, dựa vào
phương pháp luận mác xít có thể nhận định về thời đại hiện nay như sau:
Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ
cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Thời đại quá độ đó, tất yếu còn tồn tại đan xen vừa hợp tác, vừa đấu
tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thời đại của những cải biến cách mạng sâu sắc trong mọi lĩnh
vựccủa đời sống xã hội quốc tế. Trong đó, đồng thời diễn ra hai quá trình cách
mạng sâu sắc là cách mạng khoa học- công nghệ và cách mạng xã hội với
những nội dung phong phú, đa dạng, những biến đổi và những sự tìm tòi thể
nghiệm các cách thức khác nhau của tiến bộ xã hội; do đó, khó tránh khỏi
cùng với những thắng lợi có những thất bại ở các mức độ khác nhau, những
bước quanh co phức tạp, những chấn động, đổ vỡ, khủng hoảng… trên con
đường đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và tiến bộ xã hội.

Thời đại lịch sử mới, mà xu thế phát triển khách quan là quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng không phải là sự quá độ "tự nhiên", trơn tru, thẳng tắp mà
là sự quá độ khác nhau, bằng những con đường và phương thức khác nhau,
thông qua sự tác động biện chứng phức tạp của các nhân tố khách quan và
chủ quan, trong giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời đại, là quá trình đấu
tranh giai cấp hết sức gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu dài.
Lực lượng xã hội giữ vai trò trung tâm của thời đại là giai cấp công
nhân với đội tiền phong của mình là các Đảng Cộng sản và công nhân; mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là mâu thuẫn cần tập
trung giải quyết trong thời đại hiện nay; động lực chính của tiến bộ xã hội vẫn
là phong trào xã hội chủ nghĩa.
Thời đại lịch sử mới đã, đang và sẽ trải qua những bước quanh co, phức
tạp, nhưng cuối cùng loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Chủ


6
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nhất định sẽ bị thủ tiêu. Đó là kết quả của sự
vận động tổng hợp của hai quá trình: quá trình đấu tranh cho hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, và quá trình chuẩn bị ngày càng đầy đủ
cơ sở vật chất kỹ thuật được tạo ra từ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.
b. Các giai đoạn chính của thời đại hiện nay
Thời đại hiện nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến nay có thể
chia thành 4 giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1: Từ năm 1917 đến kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ
hai, năm 1945.
Đây là giai đoạn đột phá thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga ở một nước tư bản phát triển trung bình, mở đầu sự ra đời
chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Đó là chế độ xã hội do nhân dân lao

động làm chủ, xóa bỏ được tình trạng người bóc lột người, mở ra triển vọng
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước, đánh bại sự bao vây, can thiệp của chủ
nghĩa đế quốc, mở đường cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào
công nhân phát triển mạnh mẽ đồng thời cứu loài người thoát khỏi thảm họa
của chủ nghĩa phát xít.
Giai đoạn 2: Từ sau năm 1945 đến giữa những năm 1970.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội từ một nước phát triển ra nhiều nước
dẫn tới sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và đạt được
những thành tựu to lớn. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, phong
trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phát triển mạnh mẽ,
phong trào giải phóng dân tộc giành được những thắng lợi to lớn, hàng trăm
nước đã giành được độc lập dân tộc. Hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa
đế quốc sụp đổ. Tuy nhiên ở vào cuối giai đoạn này cũng đã bắt đầu xuất hiện
những bất đồng giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các Đảng Cộng sản và
công nhân trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Giai đoạn 3: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.


7
Đây là giai đoạn nhiều nước xã hội chủ nghĩa rơi vào tình trạng tùi trệ,
khủng hoảng do duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, chậm tiến
hành cải cách, cải tổ, lại không áp dụng có hiệu quả các thành tựu của cách
mạng khoa học - công nghệ. Thêm vào đó là sự sai lầm trong cải tổ và sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Giai đoạn 4: Giai đoạn hiện nay.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào.
Cùng với sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều
Đảng Cộng sản và công nhân bị tan rã, ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội bị
giảm sút nghiêm trọng. Chủ nghĩa xã hội hiện đang đứng trước những thử

thách và khó khăn chưa từng thấy. Lịch sử thế giới đang phải trải qua những
bước quanh co phức tạp.
Tuy nhiên, sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội thế giới chỉ là tạm thời.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa vẫn đứng vững và đang tiến hành cải cách, đổi
mới thành công và có sự phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh vì lý tưởng, mục
tiêu xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục diễn ra trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội
vẫn là sự lựa chọn tích cực nhất phù hợp với quy luật phát triển khách quan
của lịch sử trong thời đại ngày nay.
3. Đặc điểm trong giai đoạn hiện nay của thời đại
a. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ
khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Song chủ nghĩa xã hội đã
và đang có điều kiện, khả năng vượt qua thời kỳ thoái trào, tạo ra bước phát
triển mới. Loài người nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội theo quy luật tiến
hóa của lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời phù hợp với quy luật vận động, phát
triển của xã hội loài người. Trải qua gần một thế kỷ xây dựng, chủ nghĩa xã
hội đã đạt được thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã là chỗ dựa cho phong trào
cách mạng thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, góp phần to lớn vào việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Chính
vì thế, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, đã có nhiều nước,


8
nhiều dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã trở thành xu thế của thời đại.
Tuy nhiên, cũng chính trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, do
nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ chỗ sinh động,
sáng tạo trở lên trì trệ, khủng hoảng và dẫn đến sụp đổ ở một mảng lớn. Đó là
một thực tế chúng ta không phủ nhận, nhưng sự khủng hoảng, sụp đổ đó chỉ
là tạm thời.

Bên cạnh sự khủng hoảng và sụp đổ ấy, nhiều nước xã hội chủ nghĩa
vẫn tồn tại và đang tiến hành cải cách, đổi mới để phát triển, thể hiện trên
thực tế ở sự tăng trưởng kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật được đổi mới và tăng
cường, đời sống vật chất, tinh thần của đại đa số nhân dân được nâng lên đáng
kể, tình hình chính trị ổn định, sự nghiệp quốc phòng - an ninh được củng cố,
uy tín quốc tế ngày càng cao. Các nước xã hội chủ nghĩa còn điều chỉnh chính
sách và đường lối đối ngoại theo hướng mở cửa, đa phương, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, nên đã phá được thế bao vây, cô lập, cấm vận của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch.
Cuộc đấu tranh vì những lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa vẫn đang
tiếp tục diễn ra trên thế giới. Nhiều Đảng Cộng sản đã tự tổ chức lại và phục
hồi những ảnh hưởng tích cực của mình trong xã hội. Cần có thời gian và
những sự đổi mới cần thiết để chủ nghĩa xã hội có thể vượt qua thoái trào và
bước vào giai đoạn phát triển mới. Điều này đòi hỏi các Đảng Cộng sản và
công nhân, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa cần phải tiếp tục nắm vững
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể nước mình, thường xuyên coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận; tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân; đặc biệt coi trọng xây dựng chỉnh đốn Đảng,
củng cố tăng cường Nhà nước và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng
cường đoàn kết, liên kết, hợp tác quốc tế trên tinh thần quốc tế vô sản trong
sáng; nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


9
b. Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn đang nắm giữ ưu thế về vốn, công
nghệ, thị trường và vẫn tiếp tục điều chỉnh để thích nghi. Song chủ nghĩa tư
bản hiện đại không thể khắc phục mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với

quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong những năm gần đây, chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn
đã được tích luỹ trong nhiều thế kỷ, vừa tăng cường đầu tư nghiên cứu, phát
minh sáng chế vừa khai thác, ứng dụng tối đa những thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, điều chỉnh quan hệ sản xuất để
thích nghi kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nhưng mọi nỗ lực cố gắng
điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản cũng không xóa bỏ được mâu
thuẫn vốn có giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất dựa trên chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Cùng với mâu thuẫn này, trong thời đại ngày nay còn có mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, giữa các nước chậm phát triển với những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao, giữa các nước tư bản chủ nghĩa với
nhau, và hàng loạt các hiểm họa mà chủ nghĩa tư bản là thủ phạm chính gây
ra như phân cực giàu nghèo, bệnh tật, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường,
khủng bố, chiến tranh… Tất cả những mâu thuẫn và thách thức đó quyết định
sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
c. Các nước đang phát triển và kém phát triển đang đấu tranh chống
chính sách cưỡng quyền, áp đặt, can thiệp và xâm lược của nước ngoài, bảo
vệ độc lập, chủ quyền, quyền lựa chọn và quyết định con đường phát triển và
nền văn hóa dân tộc. Cuộc đấu tranh này diễn ra hết sức khó khăn và phức tạp
thông qua những hình thức và phương pháp mới.
Các nước đang phát triển và kém phát triển ngày nay hầu hết là các
quốc gia độc lập trẻ tuổi ra đời những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Sau khi
giành độc lập, một số nước đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc con đường phi tư
bản chủ nghĩa, còn lại hầu hết các nước này đi theo chủ nghĩa tư bản (gọi là
chủ nghĩa tư bản hậu phát). Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay
phần lớn các nước này đang gặp phải những khó khăn, thách thức gay gắt


10

như: Lúng túng trong lựa chọn con đường phát triển, chính trị không ổn định;
kinh tế lạc hậu, nghèo đói, nợ nước ngoài chồng chất; văn hóa lạc hậu, lại
phải chịu ách thống trị của chủ nghĩa thực dân văn hóa; tình trạng thất nghiệp
trong xã hội gia tăng, phân hóa xã hội sâu sắc, nạn ma tuý kéo theo đại dịch
HIV đang là một thảm họa đối với nhiều nước.
Từ tình hình đó, vấn đề cấp bách đối với các nước này là: phải giữ
vững ổn định chính trị; giữ vững độc lập, tự chủ, chống sự áp đặt, can thiệp và
xâm lược của nước ngoài; có một cơ chế quản lý thích hợp, năng động; chăm
lo phát triển giáo dục, đào tạo; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng… để
phát triển đất nước, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
d. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng diễn ra
mạnh mẽ; Kinh tế trí thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất.
Khoa học và cộng nghệ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn,
cuốn hút tất cả các nước ở các mức độ khác nhau và tác động sâu sắc đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội ở từng nước cũng như trên phạm vi toàn thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
làm cho toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, toàn cầu hoá kinh tế tạo ra
cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó
khăn thách thức cho các quốc gia lớn và nhỏ, nhất là các nước đang phát triển.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra bước nhảy vọt về
chất trong lĩnh vực sản xuất vật chất; làm biến đổi căn bản lực lượng lao động
cả về trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp, cả về phong cách và tác phong
lao động, cả về cơ cấu và chất lượng tay nghề; làm thay đổi cơ cấu xã hội, và
tác động sâu sắc đến các vấn đề môi trường sinh thái, an ninh - quốc phòng,
giáo dục - đào tạo, văn hóa và lối sống… tạo ra cơ hội và thách thức cho tất
cả các nước, nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển kinh tế trí thức; tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá



11
thành hạ, số lượng nhiều và hướng nền kinh tế đến bảo vệ môi trường sinh
thái và nhân văn.
e. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng
bố, tranh chấp lợi ích tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng
phức tạp.. Chạy đua vũ trang giữa các nước vẫn diễn ra rất mạnh mẽ. Hoạt
động khủng bố vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng lan rộng. Các thế lực
chính trị lợi dụng khủng bố và chống khủng bố để thực hiện ý đồ chính trị của
mình, thể hiện ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Tình hình I Rắc vẫn
diễn biến rất phức tạp. Trung Đông vẫn là khu vực nóng bỏng, chứa đựng
nhiều loại mâu thuẫn khác nhau và rất khó giải quyết. Tranh chấp về biên giới
lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi, liên quan đến những vấn đề lịch sử, tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là dầu khí, nên rất khó giải quyết.
f. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức
quốc tế phối hợp giải quyết.
Khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày
càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư vẫn là thách thức
lớn đối với nhiều nước; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài
nguyên; môi trường tự nhiên bị hủy hoại ở nhiều nơi; khí hậu trái đất diễn
biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn,
các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng gia tăng.
Các thách thức đó là mặt trái của quá trình phát triển sản xuất, phát
triển của khoa học và công nghệ. Mặt khác, do sự hạn chế về tri thức, về trách
nhiệm của con người ở từng quốc gia, trong đó, chủ nghĩa tư bản là thủ phạm
đầu tiên, vì trong tay họ có ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường… nhưng vì
lợi nhuận mà họ đã thiếu trách nhiệm trong giải quyết những vấn đề đó.
4. Về mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Các

mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ
khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn"1. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Các mâu thuẫn lớn
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.13.


12
của thời đại vẫn rất gay gắt" 2. Như vậy, bốn mâu thuẫn cơ bản được xác định
từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đến nay vẫn được khẳng định,
nhưng đã có sự vận động, phát triển về hình thức và tính chất.
a. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Đây là mâu thuẫn giữa hai lực lượng và cũng là hai mặt đối lập cơ bản,
xuyên suốt thời đại quá độ. Đây không chỉ là mâu thuẫn giữa các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa, mà bao gồm cả các lực lượng, phong
trào xã hội chủ nghĩa thế giới với chủ nghĩa tư bản, giữa hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa với hệ tư tưởng tư sản, diễn ra ngay trong lòng các quốc gia trên thế
giới, cả trong các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, hai
lực lượng cơ bản này có những đặc điểm mới: chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm
vào thoái trào, nhưng cũng chính qua đó mà các nước xã hội chủ nghĩa đã kịp
thời rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, tích cực đổi mới, củng
cố, xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện và khả năng vượt
qua thời kỳ thoái trào, tạo ra bước phát triển mới; chủ nghĩa tư bản tiếp tục
điều chỉnh, tận dụng các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại; đồng thời, các thế lực đế quốc cũng lợi dụng sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở một số nước để đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt, nhằm xóa
bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
Ngày nay, giữa một số nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản phát
triển đã thiết lập quan hệ chính thức về mặt nhà nước, có quan hệ vừa hợp tác,

vừa đấu tranh trên nhiều mặt. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản ngày nay biểu hiện chủ yếu bằng diễn biến hòa bình và chống diễn
biến hòa bình. Tuy hình thức biểu hiện có khác trước, nhưng đấu tranh giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt.
b. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động.
Đây cũng là mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay, mâu thuẫn giữa
các tầng lớp nhân dân lao động, trước hết là giai cấp công nhân với giai cấp tư
sản. Mâu thuẫn này phản ánh bản chất bóc lột lao động làm thuê của giai cấp
2

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.74.


13
tư sản. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì mâu thuẫn đó vẫn không
thay đổi.
Trong giai đoạn hiện nay, nhờ tận dụng được những tiến bộ của khoa
học và công nghệ, kết hợp với những áp lực từ cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc và từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong các nước tư bản chủ nghĩa vì dân sinh, dân chủ, buộc chủ nghĩa tư bản
phải có những điều chỉnh để tránh những bùng nổ do xung đột giai cấp, dân
tộc, nhằm kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song sự điều chỉnh đó
không hề làm giảm đi sự phân cực xã hội giữa giai cấp tư sản giàu có và các
tầng lớp lao động nghèo khổ trong xã hội tư bản, dù cho các học giả tư sản hết
11
sức cố gắng biện bạch để che đậy. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác vẫn tiếp tục phát triển, mâu thuẫn giữa tư
bản và lao động vẫn là mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Mâu thuẫn này phản
ánh cuộc đấu tranh diễn ra trong các nước tư bản chủ nghĩa và các nước phụ
thuộc và ngay trong các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, chống chủ

nghĩa tư bản đã trở thành cuộc đấu tranh mang tính toàn cầu.
c. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các nước đang phát triển và
phụ thuộc. Từ khi chủ nghĩa đế quốc tuyên bố trao trả độc lập về chính trị đến
nay, các nước đang phát triển do kinh tế, văn hóa thấp kém và lạc hậu nên vẫn
phải lệ thuộc vào các nước phát triển. Do đó, mâu thuẫn này thể hiện tập
trung khi mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển, kém phát triển với các
nước tư bản phát triển. Mặt khác, chủ nghĩa đế quốc cũng đã nhanh chóng
thay đổi hình thức áp bức bóc lột các nước lạc hậu, kém phát triển. Sự bòn rút
của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã làm tăng gánh nặng nợ nần chồng chất ở các
nước kém phát triển, làm cho khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo
ngày càng tăng lên. Trước sự phát triển của khoa học - công nghệ và xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại một mặt tăng cường bòn rút
chất xám ở các nước đang phát triển; mặt khác, biến các nước này thành bãi
rác thải công nghiệp, công nghệ và cả các loại phế thải tinh thần, văn hóa…
Trước tình hình đó, các nước lạc hậu, kém phát triển đang phải tiến hành một
cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp để chống lại chủ nghĩa thực dân dưới


14
mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm
bảo vệ độc lập, chủ quyền và văn hóa dân tộc.
d. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, các trung tâm kinh tế, chính trị
của chủ nghĩa tư bản. Đây là mâu thuẫn vốn có, xuất phát từ sự tranh giành
về lợi ích, từ bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản. Mâu
thuẫn này diễn ra trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự giữa Mỹ Tây Âu - Nhật Bản, mâu thuẫn trong nội bộ khối NATO… trong đó, Mỹ là
trung tâm phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản hiện đại tìm mọi cách để
khống chế các nước tư bản khác và làm bá chủ thế giới. Các trung tâm khác
như Tâu Âu, Nhật Bản cũng ra sức phấn đấu trở thành siêu cường kinh tế; vừa
là đồng minh vừa là đối thủ của Mỹ. Ngoài ra, giữa các tập đoàn tư bản khác
nhau trong từng nước và hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng có những mâu thuẫn

gay gắt trong việc giành giật ưu thế về quyền lực kinh tế và chính trị.
Ngoài những mâu thuẫn cơ bản nêu trên, thế giới ngày nay còn tồn tại
những vấn đề toàn cầu hay trong từng khu vực, như bùng nổ dân số, môi
trường sinh thái bị hủy hoại, sự lan tràn các căn bệnh thế kỷ, xung đột dân tộc
và tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố, tình trạng mất an ninh, nguy cơ chiến
tranh… Đó là những hiểm họa của cả loài người.
5. Mục tiêu của thời đại
Mục tiêu của thời đại hiện nay là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Để đi tới mục tiêu của thời đại, trong giai đoạn hiện nay, nhân
dân các nước phải cùng nhau đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch với hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Chủ nghĩa tư bản luôn là thủ phạm gây ra các cuộc chiến tranh và hàng
loạt các hiểm họa xã hội khác. Chủ nghĩa tư bản hoàn toàn đi ngược lại mục
tiêu của thời đại hiện nay và tìm mọi cách để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, nhưng
lại ngang ngược nhân danh bảo vệ hòa bình, tự do, dân chủ và nhân quyền để
làm lẫn lộn trắng đen, phải trái, thật giả, gây mơ hồ trong nhân dân các nước
đối với những vấn đề thời đại hiện nay.


15
Tình hình đó đòi hỏi các lực lượng cách mạng, tiến bộ phải luôn luôn
tỉnh táo, nêu cao cảnh giác trước mọi luận điệu xuyên tạc, vu khống, lừa
phỉnh và hành động chống phá của chủ nghĩa đế quốc đối với hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong các lực lượng cách mạng, tiến
bộ, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp đứng ở vị trí trung tâm và là động lực
chủ yếu thực hiện các mục tiêu của thời đại hiện nay.
II. XU THẾ CỦA THẾ GIỚI ĐẦU THẾ KỶ XXI
Dự báo chính xác về xu thế của thế giới đầu thế kỷ XXI, có ý nghĩa vô
cùng quan trọng để đất nước ta tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực,

đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1. Dự báo về xu thế của thế giới đầu thế kỷ XXI
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: "Sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ đất nước tiếp tục phát triển trong tình hình thế giới diễn biến
nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường” 1. Đại hội IX kế
thờa sự đánh giá tình hình thế giới của Đại hội VIII và xuất phát từ thực tế đã
chỉ rõ: "Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi” 2, đồng thời chỉ ra xu thế
phát triển của thế giới hiện đại. Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng
định và làm rõ hơn về xu thế phát triển của thế giới đầu thế kỷ XXI. Đó là:
- Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, mặc dù tình hình thế giới rất phức
tạp, nhất là sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, nhưng thực tiễn những năm qua cho
thấy, không phải các thế lực thù địch muốn làm gì cũng được, vì đang gặp
phải nhiều khó khăn và buộc phải có sự điều chỉnh nhất định trong thực hiện
chiến lược toàn cầu. Các nước lớn đang tranh thủ thời cơ vươn lên mạnh mẽ.
Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa
quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Lợi ích
đan xen của các nước tạo cục diện vừa đấu tranh, vừa hợp tác.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996,
tr.75-76.
2
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001,
tr.13.
1


16
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói
riêng, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm

ẩn những nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền
lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn
về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước thuộc khu vực Đông Bắc Á, Đông
Nam Á…
- Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội và thách thức đan xen cho các quốc
gia, dân tộc. Xu thế này ngày càng trở thành hiện thực. Quá trình toàn cầu hóa
kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh hơn. Đó cũng chính là kết quả của phát
triển lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại. Nhưng quá trình này, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, đan
xen giữa hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có
chế độ chính trị - xã hội khác nhau, đồng thời đặt ra cơ hội không như nhau
cho các nước. Đó cũng chính là quá trình mà một số nước phát triển và các
tập đoàn xuyên quốc gia đang chi phối. Vì vậy, phải thấy được tính khách
quan của toàn cầu hóa, nhưng cũng phải nhận rõ mặt chính trị và lợi ích kinh
tế của nó.
- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác
và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
hoạt động khác dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
và toàn cầu hóa kinh tế. Lợi ích đan xen của các nước và các dân tộc tạo nên
cục diện vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh
tranh cũng rất gay gắt.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đấu
tranh chống lại sự áp bức và can thiệp của nước ngoài đặc biệt là của các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển, bảo vệ độc lập, chủ quyền, quyền lựa chọn
con đường phát triển, lợi ích quốc gia và nền văn hóa dân tộc.
- Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
tiếp tịc phát triển. Xu thế này phản ánh mục tiêu cơ bản của thời đại, đồng
thời là đòi hỏi bức xúc của các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và
công nhân, các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới trong giai đoạn hiện
nay của thời đại.



17
Tóm lại, Những xu thế đó không làm thay đổi tính chất của thời đại.
Loài người nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội theo quy luật tiến hóa của lịch
sử.
2. Triển vọng của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XXI
Phân tích đặc điểm cơ bản của thời đại và xu thế của thế giới đầu thế kỷ
XXI, dự báo chính xác tình hình quốc tế và khu vực đang tác động mạnh mẽ
đến nước ta cho thấy, trước mắt chúng ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn,
những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức tồn tại đan xen và tác động
đồng thời. Đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải chủ động nắm bắt cơ
hội, vượt qua thách thức, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
a. Cơ hội lớn của cách mạng Việt Nam
- Trước hết, thắng lợi trong thế kỷ XX, trực tiếp là những thành tựu 5
năm (2001 - 2005) và hơn 20 năm đổi mới (1986 - 2008) làm cho thế và lực
nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước.
Trải qua những năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, nước ta đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Sau hơn 20 năm đổi mới, đã đạt những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề cần thiết đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt
tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển toàn diện. Tính theo thu nhập bình
quân đầu người, nước ta đã vượt mức của các nước đang phát triển có thu
nhập thấp (trên 10 triệu đồng, tương đương khoảng 640USD/đầu người). Văn
hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng
cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và

tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác
xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.


18
Những thắng lợi trong những năm thực hiện Nghị quyết đại hội X và
hơn 20 năm đổi mới đã làm cho vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên
những nét cơ bản.
- Đất nước ta đã mở rộng được các quan hệ hợp tác quốc tế, đang chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, tạo
thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội với
nhịp độ nhanh hơn.
Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với gần 180 nước trên thế
giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế chính trị lớn trên thế giới, đưa các quan hệ trên vào xu thế ổn định lâu dài,
dựa trên các thỏa thuận đã được ký kết.
Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các
tổ chức quốc tế, khu vực, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, tham
gia các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA); 2007 trở
thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều đó đã tạo thêm
nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn.
- Điều kiện quốc tế thuận lợi như xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển
cũng là một vận hội lớn để chúng ta phát huy nội lực, chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, những thành tựu của
khoa học và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Song, cơ hội lớn này chỉ trở thành hiện thực khi chúng ta nắm bắt đúng
và triển khai các chiến lược hợp lý, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nếu cơ hội
lớn này không được tận dụng thì đất nước ta khó trách khỏi nguy cơ ngày


19
càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới.
b. Về thách thức lớn của cách mạng Việt Nam
Cùng với những cơ hội lớn, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn. Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) trong các văn
kiện của Đảng, Đảng ta chỉ rõ "bốn nguy cơ" của cách mạng Việt Nam. Đến
nay, các nguy cơ đó vẫn tồn tại, thậm chí gay gắt hơn. Văn kiện Đại hội X của
Đảng tuy không sử dụng cụm từ "bốn nguy cơ" nhưng đã diễn đạt trực tiếp
nội hàm các nguy cơ lớn, nhấn mạnh đất nước ta đang đứng trước nhiều thách
thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể
coi thường bất cứ thách thức nào, đó là:
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn tồn tại.
Theo đánh giá của Đại hội X, tuy về thu nhập đầu người chúng ta đã
đạt mức của các nước đang phát triển có thu nhập thấp, nhưng xét về cơ sở hạ
tầng, quản lý, mức độ xuất khẩu theo đầu người, thì nước ta vẫn đang ở tình
trạng kém phát triển.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí là nghiêm trọng. Đáng chú ý là: sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi; bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng; tệ quan liêu, xa dân, thích nghe
thành tích, ngại nghe sự thật còn tồn tại ở các cấp, các ngành; tham nhũng,
nhũng nhiễu nhân dân, gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm thất thoát tài

sản, tiền của của Nhà nước, của nhân dân, cả tiền vay của nước ngoài, gây
nhiều bức xúc trong nhân dân, làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Thách
thức này không chỉ tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá mà
còn tiềm ẩn sự tự diễn biến từ nội bộ nếu không được khắc phục kịp thời.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại. Đó
là: chưa nhận thức rõ được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, nhất
là việc giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế tập thể


20
ngày càng trở thành nên tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; quá nhấn
mạnh các chỉ tiêu lợi nhuận trong hoạt động kinh tế, chưa quán triệt đầy đủ
việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng
chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người;
mất cảnh giác trước âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch;
chưa tích cực, tự giác học tập lý luận chính trị, đường lối, quan điểm của
Đảng…
- Các thế lực thù địch âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật
đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo hòng
gây mất ổn định chính trị, xã hội ở một số nơi trên đất nước ta như chúng đã
làm ở nhiều nước khác trên thế giới, tạo cớ can thiệp, dẫn đến làm thay đổi
chế độ chính trị ở nước ta.
Những thách thức trên kết hợp với sự tác động mặt trái của xu thế toàn
cầu hóa kinh tế có thể gây cản trở việc nắm bắt cơ hội, làm mất thời cơ phát
triển; làm suy yếu đất nước ta về mọi mặt; cô lập đất nước ta; dễ bị kẻ thù
dùng diễn biến hòa bình kết hợp với bạo loạn lật đổ chống phá. Đòi hỏi bức
bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt
qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển
nhanh và bền vững hơn, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, vì

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Lê nin, Toàn tập, Nxb TB M, Tập 6, Tập 33, Tập 35, Tập 36, Tập 39.
- VK ĐH VI của Đảng CSVN, Nxb ST, H. 1987
- Nghị quyết TW 6 (khoá 6)
- Cương lĩnh xây dựng đất nước..., Nxb ST, H. 1991
- VK ĐH VIII, Nxb CTQG, H. 1996
- VK ĐH IX, X Nxb CTQG, H. 2001, 2006
- Những vấn đề cấp bách của thời đại hiện nay, Nxb CTQG, H.1996.


21



×