Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hồ anh thái và haruki murakami

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 171 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUANG HƢNG

SỰ KHÁC BIỆT CỦA YẾU TỐ HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ
HARUKI MURAKAMI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƢƠNG ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình.

Quy Nhơn, tháng 8 năm 2018
Tác giả

Trần Quang Hƣng



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia
đình đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận án.
Đặc biệt, xin cảm ơn PGS. TS. Trương Đăng Dung – người hướng
dẫn khoa học – đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến
quý báu giúp tôi hoàn thành luận án trong điều kiện tốt nhất có thể.
Xin được cảm ơn tất cả quý thầy cô, bạn bè đã luôn khuyến khích và
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Nxb :

Nhà xuất bản:

tr. :

Trang:


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài ............................5
1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài .............................................12
1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ

Anh Thái .............................................................................................................12
1.2.2. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của
Haruki Murakami ...............................................................................................20
Chƣơng 2: HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VÀTIỀN ĐỀ TIẾP NHẬN
Ở HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI .................................................. 27
2.1. Những đặc trưng thi pháp cơ bản của văn học hậu hiện đại ...........................27
2.1.1. Phi trung tâm hóa và tinh thần giễu nhại .................................................29
2.1.2.Tính liên văn bản .......................................................................................31
2.1.3. Bóp méo sự thật và lối trần thuật hỗn độn ...............................................33
2.1.4. Đề cao tiểu tự sự và mở rộng ngoại biên .................................................34
2.2. Những yếu tố tiền đề cho sự tiếp nhận tinh thần hậu hiện đại ở hai tác giả ..........35
2.2.1. Hồ Anh Thái .............................................................................................35
2.2.2. Haruki Murakami .....................................................................................43
2.2.3. Cái nhìn về hiện thực và con người .........................................................48
Chƣơng 3: SỰ KHÁC BIỆT VỀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG
SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI ...................... 55
3.1. Sự khác biệt ở kiểu con người đặc trưng ........................................................55
3.1.1. Con người tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái ................................55
3.1.2. Con người cô đơn trong sáng tác của Haruki Murakami .........................65
3.2. Sự khác biệt ở kiểu con người với bản năng tính dục ....................................78
3.2.1. Con người bản năng tính dục qua cái nhìn của Hồ Anh Thái ..................79
3.2.2. Con người với bản năng tính dục trong sáng tác của Haruki Murakami .84
3.3. Sự khác biệt ở kiểu con người với hành trình kiếm tìm .................................97


3.3.1. Con người với hành trình kiếm tìm giá trị cuộc sống trong sáng tác của
Hồ Anh Thái .......................................................................................................98
3.2.3. Con người với hành trình kiếm tìm bản thể chính mình trong sáng tác của
Haruki Murakami .............................................................................................101
Chƣơng 4 SỰ KHÁC BIỆT VỀ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG SÁNG

TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI ................................. 110
4.1. Sự khác biệt về nghệ thuật xây dựng cốt truyện phân mảnh, lắp ghép ........110
4.1.1. Những nét cơ bản về cốt truyện phân mảnh lắp ghép ............................110
4.1.2. Cốt truyện phân mảnh lắp ghép trong sáng tác của Hồ Anh Thái .........111
4.1.3. Cốt truyện phân mảnh, lắp ghép trong sáng tác của Haruki Murakami 118
4.2. Sự khác biệt về nghệ thuật mờ hóa nhân vật ................................................129
4.2.1. Tẩy trắng ngoại hình, lai lịch, tính cách .................................................129
4.2.2. Sự biến mất của nhân vật .......................................................................133
4.3. Sự khác biệt trong việc thể hiện yếu tố liên văn bản ....................................139
4.3.1. Sắc màu văn hóa đặc trưng ....................................................................139
4.3.2. Sự xâm nhập của các thể loại .................................................................142
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 147


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hậu hiện đại đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh
cãi rất nhiều và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó, có văn học.
Với văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sự sáng tạo,
đem lại những hiệu quả rất to lớn trong việc mang đến cho đông đảo công chúng
độc giả trên toàn thế giới món ăn tinh thần hết sức gần gũi mà không bị nhàm chán.
Hồ Anh Thái là nhà văn giàu yếu tố hậu hiện đại của Việt Nam và Haruki
Murakami là một nhà văn hậu hiện đại của Nhật Bản. Sự xuất hiện của yếu tố hậu hiện
đại trong các sáng tác của hai tác giả văn học đương đại Việt Nam và Nhật Bản có thể
xem là độc lập chứ không nằm trong mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối. Họ cùng thuộc
hai quốc gia ở một châu lục, cùng mang cảm thức Đông Á, cùng tương đồng về thế hệ,
cùng tiếp nhận văn học phương Tây và Mỹ từ đầu nguồn, cùng làm công việc dịch
thuật nhưng lại có những khác biệt thú vị ở yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác. So sánh
sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hai nhà văn với nhau sẽ thấy

được sự khác biệt, chẳng những ở văn chương của họ, mà còn có được một cái nhìn
thực chất về hậu hiện đại ở Việt Nam và Nhật Bản, và xa hơn nữa là hai nền văn hóa,
hai cá tính dân tộc. Trên cơ sở đó khẳng định tài năng và đóng góp đáng kể của hai nhà
văn trên tiến trình hiện đại hóa và hội nhập văn học thế giới.
Trong thời gian qua đã có khá nhiều nghiên cứu giới thiệu về yếu tố hậu hiện
đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami. Tuy nhiên hầu hết các
công trình tập trung nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại ở cấp độ tác phẩm hoặc nhóm
tác phẩm và khảo sát độc lập cho một tác giả. Chưa có công trình nào tiến hành
khảo sát trên quy mô toàn diện và có sự so sánh để chỉ ra được sự khác biệt của yếu
tố hậu hiện đại trong sáng tác của hai nhà văn này. Chính vì vậy đề tài Sự khác biệt
của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami mà
chúng tôi tiến hành là hoàn toàn mới mẻ và có triển vọng để thực hiện tốt.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ được sự khác biệt của yếu tố
hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào các nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu lí thuyết, khái quát các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại
- Nghiên cứu những tiền đề tiếp nhận yếu tố hậu hiện đại ở hai nhà văn.

- Khảo sát, phân tích yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm của mỗi tác giả.
- So sánh, đối chiếu chỉ rõ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại trong
sáng tác của mỗi nhà văn, đưa ra lí giải cho những khác biệt đó. Đồng thời khái quát
những thành công của mỗi tác giả trong việc vận dụng các thủ pháp hậu hiện đại.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái
và Haruki Murakami và chỉ ra sự khác biệt của nó trong sang tác của Hồ Anh Thái
và Murakami.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tác phẩm của hai nhà văn Hồ Anh
Thái và Haruki Murakami: Phía sau vòm trời, Vẫn chưa tới mùa đông, Tiếng thở
dài qua rừng kim tước, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Họ trở
thành nhân vật của tôi, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Văn
mới 5 năm đầu thế kỷ, Người và xe chạy dưới ánh trăng, Tự sự 265 ngày, Sắp đặt và
diễn, Mười lẻ một đêm, Đức Phật, nàng Savitri và tôi, SBC là săn bắt chuột, Những
đứa con rải rác trên đường, Lang thang trong chữ.
Kafka bên bờ biển, Rừng Nauy, Phía nam biên giới, phía Tây mặt trời, Người
tình Sputnik, Biên niên kí chim vặn dây cót, Ngầm, Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn
tận cùng thế giới, Cuộc săn cừu hoang, Tôi nói gì khi nói về chạy bộ, Nhảy Nhảy

2


Nhảy, Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, Những người
đàn ông không có đàn bà.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để triển khai đề tài Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của
Hồ Anh Thái và Haruki Murakami, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết hậu hiện đại, lý
thuyết liên văn bản là chủ đạo.
Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó phương
pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Hệ thống phương pháp nghiên
cứu gồm có:
Phương pháp so sánh (đồng đại, lịch đại): Phương pháp này được sử dụng để
chỉ ra những khác biệt trong yếu tố hậu hiện đại trong các tác phẩm của Hồ Anh

Thái và Haruki Murakami trong dòng chảy của văn học hậu hiện đại.
Phương pháp lịch sử - loại hình: Đây là phương pháp vận dụng những tiểu
thuyết ở các dạng thức biểu hiện cụ thể, xét từ phương diện đặc trưng tư duy tiểu
thuyết, nghệ thuật trần thuật; chỉ ra các kiểu, dạng của người kể, điểm nhìn, kết cấu.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Với việc xem toàn bộ tiểu thuyết của
Murakami như một hệ thống, phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ
để rút ra những kết luận, đánh giá cần thiết.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án chỉ ra và làm sáng tỏ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác
phẩm của hai tác giả chủ yếu qua các phương diện thân phận con người và phương
thức thể hiện tác phẩm. Qua đó, luận án đánh giá những đặc sắc nghệ thuật riêng
trong sáng tác của hai nhà văn tiêu biểu cho hai nền văn học Việt Nam và Nhật Bản
trên tinh thần soi sáng của lí thuyết hậu hiện đại. Đây là cơ sở để khẳng định tài
năng và đóng góp đáng kể của hai và văn trong tiến trình hướng tới ngôi nhà chung
của văn chương thế giới.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Về lí luận: Luận án nỗ lực khái quát những đặc trưng cơ bản của văn học hậu
hiện đại, mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn về sự vận động của tư duy tiểu thuyết
và truyện ngắn theo tinh thần hậu hiện đại.
3


Về thực tiễn: Qua so sánh những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác
phẩm của hai tác giả Hồ Anh Thái và Haruki Murakami chúng tôi mong muốn đem
một hướng nghiên cứu về sự khác biệt ở những tác giả khác nhau, trong những hoàn
cảnh xã hội khác nhau khi họ cùng sử dụng những thủ pháp tương đồng. Qua đó,
luận án cũng gợi mở thêm về những giá trị của văn học hậu hiện đại cũng như thấy
được sức ảnh hưởng của nó trong tiến trình phát triển của văn học nhân loại. Luận
án sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, học tập về
văn học hậu hiện đại.

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội
dung luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Hậu hiện đại trong văn học và tiền đề tiếp nhận ở Hồ Anh Thái và
Haruki Murakami
Chương 3. Sự khác biệt về thân phận con người trong sáng tác của Hồ Anh
Thái và Haruki Murakami
Chương 4. Sự khác biệt về phương thức thể hiện trong sáng tác của Hồ Anh
Thái và Haruki Murakami

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài
Trước hết để tạo được cơ sở lí luận cho việc đi vào nghiên cứu các yếu tố
hậu hiện đại trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam, chúng tôi hướng đến tìm
hiểu những công trình cung cấp cơ sở lí thuyết do các nhà lí luận đã dày công
nghiên cứu và dịch thuật trong thời gian qua. Tính từ bài viết của Antonio Blach:
“Vài suy nghĩ về cái gọi là tiêu thuyết hậu hiện đại” trên Tạp chí văn học (1991),
cho đến nay nhiều công trình lí luận nghiên cứu về văn học hậu hiện đại đã được
xuất bản. Có thể điểm qua tên của các công trình tiêu biểu như: Văn học hiện đại
thế giới – những vấn đề lý thuyết (2003) của nhiều tác giả; Chủ nghĩa hậu hiện đại
(Postmodernism) (2006) của Trần Quang Thái; Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới
(2003); Truyện ngắn, lí luận, tác gia và tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lí
thuyết và tiếp nhận (2012) của Lê Huy Bắc; Hoàn cảnh hậu hiện đại (2006) của J.F.
Lyotard (do Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu); Lí thuyết
hậu hiện đại (2011) của Phương Lựu; Thi pháp của chủ nghĩa hậu hiện đại (2012)

của Liviu Petrescu do Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu…
Hậu hiện đại trong văn học là vấn đề được giới lí luận nghiên cứu mà còn
thu hút được sự quan tâm của các Khoa ngữ văn ở các trường đại học uy tín trên cả
nước. Đã có hai cuộc hội thảo về văn học hậu hiện đại được tổ chức bởi Khoa Ngữ
văn Trường Đại Khoa học Huế năm 2011 và Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư
phạm Hà Nội Năm 2013. Các cuộc hội thảo đã nhận được nhiều bài viết, tham luận
của các nhà nghiên cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau và được tập hợp trong hai tập kỉ
yếu hội thảo Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và tiếp nhận (2011), Văn học hậu
hiện đại - Lí thuyết và thực tiễn (2013). Đây là sự góp thêm những công trình có giá
trị cho nghiên cứu về văn học hậu hiện đại một vấn đề đang ngày càng dành được
sự quan tâm của giới nghiên cứu ở nước ta.
Trong chuyên luận Văn học hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết (2003)
do Nhà xuất bản hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phát hành
đã giới thiệu 19 công trình và bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về chủ

5


nghĩa hậu hiện đại. Những bài viết được tuyển tập của các nhà lí luận phê bình trên
thế giới được dịch và giới thiệu như J. F. Lyotard, Mary Klages, I.P.Ilin, D. Martin
Fields, Hans Bertens, Fredric Jameson…, và một số nhà nghiên cứu Việt Nam như
Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Bắc, Hoàng Ngọc Tuấn… , có sức thuyết
phục cao. Đây là một công trình quy mô và có hệ thống nhất về văn học hậu hiện
đại xét cả ở cấp độ lí thuyết và thực tiễn sáng tạo, đem lại đóng góp rất lớn cho việc
tiếp nhận lí thuyết hậu hiện đại ở nước ta. Các bài viết được giới thiệu trong chuyên
luận này đã lần lượt đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện
đại.I.P.Ilin với bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại – một số khái niệm và thuật ngữ”
(do Đào Tuấn Ảnh dịch) đã cung cấp một cách có hệ thống các thuật ngữ về khái
niệm hậu hiện đại cũng như những đặc điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn
học. Phương Lựu trong bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại” đã trình bày những sự

kiện cơ bản thúc đẩy sự ra đời của thuật ngữ hậu hiện đại bao gồm: đại chiến thế
giới thứ II, bóng ma vũ khí hạt nhân, sự phát triển như vũ bão của văn minh kĩ trị.
Lê Huy Bắc với bài viết “Truyện ngắn hậu hiện đại” đã khẳng định quá trình vận
động tất yếu của lịch sử và trạng thái tinh thần nhân loại đang trải qua giai đoạn hậu
hiện đại. Ông viết: “Bất kì một quốc gia có nền kinh tế, nền khoa học kĩ thuật phát
triển nào đều không xa lạ với chủ nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Quan trọng hơn
ứng dụng khái niệm “toàn cầu hóa”, tác giả khẳng định chủ nghĩa hậu hiện đại có cơ
hội phát triển ngay cả trên những nền kinh tế và cơ sở hạ tầng chưa đạt tầm hậu
công nghiệp. Và ông khẳng định “thế giới hiện nay là thế giới của kỉ nguyên chủ
nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Bài viết Nguyễn Minh Quân: “Chủ nghĩa hậu hiện
đại, những khái niệm căn bản”, đã góp phần xác định lại một cách khá thuyết phục
sự phân kì giữa hiện đại và hậu hiên đại. Nguyễn Ước với bài nghiên cứu “Một hồ
sơ về chủ nghĩa hậu hiện đại” đã thể hiện cái nhìn toàn diện và đa chiều trong việc
xác định trạng thái tinh thần, quy luật phát triển của văn học hậu hiện đại trong tiến
trình chung của thế giới và đi đến khẳng định quan trọng: “Chủ nghĩa hậu hiện đại
là một trào lưu toàn cầu nên Việt Nam không thể không chạm tới” [3, tr 549].
Hoàng Ngọc Tuấn trong bài “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại” đã chỉ rõ quá trình
vận động của văn học từ hiện đại đến hậu hiện đại. Cũng trong cuốn chuyên luận
này lần đầu tiên bảng so sánh “Những dị biệt có tính hệ thống giữa chủ nghĩa hiện

6


đại và chủ nghĩa hậu hiện đại” của Hassan được giới thiệu để người đọc nắm được
những đặc trưng cơ bản của khuynh hướng hậu hiện đại.
Trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2012 đã có nhiều cuốn chuyên luận có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đến quá trình tiếp nhận lí thuyết văn học ở nước ta được
dịch và giới thiệu. Năm 2003, nhóm dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại
Nguyên Ân giới thiệu cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên
cứu văn học phương Tây và Hoa Kì thế kỉ XX của các tác giả I.P.Ilin và

Tzurganova. Đây là cuốn sách cung cấp một cách có hệ thống các thuật ngữ và khái
niệm về hậu hiện đại cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Các nhà
nghiên cứu văn học có thể tiếp cận đầy đủ nội hàm của các khái niệm của Chủ
nghĩa hậu hiện đại như: cảm quan hậu hiện đại, mặt nạ tác giả, siêu truyện, mã kép,
giải nhân cách hóa, phi lựa chọn, pastiche, bất tín nhận thức, liên văn bản, tính nhục
thể, ngoại biên… Tiếp đến, chuyên luận nổi tiếng của Umberto Eco có tên Đi tìm sự
thật biết cười được Vũ Ngọc Thăng dịch và giới thiệu năm 2004. Đây là công trình
hoàn chỉnh đầu tiên với những tiểu luận phê bình nổi tiếng thế giới của một học giả
Phương Tây có đề cập đến văn học hậu hiện đại. Cũng trong năm 2004, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội phát hành cuốn sách Tác phẩm như là quá trình của tác giả
Trương Đăng Dung. Cuốn chuyên luận gồm ba phần đã đem đến cho người đọc một
cái nhìn lí luận khái quát về quá trình từ hiện đại đến hậu hiện đại.
Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản cuốn sách xã
hội học, kinh tế học giá trị với nhan đề Chiếc Lexus và cây Oliu của Thomas
L.Friedman (do Lê Minh dịch). Cuốn sách này đã giúp những người nghiên cứu về
văn học hậu hiện đại trả lời được câu hỏi rất quan trọng: Toàn cầu hóa là gì? Ngoài
ra, trong năm 2005 cuốn chuyên luận Những tiểu thuyết của Robbe – Grillet của
Bruce Morriseette được Từ Huy dịch đã giới thiệu cho người đọc những cách tân
mới mẻ, với nhiều kĩ thuật viết hậu hiện đại trong nghệ thuật tiểu thuyết của Robbe
- Grillet.
Tiếp đến, với cuốn sách Theo vết chân những người khổng lồ - Tân Guylivơ
phiêu lưu kí về các lí thuyết văn hóa (2006), Đỗ Lai Thúy cung cấp cho người đọc
nhiều sự hiểu biết nhiều nét về văn hóa hậu hiện đại. Ở cuối bài nghiên cứu được
dịch có tên “Phân tích văn hóa theo thuyết hậu hiện đại” của Steven Seidman, tác
7


giả đưa phần phụ lục “Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?” đem đến một cái nhìn có tính
lịch đại chi tiết về lí thuyết hậu hiện đại trên thế giới.
Cuốn Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại (2006) của các tác giả Richard

Appignanesi, Chis Gattat, Z. Sardar và P. Curry được Nhà xuất bản Trẻ giới thiệu là
một tác phẩm chuyên biệt về lí thuyết hậu hậu hiện đại được dịch và biên tập rất chu
đáo. Cuốn sách này đã tạo ra ảnh hưởng rất thuận lợi cho tiến trình tiếp nhận lí luận
hậu hiện đại vào Việt Nam. Cũng trong năm 2006 với chuyên luận Chủ nghĩa hậu
hiện đại gồm hai chương với 244 trang, Trần Quang Thái đã phác thảo nên lịch sử
hình thành và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới. Tác giả đã chú ý
đến những thay đổi cơ bản của quan niệm hậu hiện đại về con người với điểm nhấn
quan trọng là sự xuất hiện của chủ thể phi trung tâm.
Với chuyên luận Hoàn cảnh hậu hiện đại (2008) do Ngân Xuyên dịch, tác giả
Jean Francois Lyotard đã tiếp tục cung cấp cho người đọc một cái nhìn bao quát về
tâm thức và hoàn cảnh hậu hiện đại. Đây là một tác phẩm tạo dựng lí thuyết hậu
hiện đại trên thế giới được dịch và xuất bản nên tạo được ảnh hưởng rất quan trọng
đối với quá trình tiếp nhận lí thuyết văn học hậu hiện đại ở nước ta.
Tác giả Phương Lựu với bài nghiên cứu “Chủ nghĩa lịch sử mới, một chuyển
biến trong lòng chủ nghĩa hiện hậu hiện đại”, đăng trên Tạp chí Văn học, số 12,
năm 2007, đã đem đến cho người đọc cái nhìn về thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại
với lịch sử. Tiếp đến, trong năm 2008, với bộ giáo trình Lí luận văn học (3 tập), ông
đã đưa chủ nghĩa hậu hiện đại vào tập ba và xác định đậy là khuynh hướng sáng tác
của văn học thế giới đương đại. Cùng thời điểm này, với bài viết “Những bậc tiên
phong của tư duy hậu hiện đại” in trên Tạp chí Văn học, số 5, đã phân tích những
đóng góp của J. Lacan trên phương diện phân tâm học cấu trúc và M. Foucault trên
phương diện vô thức lịch sử. Từ đó, tác giả đã chỉ ra những tư tưởng của họ chính là
tiền đề quan trọng cho sự hình thành triết học hậu hiện đại.
Năm 2011, Phương Lựu với chuyên luận Lí thuyết hậu hiện đại gồm 10
chương và phần phụ lục. Đây là công trình lí thuyết hoàn chỉnh đầu tiên về văn học
hậu hiện đại của một học giả Việt Nam, đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về lí
luận văn học hiện đại. Đặc biệt ở chương hai: “Tổng quan về chủ nghĩa hậu hiện

8



đại”, tác giả đã lần lượt có những kiến giải về nguồn gốc của khái niệm hậu hiện
đại, các khái niệm cơ bản, những vấn đề về quan niệm con người và hiện thực đời
sống trong cái nhìn hậu hiện đại. Về đặc trưng của thi pháp văn học hậu hiện đại,
Phương Lựu nhấn mạnh đó là “một hệ thống bất định và đột phá” [81, tr.66]. Sự bất
định thể hiện qua những kiến giải về tính vô định của chủ đề, tính mơ hồ của hình
tượng, sự chồng chéo của những tình tiết trong một tác phẩm văn học hậu hiện đại.
Sự bứt phá được thể hiện qua tính bành trướng của ngôn từ và sự bứt phá về thể
loại. Đầu chương ba của chuyên luận, tác giả cũng đã viện dẫn bảng so sánh của
chủ nghĩa hậu hiện đại với của chủ nghĩa hiện đại của I. Hasan.
Năm 2012 cuốn chuyên luận Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu do Lê
Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu đã góp phần cung cấp thêm những góc nhìn về văn
học hậu hiện đại trên thế giới ở các phương diện những tiền đề cơ bản để xuất hiện
và những đặc trưng cơ bản nhất của thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại.
Với ba công trình nghiên cứu Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (2003);
Truyện ngắn, lí luận, tác gia và tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết
và tiếp nhận (2012), tác giả Lê Huy Bắc đã lần lượt giải quyết các vấn đề về hoàn
cảnh ra đời, khái niệm và các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại. Theo ông:
Bắt đầu từ thơ Đa đa (1916), văn xuôi của Franz Kafka (Biến dạng,
1915) và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi Godot, 1952), chủ nghĩa
hậu hiện đại đã tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu
thập niên 1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở đi. Đây là
khuynh hướng đối nghịch với chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ
chấp nhận tính hư vô (nothing), hỗn độn (chaos), trò chơi (game) và
liên văn bản (Intertextuality) của tồn tại, hòng giải quyết những
vướng mắc của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng dùng khoa học để
giải phóng tối đa con người thoát khỏi cuộc sống và những điều tín
tăm tối. Chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với sự bùng nổ của cuộc cách
mạng công nghệ thông tin, của sự phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật
vượt bậc, của thành tựu đô thị hóa, … được thể hiện ở cả ba phương

diện thơ, kịch, văn xuôi với các đặc điểm chính: đa trị, huyền ảo, lắp
ghép, mảnh vỡ, cực hạn, phi trung tâm, phi mạch lạc; hạn chế tối đa
9


vai trò thống trị của người kể chuyện, không quan tâm đến cốt truyện,
kịch và văn xuôi mang nhiều đặc điểm của thơ [14, tr.32].
Dựa vào tiêu chí hình thức thể hiện, ông chia văn học hậu hiện đại thành năm
khuynh hướng tiêu biểu nhất là khuynh hướng huyền ảo, khuynh hướng mảnh vỡ,
khuynh hướng nhại và khuynh hướng cực hạn, khuynh hướng giả trinh thám. Để chỉ
ra đặc trưng của một tác phẩm văn học hậu hiện đại, ông dẫn ý kiến của nhà phê
bình mác xít hậu hiện đại Terry Eagleton trong cuốn Dẫn luận lí luận văn học
(1996) khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại điển hình nhất là tùy tiện, đa
trị, lai ghép, lệch tâm, dễ thay đổi, ngưng đọng hệt như một mô phỏng” [14, tr.31].
Ông cũng tán thành với Barry Lewis đề cập đến các phương diện của văn xuôi hư
cấu hậu hiện đại đó là “sự hỗn độn thế tục (Temporal disorder), cóp nhặt (Pastiche).
Mảnh vỡ (Fragmentation), sự nới lỏng tổ chức (Looseness of association), tính hoài
nghi (Paranoia), vòng tương tác (Vicious circles)” [14, tr.31]. Cũng trong công trình
của mình một lần nữa Lê Huy Bắc dẫn lại bảng so sánh để khu biệt giữa hai khuynh
hướng Chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại của Ihab Hassan đưa ra năm
1885 để những người nghiên cứu có thêm những căn cứ chắc chắn khi tiến hành khảo
sát các tác phẩm văn học hậu hiện đại. Lê Huy Bắc cũng là dịch giả có công giúp
người đọc Việt được tiếp cận những tác phẩm văn học hậu hiện đại ở một số quốc gia
trên thế giới qua tuyển tập 54 truyện ngắn ông đã dịch và giới thiệu. Ông cũng là
người rất tỉ mỉ trong việc hướng dẫn người đọc vận dụng lí thuyết của văn học hậu
hiện đại để tiếp cận các tác phẩm văn học có yếu tố hậu hiện đại trong nhà trường.
Đây là cơ sở quan trọng để tạo nên cái nhìn trong mối tương quan so sánh tìm ra sự
khác biệt trong việc thể hiện yếu tố hậu hiện đại qua các tác phẩm ở nền văn học của
các nước có sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Ngoài công trình nghiên cứu cá nhân của các chuyên gia còn phải kể đến

những công trình tập thể qua các kì hội thảo quốc gia. Cuốn Văn học hậu hiện đại –
Diễn giải và tiếp nhận (Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia do Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Khoa học Huế tổ chức tháng 3 năm 2011) với 37 bài viết của các
chuyên gia nghiên cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau được tuyển tập chia làm ba nhóm:
1) Những bài viết giới thiệu và diễn giải về lý thuyết hậu hiện đại; 2) Những bài viết
phê bình các tác phẩm văn học theo xu hướng hậu hiện đại trên thế giới; 3) Những
10


bài viết phê bình các tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại ở Việt Nam. Ở nhóm bài
giới thiệu và diễn giải về lý thuyết hậu hiện đại đáng lưu ý trong kỉ yếu có dẫn đăng
bài các “Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại” của Lê Huy Bắc, “Phê bình văn học từ
góc nhìn hậu hiện đại” của Đỗ Lai Thúy, “Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu
hiện đại” của Trương Đăng Dung, “Chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiến trình văn học
Việt Nam” của Nguyễn Phú Phong, “Quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam” của hai tác giả Nguyễn Hồng Dũng và Phan Tuấn Anh, “Dấu ấn
hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI” của Thái Phan Vàng Anh.
Ngoài việc cung cấp các khái niệm về văn học hậu hiện đại các bài viết còn có sự
kiến giải thấu đáo về hoàn cảnh xuất hiện và những khả năng thể hiện của văn học
hậu hiện đại đối với nền văn học chưa có được cơ sở từ một nền văn minh hậu công
nghiệp như ở nước ta.
Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia năm 2013 Văn học hậu hiện đại – Lí
thuyết và thực tiễn của Khoa ngữ văn – Bộ môn văn học nước ngoài của trường Đại
học Sư phạm Hà Nội với 29 bài tham luận từ các nhà nghiên cứu ở cả ba miền Bắc,
Trung, Nam. Trong đó có 5 bài tham luận về những vấn đề chung của văn học hậu
hiện đại, 8 tham luận ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu văn học Việt
Nam, và 16 tham luận ứng dụng lí thuyết văn học hậu hiện đại vào nghiên cứu các
tác giả và tác phẩm văn học nước ngoài. Điều được những nhà nghiên cứu quan tâm
và làm sáng tỏ nhiều nhất là về các yêu tố thuộc về kĩ thuật viết đặc trưng của văn
học hậu hiện đại như trò chơi, tính liên văn bản, phi trung tâm, huyền ảo, mảnh

vỡ… Qua các bài viết được tập hợp trong cuốn kỉ yếu lần này đã cho thấy những lí
thuyết soi sáng có tính chất định hướng mở đường của lí luận văn học hậu hiện đại
dần dần được ứng dụng rộng rãi vào nghiên cứu đối với các trường hợp một tác giả,
tác phẩm văn học cụ thể.
Ngoài những công trình trên còn phải kể đến một loạt các bài viết về văn
xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, trong đó, có đề cập đến đặc trưng của văn học hậu
hiện đại. Nguyễn Hưng Quốc với nhiều bài viết khá công phu về chủ nghĩa hậu hiện
đại và văn học hậu hiện đại ở Việt Nam như: “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học
Việt Nam” (2000), “Giễu nhại như một ý niệm” (2005), “Văn bản và liên văn bản”
(2005), “Giải lãnh thổ hóa trong văn học Việt Nam” (2008), “Toàn cầu hóa và văn
11


học Việt Nam” (2008), “Tính lai ghép trong văn học Việt Nam” (2008), “Chủ nghĩa
hậu hiện đại và những cái cần chết trong văn học Việt Nam” (2009), “Chủ nghĩa
hậu hiện đại - Những mảnh nghĩ rời” (2009), v.v… Trong các bài viết của mình,
Nguyễn Hưng Quốc đã lần lượt xem xét vấn đề hậu hiện đại trong văn học Việt
Nam trên rất nhiều phương diện, từ khả năng chịu ảnh hưởng, những tính chất riêng
biệt ở văn học Việt Nam… Ngoài ra còn phải kể đến nhiều bài viết của các nhà
nghiên cứu có uy tín khác như Nguyễn Thị Bình (Một số khuynh hướng tiểu thuyết
ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay), Lê Hương Thủy (Truyện ngắn sau 1975 –
một số đổi mới về thi pháp), Bích Thu (Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới)… Các bài nghiên cứu của Đào Tuấn Ảnh, Phùng Gia Thế, Đông La,
Hoàng Ngọc Tuấn, Inrasara, Phan Nhiên Hạo, Như Huy, Trịnh Thanh Thủy, Văn
Giá, Nguyễn Chí Hoan, Đoàn Cầm Thi… đã chỉ ra được những dấu hiệu hiện đại
trong văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi Việt Nam nói riêng.
Văn học hậu hiện đại trong những năm gần đây đã được đưa vào chương trình
đào tạo ở hệ đại học và sau đại học. Trong đó có những luận án trực tiếp nghiên cứu
về văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam như: Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện
đại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Phùng Gia Thế, Yếu tố hậu hiện đại

trong truyện ngắn Việt Nam của Lê Văn Trung, Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện
đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Nguyễn Hồng Dũng... Những
nghiên cứu nói trên là kết quả của quá trình tìm tòi, học tập và cả sự nỗ lực không
mệt mỏi của các nhà Lý luận và Phê bình – Nghiên cứu văn học trên con đường đưa
nền văn học Việt Nam hội nhập với văn học thế giới. Đó cũng là những gợi mở hết
sức thú vị cho công việc nghiên cứu về yếu tố hậu hiện đại trong văn học qua thực
tiễn sáng tác ở hai tác giả Hồ Anh Thái và Murakami.
1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của
Hồ Anh Thái
Trong văn học Việt Nam đương đại, Hồ Anh Thái là nhà văn có chỗ đứng khá
vững chắc. Bước vào làng văn khá sớm (17 tuổi), Hồ Anh Thái đã để lại ấn tượng
và gặt hái được những thành công nhất định. Cho đến nay, ông được xem là một

12


nhà văn chuyên nghiệp có sức viết mạnh mẽ với thái độ lao động nghệ thuật nghiêm
túc. Rất nhiều bài viết đánh giá cao bút lực, tài năng cũng như thái độ lao động nghệ
thuật của ông. Sự đổi mới ở ngòi bút của Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều sự chú ý
của các nhà phê bình trong nước và quốc tế.
Sau khi hợp tuyển gồm hai tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, Trong sương
hồng hiện ra và tám truyện ngắn được dịch sang tiếng Anh và xuất bản ở nhiều nước
trên thế giới, Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực của các nhà
phê bình nghiên cứu nước ngoài về sự đổi mới về tư duy nghệ thuật mang đậm cá
tính sáng tạo. Wayne Karlin trong lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết Người đàn bà
trên đảo cho rằng, Hồ Anh Thái đã biết vượt lên khỏi xuất phát điểm của bản thân và
nền văn học Việt Nam đương thời khi tiếp cận với những ảnh hưởng của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo Mĩ La tinh và tác phẩm của nhà văn Pháp gốc Czech Milan
Kundera. Những đổi mới dũng cảm trong cách nhìn về các vấn đề như số phận con

người thời hậu chiến, những di chứng của chiến tranh, tình dục và cách ứng xử của
con người trước nó. Tác giả này cũng nhận thấy trong tác phẩm Hồ Anh Thái, chất
hài hước, chất lạ quyện với chất Kafka dường như gây bất ngờ cho người phương
Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam. Từ đó Wayne Karlin đã khẳng định Hồ Anh
Thái và những người đương thời Việt Nam đang tiên phong cho nền văn học của các
nước đang phát triển, nền văn học không còn bị định nghĩa bằng những thông số của
cuộc đấu tranh giữa hai bên tư sản và cộng sản. Riêng với cuốn tiểu thuyết Trong
sương hồng hiện ra là tác phẩm lạ trên mặt bằng văn học đương thời đã “mở ra một
cách cửa vào một nền văn hóa đang phải đấu tranh để định nghĩa mối quan hệ của
mình với quá khứ và tương lai của chính mình” [139, tr. 393]. Jennifer Eagleton đưa
ra những nhận xét khái quát cho giá trị nội dung và nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết
này: “Dường như cuốn tiểu thuyết bày tỏ niềm khao khát được quay nhìn lại quá khứ,
cái quá khứ đã được ký ức đóng khung và tôn kính... Sự tái tạo huyền thoại này đã
thành công với sự giản dị, trong sáng của ngôn ngữ và cả yếu tố kỳ lạ” [139, tr.440].
Trong bài viết ngắn “Đặt ra vấn đề cá nhân ở nước Việt Nam” (Thời báo Los
Angeles, 18.9.2001), Michael Harris cũng nhận thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo Mĩ La tinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái như một dấu hiệu cho thấy
nỗ lực rất đáng kể của nhà văn Việt Nam trong việc tiếp cận với văn học thế giới.
13


Chris King (Thời báo ST. Louis Missuri River Front Times) nhận thấy sáng tác của
Hồ Anh Thái là hành trình đi từ những vẻ đẹp nhân bản giản dị dẫn tới nỗi đau
khủng khiếp nhất, rồi nỗi đau ấy lại được cứu rỗi bằng chính sự thông hiểu nhân
bản. Philip Gambone nhận ra chất châm biếm, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn đầy
trong nhiều truyện của cuốn sách được cấu trúc một cách tao nhã của một trong
những nhà văn Viêt Nam đương đại xuất sắc nhất. Tiến sĩ văn học Ấn Độ K.
Pandey có nhận xét đánh giá rất cao về những truyện ngắn của Hồ Anh Thái viết về
đất nước và con người Ấn Độ: “Những dòng chữ Hồ Anh Thái là những mũi kim
châm cứu Á Đông đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ” [138, tr.322].

Ở trong nước tiểu thuyết Hồ Anh Thái được đông đảo bạn đọc và giới nghiên
cứu phê bình văn học quan tâm bởi tác giả luôn biết cách tạo ra những điều mới mẻ
bất ngờ trong tác phẩm của mình. Diệu Hường trong bài “Một góc nhỏ văn chương
Hồ Anh Thái” khẳng định: “Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn sung sức nhất
và được đón đọc nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. Ông viết văn như một thứ lao
động nghiêm ngặt, ông chăm chút cho từng câu chữ với tinh thần không chấp nhận,
cái gì sẵn có, không thụ động chờ đợi, cái mà rất nhiều nhà văn khác vẫn quen gọi
là cảm hứng” [93]. Nguyễn Thị Minh Thái cũng cho rằng: “Với Hồ Anh Thái, viết
văn là một nghề hẳn hoi, chứ không phải là thứ lao động tài tử, nghiệp dư, một cuộc
ghé chơi tình cờ như nhiều người lầm tưởng” [147, tr 351]. Cùng quan điểm đó,
Ngọc Ánh trong bài viết “Hồ Anh Thái – Sáng tạo, bứt phá trên từng con chữ” cũng
cho rằng: “Văn chương với Hồ Anh Thái là một nghiệp với đa tầng phong cách biểu
hiện, với một tiềm năng đọc mới và thấu suốt cuộc sống, con người, những gì mà
với nhiều người khác đã trở nên cũ kỹ. Anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi
văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản để nhìn cuộc đời”
[2]. Tác giả bài viết còn phát hiện: “Chân dung của hiện thực trong văn bản của Hồ
Anh Thái có nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị xấu tốt đan cài chứ
không đơn điệu. Đó không phải là thứ hiện thực “dẹt”, “phẳng” mà góc cạnh, nhiều
chiều, là hiện thực “phân mảnh” [2].
Nghiên cứu về nghệ thuật thể hiện trong những tác phẩm Hồ Anh Thái,
Nguyễn Đăng Điệp trong bài “Hồ Anh Thái – Người mê chơi cấu trúc” có nhiều
khám phá mới mẻ và đưa ra những nhận định sắc sảo. Theo ông: “Hồ Anh Thái có ý
14


thức tạo dựng một thế giới vừa giống thực bằng nhiều chi tiết ngỡ nhặt được từ đời
sống ồn tạp vừa tạo nên một thế giới ngập đầy biểu tượng. Thông điệp của nhà văn
không hiện ra lộ liễu mà toát lên từ tình huống, qua các biểu tượng thấm đầy chất
ảo” [43]. Nguyễn Đăng Điệp còn phát hiện ra “cách chơi cấu trúc” đầy biến hóa của
Hồ Anh Thái trong sự bện kết, hài hòa giữa hai yếu tố tính luận đề và màu sắc

tượng trưng, siêu thực – những phương diện đòi hỏi sự cao tay của người viết. Ông
còn chỉ ra dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái qua bức tranh về hiện
thực: “Đó là hiện thực “phân mảnh” như các nhà hậu hiện đại vẫn thường nói đến”
[43]. Tác giả cũng đã nhận thấy một trong những điểm mới của tiểu thuyết Hồ Anh
Thái là tính liên văn bản và khả năng dung hợp văn hóa hết sức năng động: “Khảo
sát hành trình văn chương Hồ Anh Thái có thể nhận ra một kiểu đối thoại mang tính
văn hóa thấm trong từng văn bản” [43].
Viết về cuốn tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng đã đoạt được giải
thưởng văn xuôi 1986 – 1990 của Hội Nhà văn, Xuân Cang trong bài “Một hương
vị riêng”, nhận định khái quát: “Cuốn tiểu thuyết hầu như không có cốt truyện để kể
lại được, nó thu hút người đọc bằng một hương vị riêng kín đáo của những chi tiết,
những mảnh đời, quá khứ và hiện tại đan xen” [144, tr.391]. Trần Thanh Giao,
trong bài viết “Không theo kiểu cũ”, nhấn mạnh đến sự khó đọc của Người và xe
chạy dưới ánh trăng, “vì tác giả sử dụng thủ pháp “dòng suy tưởng, cảm xúc” để
nội tâm các nhân vật được bộc lộ rõ ràng, qua đó mà cái thiện, cái ác, lẽ phải và bất
công, lòng cao thượng và giả dối, … đấu nhau rất quyết liệt” [144, tr. 410]. Lê Minh
Khuê thì nhận xét: “Có lẽ ngay từ ngày ấy, tác giả đã ý thức rằng tác phẩm văn học
muốn hòa nhập được với dòng văn học chảy ào ạt ngoài kia của thế giới và muốn
tiếp cận được với người đọc hôm nay thì đừng có quá lệ thuộc vào hiện thực giản
đơn” [144, tr.416]. Gần với ý kiến trên của Lê Minh Khuê, trong bài viết “Một cá
tính sáng tạo độc đáo” (Đài tiếng nói Việt Nam, 2001), Trần Bảo Hưng cũng cho
rằng: “Có thể nói hiện thực trong Người và xe chạy dưới ánh trăng là một hiện thực
đa chiều, và để phản ánh được cái thực tại phức tạp ấy, Hồ Anh Thái sử dụng nhiều
thủ pháp linh hoạt, cả phục hiện và đồng hiện; rồi một cốt truyện đầy co giãn với
những mạch ngang, lối rẽ…” [144, tr.420].

15


Nghiên cứu giọng điệu tác phẩm Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Minh Thái trong

bài “Giọng tiểu thuyết đa thanh” cho rằng: Cõi người rung chuông tận thế là tiểu
thuyết ngắn, cốt truyện khá giản dị, với điểm nhìn tiểu thuyết độc đáo, giọng kể đa
thanh trên nền suy tưởng trữ tình. Đây là tác phẩm đánh dấu mốc bước tiến quan
trọng trong sự đổi mới nghệ thuật, đặc biệt là giọng điệu.Trong tác phẩm hiện diện
cả giọng mỉa mai châm biếm lẫn chất trữ tình suy tưởng. Sự đan xen giọng điệu này
làm nên tính đa thanh cho tác phẩm: “Nhiều thanh điệu của một giọng kể đa thanh,
đích thực là giọng riêng của nhà văn Hồ Anh Thái trong cuốn tiểu thuyết mới tinh
này” [142, tr.276]. Tác giả bài viết còn phát hiện ra “giọng kể mang tính thông tấn”
trong tác phẩm và đó là cơ sở tạo nên thi pháp mới cho cuốn tiểu thuyết, “thi pháp
giễu nhại – thông tấn”.
Phùng Gia Thế trong bài “Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau
1986” lại cho rằng “nhìn đời sống như những mảnh vỡ, tiểu thuyết Hồ Anh Thái thể
hiện tinh tế những nỗi hoang mang về con người” và một “cái nhìn hắt sáng từ phía
sau” [124]. Tác giả Trần Thị Hải Vân trong bài báo “Một chiêm nghiệm “cõi
người” của Hồ Anh Thái” (báo Văn nghệ, số 16, 2009) đã đưa ra một sự phân tích
khá hệ thống về quan niệm nghệ thuật, về con người của Hồ Anh Thái trong đó
nhấn mạnh các tính chất hài hước nghịch dị trong cái nhìn đời sống của nhà văn.
Trên hành trình sáng tác từ 1995 đến nay, giọng điệu tiểu thuyết Hồ Anh
Thái có sự chuyển hướng, nghiêng về màu sắc trào lộng, giễu cợt, mỉa mai. Tiểu
thuyết Mười lẻ một đêm là một thử nghiệm mới. Hầu hết các bài viết đều đánh giá
cao tác phẩm ở chất hài hước, nghịch dị, tiêu biểu có bài “Hài hước và trữ tình” (Lê
Hồng Lâm), “Chất hài hước nghịch dị trong Mười lẻ một đêm” (Hoài Nam). Ở bài
“Mười lẻ một đêm - cái nhìn hắt sáng từ phía sau”, Nguyễn Thị Minh Thái đánh giá
cao lối viết mới, giọng kể mang tính thông tấn, “góc nhìn ở vị thế hắt sáng, từ phía
sau, từ bản thể, giọng tiểu thuyết giễu nhại, thâm sâu” [147, tr.353].
Cuốn tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi khi vừa được xuất bản đã lập
tức nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau. Hoài Nam trong bài viết
“Phật sử và hư cấu văn chương” cho rằng cái mới của tác phẩm là “quan điểm cá
nhân của tác giả về Đức Phật và từ đó, là cách tác giả xử lý những tư liệu liên quan
xa gần đến đức Phật” [98] và thành công của tiểu thuyết là ở khả năng tưởng tượng,

16


hư cấu văn chương, chủ yếu ở chương Savitri. Tác giả đánh giá về cách xây dựng
nhân vật đức Phật của Hồ Anh Thái: “Nhân vật này hiện lên với diện mạo của một
hiền giả, một triết gia, một nhà tư tưởng vĩ đại, nhưng vẫn không thôi đậm chất
Người” [98]. Ý kiến đánh giá này thống nhất với những ý kiến của nhiều nhà phê
bình khác cho rằng Hồ Anh Thái thành công vì anh đã “người hóa” đức Phật, khiến
hình ảnh đức Phật hiện lên vừa giản dị vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, lại cũng vô
cùng trần thế. Đây chính là phép giải thiêng, kĩ thuật quan trọng trong lối viết hậu
hiện đại. Ở bài viết “Hồ Anh Thái có sợ “giải thiêng”, Phạm Xuân Thạch chỉ ra mặt
ưu và mặt hạn chế của tiểu thuyết là lối kết cấu bộ ba với khả năng soi chiếu lẫn
nhau của các nhân vật: Đức Phật, nàng Savitri và tôi nhưng Hồ Anh Thái chưa đi
đến tận cùng của ý tưởng khiến cho tác phẩm chỉ mới dừng lại ở mức độ làm mầm
mồng của một ý tưởng lớn. Hoàng Công Danh trong bài “Tái hiện Phật sử, đồng
hiện nghệ thuật” trên website cá nhân đã có những đánh giá rất sắc sảo về nghệ
thuật viết của Hồ Anh Thái. Tác giả cho rằng Hồ Anh Thái vẫn dùng nghệ thuật tiểu
thuyết đặc sắc của mình, đó là kiểu cắt mảng và ghép mảng. Sự đan xen giữa các
chương với các tựa “Đức Phật”, nàng “Savitri” và “Tôi” hệt một cuộc “Sắp đặt và
diễn” trên sân khấu mà độc giả, khán giả sắp được chứng kiến và thưởng thức”.
Riêng về truyện ngắn, Hồ Anh Thái được chú ý trước hết bởi chất giọng giễu
nhại sắc sảo, tinh tế. Lê Vĩnh Nguyên cho rằng, tiếng cười trong truyện ngắn Hồ
Anh Thái có khả năng dồi dào trong việc phóng chiếu, châm biếm và chạm đến
phần nhạy cảm của con người. Tác giả Ngọc Hà trong bài viết “Giễu nhại ngôn ngữ
thị dân” đã bước đầu chỉ ra những độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ
Anh Thái trên ba phương diện: Lối nói liệt kê, bổ sung; lối nói nhấn mạnh và lối nói
thông tục. Đây là một trong những dấu hiệu quen thuộc của kỹ thuật viết hậu hiện
đại. Tôn Phương Lan trong bài viết “Người luôn làm mới mình” cũng nhận thấy
cảm hứng nhân văn trải dài và xuyên suốt trong sáng tác của Hồ Anh Thái, và ở giai
đoạn đầu đó là cảm hứng chủ đạo. Theo tác giả, Hồ Anh Thái luôn làm mới mình

qua từng trang viết, mới trong giọng điệu, mới trong ngôn ngữ, mới trong kết cấu.
Ma Văn Kháng trong bài “Cái mà văn chương ta còn thiếu” cho rằng truyện ngắn,
tiểu thuyết Hồ Anh Thái thú vị trước hết ở chỗ “ từng con chữ có đời sống là lạ; ở
mỗi tình tiết giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng và gần gũi; ở tổng thể

17


câu chuyện, nó mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho thấy tính đa tầng, những thực
tại nhìn thấy và không nhìn thấy…” [141, tr.326]. Nhà văn Ma Văn Kháng đã tỏ ra
rất thích giọng văn của Hồ Anh Thái vì “nó có cái thông minh, hóm hỉnh vừa sâu
sắc vừa có truyền thống. Hơn nữa cái này mới là cái thật thích đây: chất trào phúng,
giễu nhại,cay chua mà tâm thiện, chất này văn chương ta thiếu quá! Không có tài
chịu đấy!” [141, tr 326].
Với hai tác phẩm Dấu về gió xóa, và SCB là săn bắt chuột, Hồ Anh Thái được
bạn đọc nhiệt liệt hoan nghênh và đã nhận được nhiều khen ngợi từ các chuyên gia
nghiên cứu về phương thức thể hiện. Dấu về gió xóa của Hồ Anh Thái được Hoài
Nam so sánh giống như một “nồi lẩu nghệ thuật” với một loạt vấn đề lớn trong đời
sống xã hội và đời sống của mỗi cá nhân người như chính trị, tôn giáo, tình yêu…,
đã được đặt ra và được xử lý một cách đặc biệt. Tính chất “nồi lẩu” của tác phẩm
còn nằm trong cấu trúc và giọng điệu văn bản. Hà Anh khi viết về tiểu thuyết SCB
là săn bắt chuột nhận định rằng, Hồ Anh Thái là một nhà văn đa giọng điệu có khả
năng mang đến sự tươi mới cho văn chương hiện đại.
Những cách tân mang khuynh hướng hậu hiện đại ngày càng rõ nét trong kỹ
thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái ở những sáng tác gần đây của ông. Từ Nữ đã nhìn
thấy ở Mười lẻ một đêm tính phân mảnh, rời rạc trong cốt truyện lẫn bề mặt kết cấu:
“Có thể nói, mỗi phần là một truyện ngắn, những truyện ngắn được chia bởi nhiều
phân đoạn, giới thiệu được những nét riêng của nhân vật” [147, tr.289]. Hoài Nam
đánh giá cao chất hài hước và nghịch dị trong Mười lẻ một đêm và xem đó như đòn
bẩy giúp Hồ Anh Thái tạo dựng nên thế giới nghệ thuật sống động và hấp dẫn. Bùi

Thanh Truyền và Lê Biên Thùy trong bài viết “Những cách tân quan niệm nghệ
thuật về con người trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái” đã nhận ra: “Con người
trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái phức tạp, đa dạng và đều là những lát cắt chân
thực cuộc sống đương đại với những cung bậc “đa sự – đa đoan” của nó” [133].
Theo tác giả bài viết, vì chịu sự ảnh hưởng của dấu ấn hậu hiện đại phương Tây nên
nhân vật trong tác phẩm của Hồ Anh Thái phần đông là những con người đa cực, đa
trị, bất bình thường. Mỗi người với nhiều ngã rẽ, không đơn tuyến, nhất phiến và ai
cũng mải mê đi tìm cho mình một điểm tựa, một mục tiêu phấn đấu.

18


Nguyễn Thị Huế trong bài viết “Truyện ngắn Hồ Anh Thái từ góc nhìn liên
văn bản” đã khẳng định: “Với Hồ Anh Thái, dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của
anh khá dễ nhận biết… Đọc các tập truyện ngắn của Hồ Anh Thái có thể thấy mọi
yếu tố của văn bản, từ ngôn từ, chi tiết, hình tượng cho đến giọng điệu… đều đã,
đang và sẽ có thể trở thành đầu mối của một quan hệ giao tiếp rộng lớn. Từ đó, cần
có một nền tri thức về văn bản để mà lĩnh hội” [92]. Tác giả đã quy mối quan hệ
liên văn bản về hai diện giao tiếp cơ bản: một là mối quan hệ giữa những văn bản
(tác phẩm) của Hồ Anh Thái với nhau, hai là mối quan hệ giữa văn bản này với
sáng tạo nghệ thuật của các tác giả khác. Hỏa Diệu Thúy đã nhận ra “Dấu ấn hiện
đại trong bút pháp Hồ Anh Thái” qua tinh thần “giải cấu trúc” trong tiếp cận và
phản ánh hiện thực cũng như ở phương diện hình thức của tác phẩm. Tác giả bài
viết khẳng định “dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái không chỉ ở ý
thức lựa chọn tiếp cận đối tượng phản ánh mà trước hết và rõ nhất là ở phương thức,
kĩ thuật phản ánh” [10, tr.113]. Tác giả đã làm sáng tỏ nhận định này bằng việc
khảo sát qua các yếu tố như dấu ấn “mã kép”, dấu ấn liên văn bản trong sáng tác
của Hồ Anh Thái.
Sáng tác của Hồ Anh Thái được nhiều tác giả lựa chọn làm đối tượng nghiên
cứu trong nhiều đề tài khoa học khác nhau. Có thể nói Hồ Anh Thái là một hiện

tượng tiểu thuyết trong văn học Việt Nam đương đại, nên trong những năm gần đây,
tác phẩm của tác giả này thường xuyên được chọn làm đối tượng nghiên cứu cho
các báo cáo khoa học, khóa luận, luận văn của các sinh viên và học viên như: Cái kỳ
ảo trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái của hai sinh viên Nguyễn
Thị Thu Hằng và Vũ Thúy Mây (2005); Tìm hiểu vài nét về nhân vật người kể
chuyện trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái của sinh viên Ngô
Thị Thu Trang (2006); Nguyễn Thị Thanh Nga với khóa luận tốt nghiệp Cái kỳ ảo
trong văn chương Hồ Anh Thái (2004); Vũ Thúy Mây với Nhân vật tiểu thuyết trong
Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái (2006); Nguyễn Thị Ngọc Hà với
Kết cấu tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra (2006); Phạm Lan Anh với Những
cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái (Năm 2005); Nguyễn Thị Kim
Lan với Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy
Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái (Năm 2006); Nguyễn Hữu Tâm với Nghệ thuật trần

19


×