Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Luận văn vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào việc nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ ngành giáo dục tỉnh quảng ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.72 KB, 122 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết
bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng
có lẽ không ai có được tầm vóc thời đại được loài người tiến bộ, ca ngợi và
thừa nhận như Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức. Bản thân Người là một tấm gương
sáng ngời về tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân: "Trung với
nước, hiếu với dân"; về đức tính giản dị, cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô
tư. Do đó, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh càng không thể bỏ qua
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người về nâng cao ý
thức trách nhiệm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người mới xã
hội chủ nghĩa thì công việc đầu tiên phải làm là quan tâm đến vấn đề giáo dục.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương
(khóa IX) xác định: "Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu…tập trung chỉ đạo quyết liệt việc nâng cao rõ rệt chất
lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực". Như vậy, về mặt nhận thức Đảng
ta đã khẳng định giáo dục là quốc sách, là nền tảng để phát triển đất nước
trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội hiện nay ở nước ta, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vẫn còn nảy sinh không ít
tiêu cực và diễn biến theo chiều hướng ngày càng phức tạp với tính chất, mức



2

độ và phạm vi khác nhau trong đó có ngành giáo dục. Căn nguyên sâu xa của
những tiêu cực đó là do mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động vào tư
tưởng của mỗi người, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cá nhân phát triển. Lợi
dụng điều này, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực
hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" nhằm khuyến khích lối sống thực dụng,
hưởng lạc và làm băng hoại đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp.
Thực tế cho thấy, ngành Giáo dục - Đào tạo đang phải đối mặt với
hàng loạt vấn đề liên quan đến những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống
ở một bộ phận không nhỏ cán bộ của ngành, làm ảnh hưởng đến uy tín của
nhà giáo, làm giảm lòng tin của nhân dân. Một trong những biểu hiện của sự
suy thoái đạo đức là thiếu tinh thần trách nhiệm. Chính vì thế, làm rõ trách
nhiệm của mỗi cá nhân, tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao ý
thức trách nhiệm của cá nhân trước tập thể, cộng đồng, Tổ quốc và nhân dân,
đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ giáo dục hiện nay là rất cần thiết.
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự phát triển về mức sống,
kéo theo những thay đổi về đời sống đạo đức của xã hội đã nẩy sinh rất nhiều
vấn đề tiêu cực về mặt đạo đức mà ngành giáo dục cũng không phải là ngoại
lệ, thể hiện ở việc thi cử, chạy bằng cấp, các vấn nạn học đường… Sẽ còn rất
nhiều vấn đề về mặt xã hội có nguy cơ nảy sinh nếu các cán bộ làm công tác
giáo dục của tỉnh Quảng Ninh không ý thức được trách nhiệm của mình trong
việc giáo dục thế hệ trẻ. Vì vậy, việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm đối với sự
nghiệp giáo dục, đào tạo trở thành nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục nói
chung và giáo dục Quảng Ninh nói riêng.
Với mục đích nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của cán bộ ngành
giáo dục tỉnh Quảng Ninh nhằm khắc phục những biểu hiện suy hóa về đạo
đức góp phần đưa nền giáo dục Quảng Ninh phát triển hơn nữa, tôi chọn vấn



3

đề: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nâng cao ý thức trách
nhiệm cho cán bộ ngành giáo dục tỉnh Quảng Ninh hiện nay" làm đề tài
luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó, trong những năm qua đã có nhiều sách,
báo, tạp chí, luận án đề cập đến ở những mức độ, góc độ khác nhau thông qua
các công trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như:
* Sách:
- Cuốn "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân tộc và nhân
loại", của tác giả Vũ Khiêu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
- Cuốn "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh", của tác giả Thành Duy,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Cuốn "Ảnh hưởng đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản
lý của Việt Nam hiện nay", do PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt chủ biên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Cuốn "Đạo đức trong nền công vụ", của tác giả Tô Tử Hạ, Nxb Lao
động - xã hội, Hà Nội, 2002.
- Cuốn: "Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh" do
TS. Nguyễn Thế Thắng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Cuốn "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc" của Song Thành, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2005.
- Cuốn "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Qua các phạm trù mà Người
đã sử dụng", của Hoàng Trung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh - Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.



4

- Cuốn "Nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân", của
PGS.TS. Nguyễn Khánh Bật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
* Một số bài đăng trên các tạp chí khoa học:
- Hoàng Minh Thảo, "Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11, 2004.
- GS.TS. Mạch Quang Thắng, "Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2007.
- PGS.TS Vũ Văn Thuấn, "Bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh", Tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 5, 2007.
- Nguyễn Văn Bạo, "Rèn luyện đạo đức cách mạng một nội dung
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1, 2009.
- Hoàng Chí Bảo, "Người cán bộ tổ chức học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1+ 2, 2009.
- GS. Song Thành, "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh: Niềm tin của nhân dân và vai trò nêu gương của người lãnh đạo", Tạp
chí Lý luận chính trị, số 5, 2009.
* Các luận văn, luận án:
- Phạm Huy Kỳ, "Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo
quản lý hiện nay". Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2001.
- Trần Minh Đoàn, "Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học, Hà
Nội, 2002.
- Nguyễn Huệ Khanh, "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh các trường phổ thông trung học ở Hà
Nội hiện nay", Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội, 2007.



5

- Phạm Kiều Lệ, "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thanh
niên trong giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay", Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội, 2008.
Nhìn chung, những tài liệu trên tập trung vào nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức ở nhiều góc độ khác nhau như: nguồn gốc, vị trí, vai trò,
các quan điểm đạo đức cơ bản, chỉ ra những phẩm chất và các nguyên tắc xây
dựng đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó, vận dụng
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở một số đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, các
công trình này chưa thực sự đi sâu nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
về ý thức trách nhiệm một cách có hệ thống.
Qua khảo cứu cho thấy, cũng có một số công trình đề cập đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân
thông qua nghiên cứu các phạm trù "Trung với nước, hiếu với dân" như:
- Nguyễn Thế Trị, "Chuẩn mực đạo đức "Trung với nước, hiếu với
dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới", Tạp chí
Cộng sản, số 10, 2005.
- Đinh Thế Định, "Giáo dục thanh niên "Trung với nước, hiếu với
dân" theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận
chính trị, số 6, 2007.
- Đặng Mai Ninh, "Trung với nước, hiếu với dân", Tạp chí Cộng sản,
số 11, 2007.
Các bài viết trên đều tập trung làm rõ nội dung của chuẩn mực "Trung
với nước, hiếu với dân" trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, qua đó, chỉ ra
sự khác biệt giữa nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh so với
nền đạo đức cũ - đạo đức Nho giáo. Mặc dù, "trung với nước, hiếu với dân"
chính là biểu hiện ý thức trách nhiệm của mỗi người dân đối với Tổ quốc, với

nhân dân, song ít nhà nghiên cứu khai thác luận điểm này ở góc độ trên.


6

Trong những năm gần đây, Ban Tuyên giáo Trung ương đã biên soạn
một số tài liệu phục vụ cho đợt học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân như các cuốn sách sau:
- Cuốn "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, với nội dung chủ yếu bàn
đến sự cần thiết phải nâng cao ý thức trách nhiệm, nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh về ý thức trách nhiệm cũng như một số giải pháp nhằm nâng cao
tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuốn sách này được dùng làm tài liệu học tập
cho cán bộ, đảng viên, công chức để nâng cao nhận thức về tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng kế hoạch cá nhân làm theo lời Bác.
- Cuốn "Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý
thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách giới thiệu các đoạn, trích
dẫn một số bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ đề ý thức trách
nhiệm và nghĩa vụ đạo đức cách mạng đối với Tổ quốc, với nhân dân và một
số câu chuyện sinh động của bạn bè quốc tế ca ngợi tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Các cuốn sách nói trên có trực tiếp đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về nâng cao ý thức trách nhiệm. Tuy nhiên, vì là đề cương tuyên truyền nên
mới chỉ dừng lại ở phác thảo những nội dung cơ bản mà chưa thực sự là một
công trình nghiên cứu chuyên sâu.
Nhìn chung, các công trình đã được công bố ít hay nhiều đều đề cập

đến tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm và thể hiện nội
dung này ở nhiều góc độ khác nhau, song chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống cũng như vận dụng vào việc nâng cao ý thức trách


7

nhiệm của cán bộ ngành giáo dục nói chung và ngành giáo dục Quảng Ninh
nói riêng. Vì thế, đề tài nghiên cứu của luận văn không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân.
- Đánh giá thực trạng ý thức trách nhiệm của cán bộ ngành giáo dục
tỉnh Quảng Ninh hiện nay và đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ ngành giáo dục Quảng Ninh
theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần làm cho ngành giáo dục của
tỉnh Quảng Ninh phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng
cao ý thức trách nhiệm hết lòng, hết sức, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Phân tích thực trạng ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân của cán bộ ngành giáo dục tỉnh Quảng Ninh. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao ý thức trách
nhiệm của cán bộ ngành giáo dục tỉnh Quảng Ninh dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ hiện nay.
- Khẳng định những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức, phụng sự Tổ

quốc, phục vụ nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Thông qua các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 12 tập
Hồ Chí Minh toàn tập và bộ Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử 10 tập để nghiên


8

cứu một số quan điểm cơ bản của Người về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của cán bộ ngành giáo dục (bao gồm các
nhà quản lý giáo dục, các giáo viên) tỉnh Quảng Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về
việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân.
- Kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các công trình
đi trước đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sẽ được thực hiện theo các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp lôgíc, phương pháp nghiên cứu văn bản học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tổng hợp và phân tích tài liệu.
- Phương pháp so sánh.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm hết lòng hết sức, phụng sự Tổ

quốc, phục vụ nhân dân và giá trị to lớn của những quan điểm đó.
- Tổng kết, đánh giá thực trạng ý thức trách nhiệm của cán bộ ngành
giáo dục tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây.


9

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ý thức trách nhiệm
của các bộ ngành giáo dục tỉnh Quảng Ninh với mong muốn góp phần thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục của tỉnh Quảng Ninh phát triển hơn nữa.
7. Giá trị lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn bổ sung, góp phần làm phong phú thêm nhận thức tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu, các giảng viên môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở các trường cao đẳng và đại học.
- Các giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo giúp cho các cán bộ ngành giáo dục Quảng Ninh nâng cao ý thức trách
nhiệm của mình góp phần đưa nền giáo dục tỉnh Quảng Ninh phát triển cùng
với nền giáo dục nước nhà.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.


10

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM, HẾT LÒNG, HẾT SỨC
PHỤNG SỰ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN


1.1. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM VÀ Ý THỨC TRÁCH NHIỆM

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội,
năm 1993 thì trách nhiệm là sự bắt buộc về đạo đức hay trí tuệ, phải làm một
việc, thực hiện một điều cam kết.
Theo quan niệm thông thường, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ của
con người trước xã hội và người khác hay đó chính là nghĩa vụ của con người
khi tham gia các quan hệ xã hội. Do đó, con người có bao nhiêu vị trí, vai trò,
chức năng trong các mối quan hệ xã hội thì sẽ có bấy nhiêu trách nhiệm. Đó
là trách nhiệm của mỗi con người trong quan hệ gia đình; trong cộng đồng, tổ
chức xã hội; trách nhiệm công dân trong quan hệ với đất nước, trách nhiệm
phục vụ nhân dân, là công bộc của nhân dân, của cán bộ, công chức, trách
nhiệm của mỗi cá nhân trong quan hệ với công việc của mình…
Như vậy, trách nhiệm là một khái niệm kép, vừa thuộc phạm trù đạo
đức, vừa thuộc phạm trù pháp luật. Xét ở phương diện đạo đức, trách nhiệm
được xem như là nghĩa vụ đạo đức. Xét ở phương diện pháp luật, trách nhiệm
được xem như là nghĩa vụ pháp lý. Có trách nhiệm chỉ chịu sự phán xét của
dư luận xã hội, đạo đức, lương tâm nhưng cũng có trách nhiệm ngoài sự phán
xét của dư luận xã hội, đạo đức, lương tâm còn chịu sự xét xử của pháp luật.
Chẳng hạn như trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức chịu sự phán
xét của cả dư luận xã hội, đạo đức, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Vì thế, việc nhận thức đúng đắn, tự giác thực hiện một vai trò nào đó là hết


11

sức quan trọng đối với mỗi con người trong xã hội đặc biệt là đối với cán bộ,
đảng viên, công chức.

Tóm lại, trách nhiệm được hiểu là phần việc được giao, nghĩa vụ phải
làm tròn theo cương vị, chức trách của mình. Đó có thể là sự bắt buộc về mặt
đạo đức hoặc mặt pháp lý đối với mỗi một con người để làm việc gì đó phù
hợp với vị trí, vai trò, chức năng của người đó trong quan hệ xã hội.
1.1.2. Ý thức trách nhiệm
1.1.2.1. Quan niệm của đạo đức học mácxít
Trong quan niệm của đạo đức học mácxít, ý thức trách nhiệm được đề
cập đến thông qua phạm trù nghĩa vụ đạo đức. Nghĩa vụ đạo đức là ý thức
trách nhiệm của con người, là ý thức cần phải làm và mong muốn làm, hành
động tự giác vì lợi ích của người khác và vì lợi ích chung của xã hội.
Để làm rõ hơn phạm trù nghĩa vụ đạo đức, đạo đức học mácxít đem so
sánh nó với phạm trù nghĩa vụ pháp lý. Theo đó, nghĩa vụ đạo đức khác với
nghĩa vụ pháp lý ở chỗ con người thực hiện các nghĩa vụ pháp lý chủ yếu là
do sự tác động từ bên ngoài hoặc do chế tài của pháp luật quy định chứ chưa
phải xuất phát do ý thức đạo đức của chủ thể. Như vậy, nghĩa vụ pháp lý chưa
có sự thống nhất giữa lý trí của cá nhân với lý trí của toàn xã hội. Con người
đã hành động tự do, nhưng hành động tự do đó chưa trở thành cái tất yếu của
cái bên trong, mà chịu sự tác động của cái bên ngoài, nó chưa biến thành nhu
cầu đạo đức của chủ thể. Còn nghĩa vụ đạo đức là sự phù hợp giữa lý trí và
tình cảm của cá nhân với những nhu cầu đạo đức của xã hội. Nghĩa vụ đạo
đức là sự thể hiện tình cảm, trách nhiệm của con người phù hợp với ý chí,
nguyện vọng của xã hội. Nó bắt nguồn từ bên trong, trở thành động cơ thôi
thúc con người có ý thức trách nhiệm trước người khác và trước xã hội.
Nghĩa vụ đạo đức bắt nguồn từ "tính thiện". Vì nếu trong suy nghĩ và
hành động con người để mất đi tính thiện thì sẽ không còn nghĩa vụ đạo đức


12

nữa mà chỉ còn lại là nghĩa vụ pháp lý. Chẳng hạn, người thầy thuốc không

thực sự làm việc với tinh thần trách nhiệm "lương y như từ mẫu" hoặc người
thầy giáo không tận tụy với nghề sẽ mất đi bản tính nhân đạo và chỉ là người
làm công ăn lương. Như vậy, muốn phát triển sâu rộng nghĩa vụ đạo đức hay
chính là nâng cao tinh thần trách nhiệm cần phải coi trọng "tính thiện".
Tuy nhiên, nghĩa vụ đạo đức, tinh thần trách nhiệm cũng như tính tập
thể, tính tích cực xã hội, tính tự nguyện, tự giác của cá nhân không phải ngẫu
nhiên mà hình thành. Nó chỉ có điều kiện thuận lợi để phát triển khi nào cá
nhân đó sống, học tập và rèn luyện trong những điều kiện thuận lợi (tập thể
đoàn kết, gia đình êm ấm, xã hội lành mạnh và có đầy tình cảm yêu thương).
Mỗi con người đều có thể thực hiện nghĩa vụ đạo đức, thể hiện được ý
thức trách nhiệm của mình bởi bản tính thiện sẵn có nhưng thực hiện điều đó
như thế nào còn chịu sự tác động, chi phối của môi trường sống, học tập và rèn
luyện. Tuy nhiên, đạo đức học tiến bộ cũng khẳng định rằng, dù ở môi trường
nào, điều kiện nào, cá nhân cũng đều phải có trách nhiệm với xã hội và ngược
lại xã hội phải có trách nhiệm chăm lo cho mỗi cá nhân. Vì lợi ích xã hội sẽ
bao hàm sự thống nhất giữa lợi ích của xã hội, của tập thể và lợi ích của cá
nhân. Lợi ích của xã hội sẽ không thể là mục đích hiện thực nếu nó không bao
hàm lợi ích của các thành viên trong xã hội. Điều quan tâm lớn nhất của việc
thực hiện nghĩa vụ đạo đức hay ý thức trách nhiệm không phải để được xã hội
đề cao, tôn sùng, để đạt mục đích cá nhân mà chính là niềm tự hào, niềm tin
do họ có những cống hiến, có giá trị đối với xã hội và được xã hội thừa nhận.
Bàn đến phạm trù nghĩa vụ đạo đức, đạo đức học mácxít còn chỉ ra
rằng nó có liên quan đến phạm trù lẽ sống, hạnh phúc.
Lẽ sống là quá trình thống nhất biện chứng giữa nghĩa vụ và hạnh
phúc. Mỗi con người cần phải có lẽ sống đúng đắn. Nếu con người sống chỉ vì
cái tôi, ngoài cái tôi không cần biết đến ai, đó là một quan niệm hết sức tầm
thường và mang nặng tính cá nhân chủ nghĩa, như thế là thiếu tinh thần trách


13


nhiệm đối với người khác và đối với xã hội. Cuộc sống không chỉ đơn thuần ở
sự tồn tại, mà cao đẹp hơn là ở giá trị tồn tại của con người. Có thể kết luận
rằng, con người phải sống vì xã hội vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm, vừa là lẽ
sống cao cả nhất.
Hạnh phúc không phải chỉ ở những cái mà con người cảm nhận được
mà còn bao hàm cả sự đánh giá, thừa nhận của xã hội. Con người chỉ thực sự
có hạnh phúc khi làm tròn nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác và
khi thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội thì cũng là quá trình đem lại hạnh phúc
cho bản thân. Nói cách khác, con người chỉ hạnh phúc khi thực hiện đúng
trách nhiệm của mình đối với người khác và xã hội.
Tóm lại, trách nhiệm hiểu theo nghĩa chung nhất là phần việc được
giao, nghĩa vụ phải làm tròn theo cương vị, chức trách của mình. Nhưng ở
góc độ đạo đức học thì phần việc được giao, nghĩa vụ phải làm đó chính là
nhu cầu đạo đức của chủ thể không mang tính bắt buộc mà mang tính tự giác
cao. Như vậy, ý thức trách nhiệm trong đạo đức học mác xít là sự thống nhất
giữa lý trí, tình cảm của chủ thể hành động với nhu cầu xã hội. Đó là sự nhận
thức về nghĩa vụ phải làm, mong muốn được làm và hành động tự giác vì lợi
ích của người khác và lợi ích của xã hội.
1.1.2.2. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói, bài viết bàn đến ý thức
trách nhiệm của các đối tượng, tầng lớp người ở những địa vị, vai trò khác
nhau trong xã hội. Tuy nhiên, Người không sử dụng khái niệm "Ý thức trách
nhiệm" mà thay vào đó là một khái niệm đơn giản hơn, dân dã hơn đó là
"Tinh thần trách nhiệm". Trong bài "Tinh thần trách nhiệm", Người tự đặt câu
hỏi: "Tinh thần trách nhiệm là gì?" và tự trả lời: "Đó là khi Đảng, Chính phủ,
hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa
cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm
cho thành công" [57, tr. 345].



14

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rõ quan niệm này bằng việc đưa ra
một vài ví dụ cụ thể về người đầu bếp, về người cán bộ quân sự có tinh thần
trách nhiệm. Theo đó, người đầu bếp có tinh thần trách nhiệm là phải luôn lo
làm cơm lành canh ngọt, bát đũa sạch sẽ. Không phí phạm của công. Tìm
cách tăng gia, trồng rau, nuôi gà. Khi anh em ốm thì có bát canh, bát cháo.
Khi bộ đội mải đánh giặc thì tìm cách đưa cơm đến nơi cho anh em ăn. Khi
tiếp tế khó khăn thì tìm cách vượt qua, không để anh em thiếu thốn. Người
cán bộ quân sự có tinh thần trách nhiệm phải luôn học hỏi chính trị, kỹ thuật,
chiến thuật. Luôn săn sóc đến tinh thần và vật chất của đội viên. Đoàn kết nội
bộ. Giúp đỡ nhân dân. Kiên quyết chấp hành mệnh lệnh cấp trên giao xuống.
Khi đánh giặc thì phải làm cho toàn đội thấm nhuần tinh thần quyết chiến,
quyết thắng. Khi gặp khó khăn thì phải cố tìm cách giải quyết cho đúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò không thể thiếu của
tinh thần trách nhiệm đối với tất cả mọi người, dù họ là ai, ở địa vị nào, làm
trong công tác gì và trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tinh thần trách nhiệm là gắn
liền chính sách và đường lối quần chúng, để làm tròn nhiệm vụ. Sẽ là sai lầm
nếu tách rời chính sách với nhiệm vụ, tách rời chính sách và nhiệm vụ với
đường lối quần chúng. Người khẳng định việc kiên quyết dùi mài tinh thần
trách nhiệm tức nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ cùng với sự giáo dục
của Đảng, của Chính phủ và của quần chúng sẽ giúp chúng ta nhất định chiến
thắng những khuyết điểm cũng như chiến thắng kẻ thù đặc biệt là đế quốc
thực dân.
Bàn đến tinh thần trách nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trách
nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội nhưng nhấn mạnh trước
hết là trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân. Người thường nhắc nhở mỗi
người có ba trách nhiệm: trước Đảng, trước dân và trước công việc. Do đó,
tinh thần trách nhiệm được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm là "nắm vững

chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ" [57, tr. 345].


15

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích nắm vững chính sách nghĩa là Đảng và
Chính phủ đặt ra chính sách (đó là những chính sách đã được điều tra, cân nhắc
cẩn thận nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân), cán bộ phải nghiên cứu, hiểu suốt
thấm nhuần chính sách ấy. Trên cơ sở chính sách ấy điều tra, nghiên cứu, hiểu
suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình, địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ
ràng, tỉ mỉ, tuyên truyền, cổ động với quần chúng để quần chúng thấu hiểu, ủng
hộ chính sách của Đảng và Chính phủ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách
ấy. Ngoài ra, cán bộ còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han ý kiến, gom góp
sáng kiến của quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình… Như vậy,
phải đi theo đúng đường lối quần chúng, như thế mới là làm tròn nhiệm vụ, là
có tinh thần trách nhiệm với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân.
Tóm lại, trong quan niệm thông thường thì "ý thức trách nhiệm" được
hiểu là sự nhận thức (nông, sâu, đầy đủ và chưa đầy đủ) về nghĩa vụ phải
hoàn thành trong mối quan hệ nhất định. Còn theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì
ý thức trách nhiệm chính là nhận thức về nhiệm vụ phải hoàn thành của mỗi
con người trong mối quan hệ với Tổ quốc, với nhân dân. Mỗi người dù ở
cương vị nào, vai trò nào đều phải có ba trách nhiệm: trước Đảng, trước nhân
dân và trước công việc. Trong ba trách nhiệm đó, trước hết cần có ý thức
trách nhiệm cao trước nhân dân để làm thật tốt rồi đem kết quả đó báo cáo với
cấp trên, với Đảng.
1.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH
NHIỆM, HẾT LÒNG, HẾT SỨC PHỤNG SỰ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN

1.2.1. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải
nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục

vụ nhân dân
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại
mới, trong đó, có đạo công dân và đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.


16

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi người phải tuân theo đạo đức công
dân. Đó là tuân theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự
chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số, hăng hái tham gia công việc chung,
bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm xây dựng nước nhà…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm công dân trước hết và bao
trùm nhất là trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, kể cả trong cuộc sống cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên hạnh phúc cá nhân. Người luôn coi độc lập
của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân là "mục đích duy nhất", là "ham
muốn tột bậc" của mình. Người nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [55, tr. 161].
Cơ sở của việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ quan
niệm mỗi người đều có trách nhiệm trước Tổ quốc, với nhân dân. Theo Người,
mỗi người đều phải có bổn phận với đất nước. Đất nước là đất nước chung.
Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất
nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Do đó, khi Tổ quốc lâm nguy thì mọi người
đều phải đứng lên. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946,
Bác viết: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc" [55, tr. 480].

Khẳng định đạo đức công dân là đạo đức chung mà mỗi người trong
xã hội cần phải tuân theo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến
trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân của cán bộ, đảng viên. Đơn giản vì cán
bộ, đảng viên là tấm gương của xã hội, họ phải có ý thức trách nhiệm cao, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cơ sở của quan điểm này
bắt nguồn từ quan niệm "dân là chủ và dân làm chủ".


17

Bên cạnh việc thực hiện đạo đức công dân, người cán bộ, đảng viên,
cán bộ quản lý lãnh đạo phải thực hiện đạo đức của người cán bộ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh gọi đó là đạo đức cách mạng. Người đã lý giải làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài và gian khổ
đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của các thế hệ nối tiếp nhau. Do đó, để làm
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công, người cách mạng phải có bản
lĩnh cách mạng. Muốn vậy, người cách mạng trước hết phải có cái tâm trong
sáng, cái đức cao đẹp tức phải có đạo đức cách mạng.
Trong các bài nói, bài viết của mình về đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bàn rất nhiều đến việc cán bộ, công chức hoặc người cán bộ cách mạng
phải có đạo đức cách mạng. Theo Người, đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng tinh thần của người cách mạng. Người đã chỉ rõ:
Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là công
việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ
hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì [56, tr. 253].
Lý giải cho vai trò là gốc, là nền tảng của đạo đức cách mạng, Chủ tịch

Hồ Chí Minh cho rằng vì đạo đức cách mạng là cái quyết định sự vững vàng,
kiên trì, nghị lực của người cách mạng, giúp người cách mạng vượt qua mọi khó
khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ. Người khẳng định: "Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang" [60, tr. 283]
và người cán bộ thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không sẽ quyết định sự
thành bại của mọi công việc. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đạo
đức cách mạng lại cần thiết hơn bao giờ hết. Nguy cơ của đảng cầm quyền đó
là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng


18

viên. Vì thế, khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, nếu cán bộ, đảng viên
không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con
người. Đây có lẽ là lý do mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải
"là đạo đức, là văn minh", thì mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang
của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế
giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để
đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con
người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh xóa xã hội cũ, xây xã hội mới
với lý tưởng, khát vọng cao đẹp. Muốn làm cách mạng thì con người cần có
tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, với cả dân tộc. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội
hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung
quanh mình. Cái tâm ấy thể hiện ở trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc,
với nhân dân. Và để cái tâm luôn trong sáng, đạo đức luôn cao đẹp mỗi cá
nhân trong xã hội phải không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm công dân

của mình đối với Tổ quốc, với nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.
Mỗi cán bộ ở những lĩnh vực khác nhau, cấp bậc, chức vụ khác nhau
đều có những tiêu chí đạo đức khác nhau. Tuy nhiên, nội dung bao trùm nhất
về đạo đức của cán bộ, đảng viên là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, ý
thức tổ chức, ý thức trách nhiệm, ý thức kỷ luật… Muốn làm được những
điều này cần phải rèn luyện các phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đạo đức
cách mạng có thể tóm tắt là: "Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận
trung với nước. Tận hiếu với dân" [58, tr. 480]. Đạo đức cách mạng mà cán
bộ, đảng viên cần rèn luyện chính là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng,
thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân


19

dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân của mình. Hết lòng, hết sức
phục vụ nhân dân. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với
nhân dân, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và đồng chí mình tiến bộ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cán bộ, công chức, đảng viên cần thiết
phải nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân còn vì họ là công bộc của dân, vì Nhà nước mà chúng ta đang
xây dựng là của dân, do dân, vì dân.
Cách mạng tháng Tám thành công đem lại quyền độc lập, tự do cho
dân tộc Việt Nam. Từ đây, nhân dân có quyền làm chủ vận mệnh đất nước,
vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Trong chế độ ta, Chính
phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là công bộc của dân, vì thế "Chính quyền từ
xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã

do dân tổ chức nên…" [56, tr. 698]. Nhà nước là nhà nước của dân, do dân và
vì dân chứ không phải của một số ít người. Do đó, "Các công việc của Chính
phủ phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi
người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên
trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải
tránh" [55, tr.22]. Người luôn yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa
vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của
nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ Chính phủ
Cộng hòa dân chủ "Là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng.
Dân là chủ thì Chính phủ phải là đấy tớ. Làm việc ngày nay không phải để
thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính
phủ" [56, tr. 60]. Điều này nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn. Ngay


20

chức vụ Chủ tịch nước của mình, Người cũng quan niệm là do dân ủy thác
cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, làm đầy tớ cho dân. Người nói:
Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi
phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của
quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất
vui lòng lui… Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có
non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với
các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh
lợi [55, tr. 161].
Với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tự xác định vai trò, trách nhiệm của mình trong hệ thống quyền lực.

Đó là nhận sự ủy thác của quốc dân, đồng bào, quyết tâm hoàn thành trách
nhiệm được Tổ quốc giao phó "giống như người lính vâng mệnh lệnh quân
dân ra trước mặt trận" nhằm làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, xây dựng một nước Việt Nam, hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân tộc, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới.
Tuy cán bộ là công bộc, đầy tớ của dân, do dân bầu ra, được dân ủy
quyền nhưng cán bộ cũng đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.
"Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có
Chính phủ thì, nhân dân không ai dẫn đường" [55, tr. 56]. Với vai trò là đầy tớ
của nhân dân, cán bộ phải trung thành, tận tụy, cần, kiệm, liêm, chính... Với
vai trò là người lãnh đạo thì cán bộ phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn
xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức
vừa có tài, phải nêu gương đi trước để làng nước theo sau, thậm chí có thể
phải hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung. Đấy chính là tinh thần trách
nhiệm của người cán bộ, đảng viên.


21

Cán bộ, đảng viên, công chức phải phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cán bộ, đảng viên, công chức có mối liên hệ mật
thiết và cũng rất đặc biệt với Tổ quốc, với nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Sức mạnh của nhân dân là vô địch. Người
khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [59, tr. 276] và "Dễ
mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong" [63, tr. 212].
Khi bàn về cách tổ chức và làm việc với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn: "... bất kỳ việc to việc nhỏ, các cán bộ phải giải thích rõ ràng cho

mỗi một người dân đều hiểu rõ, đều vui lòng làm thì việc gì cũng sẽ thành
công mau chóng, tốt đẹp" [57, tr. 41]. Tuy nhiên, để có sức mạnh vô địch, bền
vững, làm nên thành công trong sự nghiệp cách mạng, nhân dân phải có Đảng
và Chính phủ dẫn đường. Đảng và Chính phủ có trách nhiệm giảng giải lý
luận, chiến lược, sách lược cho dân hiểu theo đó mà thực hiện. Đảng lãnh đạo
quần chúng giác ngộ lý tưởng, đường lối đúng đắn, kiên quyết thực hiện
nhiệm vụ và tin tưởng vào sự thắng lợi của con đường mà Đảng và Chính phủ
đã chọn.
Như vậy, nhân dân là người nuôi dưỡng chế độ mới, người cung cấp
nhân lực, vật lực, trí lực cho Nhà nước tồn tại và phát triển. So với nhân dân
thì số lượng cán bộ, đảng viên là tối thiểu, trong số hàng trăm người dân mới
có một đảng viên. Do đó, nếu không có dân giúp sức thì không làm nổi việc
gì. Cán bộ, đảng viên muốn dựa vào dân, lấy dân làm gốc, muốn hoàn thành
nhiệm vụ vẻ vang của mình thì phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng,
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, hết
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân còn bắt nguồn từ mục đích, bản
chất của Đảng. Với tư cách là một Đảng cầm quyền, Đảng mang bản chất của
giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân


22

tộc. Đảng tập hợp, quy tụ những người kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong
sạch nhất, tận tâm, tận lực tự nguyện phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Đó là
những con người: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển
lay, uy lực không thể khuất phục" [57, tr. 184]. Đảng cầm quyền lãnh đạo đất
nước với mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đó là mục
tiêu vì nước, vì dân, vì sự nghiệp phát triển chung của nhân loại hướng tới
những gì tốt đẹp nhất cho con người. Vì thế, đứng trong hàng ngũ của Đảng,

các cán bộ, đảng viên phải tình nguyện hy sinh mình vì nhân dân, vì mục tiêu
cao cả đó. Thế nên, hơn ai hết mỗi cán bộ, đảng viên đều cần thiết xác định rõ
trách nhiệm của mình vì nước, vì dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.
Tóm lại, ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân chính là những biểu hiện cụ thể của phẩm chất "Trung với nước,
hiếu với dân" - Phẩm chất đạo đức hàng đầu của nền đạo đức mới rất cần thiết
không chỉ của cán bộ, đảng viên mà còn của mọi người dân Việt Nam trong tư
duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này dễ hiểu vì: thứ nhất, con người sống
trong xã hội chịu sự ràng buộc của nhiều mối quan hệ và xét trong các quan
hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân,
dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất, cơ bản nhất, bao trùm nhất. Nó là cơ
sở, điều kiện để giải quyết mối quan hệ khác của con người đối với xã hội.
Nếu không có tình yêu quê hương, đất nước thì cũng không có tình yêu
thương con người một cách đầy đủ và đúng đắn, thậm chí còn dẫn đến sự chà
đạp hay xúc phạm đến quyền lợi của người khác và như thế không thể nói đến
giải phóng con người một cách triệt để. Thứ hai, cán bộ, công chức và nhân
dân đều phải có bổn phận với đất nước vì ai sinh ra cũng gắn liền với một đất
nước, một Tổ quốc, quê hương nhất định, được nuôi dưỡng và trưởng thành
trong mối quan hệ gia đình - làng xã - Tổ quốc nhất định. Bởi thế, nhân dân
và đất nước có quan hệ ràng buộc với nhau: Nước là nước của dân, dân là dân
của nước. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Chính vì thế, trung với


23

nước, hiếu với dân quyết tâm phấn đấu vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội
là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất, cần thiết nhất của mỗi
con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
"Trung với nước, hiếu với dân" cũng chính là trách nhiệm mà Chủ

tịch Hồ Chí Minh yêu cầu ở cán bộ, đảng viên nói riêng và mỗi người Việt
Nam trong thời đại mới nói chung. Trong Lễ bế mạc lớp bổ túc trung cấp,
ngày 10-10-1947, Người nói: "Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều sau
đây: Trí - Tín - Nhân - Dũng" [56, tr. 223]. Cũng vào cuối tháng 10 năm 1947,
trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết: "Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm
có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" [56, tr. 251]. Tổng hợp lại, trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có sáu chuẩn mực đạo đức cơ bản: Nhân, Nghĩa,
Trí, Tín, Dũng, Liêm. Các chuẩn mực đạo đức này hợp thành phẩm chất đạo
đức của mỗi người Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh được cụ thể hóa và biểu hiện trực tiếp ở chuẩn mực đạo đức "Trung với nước,
hiếu với dân". Điều này nghĩa là người nào có đủ Nhân, Nghĩa, Trí, Tín,
Dũng, Liêm thì người đó chắc chắn phải là người "trung với nước, hiếu với
dân" và ngược lại đã "trung với nước, hiếu với dân" thì sẽ hội tụ đầy đủ các
chuẩn mực đạo đức cơ bản khác. Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên, trong
điều kiện Đảng cầm quyền, ít nhiều cán bộ, đảng viên đều có quyền hành, do
đó nếu không "trung với nước, hiếu với dân" thì không thể thực hiện tốt các
chuẩn mực đạo đức như: cần, kiệm, liêm chính và dễ dẫn đến hủ bại, biến
thành sâu mọt, hại dân, hại nước. Có "trung với nước, hiếu với dân" mới có ý
thức trách nhiệm vì nước, vì dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, phấn đấu vì hạnh
phúc, quyền lợi chân chính của con người. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng để
trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng bền gan, vững chí vượt qua mọi khó khăn,
thử thách hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó với tinh
thần giàu sang không thể quyền rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ


24

không thể khuất phục. Xét cho cùng đó chính là yêu cầu về nâng cao ý thức
trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

1.2.2. Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung
nâng cao ý thức trách nhiệm
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm
được thể hiện vừa cụ thể, vừa sâu sắc ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, ý thức trách nhiệm phải gắn với mỗi một chủ thể cụ thể và
được thể hiện trong mối quan hệ với nhiệm vụ và công việc được giao.
Trách nhiệm là phần việc được giao, nghĩa vụ phải làm tròn theo
cương vị và chức trách của mình. Con người có bao nhiêu vị trí,vai trò, chức
năng thì có bấy nhiêu trách nhiệm. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải
nâng cao ý thức trách nhiệm thông qua việc chỉ ra trách nhiệm của những chủ
thể cụ thể như trách nhiệm của hệ thống chính trị (Đảng, Quốc hội, Chính
phủ…), của cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, thanh niên, học sinh, của cán bộ
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là trách nhiệm của người thầy giáo
trong việc giáo dục thế hệ trẻ… nhằm giúp mỗi đối tượng tự nhận thức thật rõ
trách nhiệm của bản thân tương ứng với vai trò, vị trí của mình trong xã hội.
Theo đó, mỗi một chủ thể hành động sao cho đúng trách nhiệm, góp phần nhỏ
bé vào việc bảo vệ, xây dựng và kiến thiết đất nước.
Mỗi con người trong xã hội được xem là có ý thức trách nhiệm thì
điều quan trọng nhất là phải làm tròn nhiệm vụ. Nhận thức chung về làm tròn
nhiệm vụ là làm tròn phần việc được giao; lời nói đi đôi với việc làm và phải
chịu hậu quả về việc không hoàn thành nhiệm vụ, lời nói không đi đôi với
việc làm. Làm tròn nhiệm vụ về phía hệ thống chính trị thì phải điều tra,
nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận, nhằm vào lợi ích chung của nhân dân mà đặt
chính sách. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của
Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng" [56, tr. 290].


25


Theo Người, như thế là hơi phiền hà một chút, phiền cho những người lười
biếng học hỏi và giải thích. Nhưng việc gì cũng nhất định thành công.
Nói riêng về trách nhiệm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân
dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì
khác" [58, tr. 335]; hay "Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích
của nhân dân Đảng ta không có lợi ích nào khác" [62, tr. 337]. Như vậy,
nhiệm vụ của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là tham gia lãnh đạo
cách mạng, lãnh đạo nhân dân, hết lòng, hết sức đem lại lợi ích cho nhân dân.
Người viết: "Đảng ta quyết lãnh đạo quân đội và nhân dân vượt mọi khó
khăn, gian khổ - mà càng gần thắng lợi càng nhiều gian khổ khó khăn - để
tranh lấy thắng lợi hoàn toàn. Sở dĩ được như thế là vì Đảng ta và chỉ có Đảng
ta toàn tâm, toàn lực phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc" [58, tr.19].
Trên cơ sở xác định trách nhiệm của Đảng là phụng sự Tổ quốc và nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Người
viết: "Đảng không phải là nơi thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để
phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp" [59, tr. 34]. Do đó, đảng viên phải trở thành
người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp, phải đem hết trí tuệ, tâm huyết
tinh thần và lực lượng để làm cho đến nơi, đến chốn, có hiệu quả phần việc
được giao, dù đó là việc to hay nhỏ, dễ hay khó. Làm tốt công việc không có
nghĩa là không vấp váp, khuyết điểm nhưng phải thấy rằng đó là sự vấp váp
khuyết điểm trong tiến bộ. Và trong trường hợp đó thì phải biết tự phê bình,
hoan nghênh nhân dân phê bình, kiên quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm của
người cán bộ, đảng viên thể hiện rõ nhất ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Bất kỳ ở cương vị nào, hoàn cảnh nào, người cán bộ, đảng viên phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, luôn hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cán bộ, đảng viên sáng ngời về



×