Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Vận dụng phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động tại công ty sợi thuộc tổng công ty cổ phần dệt may hòa THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.23 KB, 93 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, đã mở ra nhiều cơ hội phát triển
cho các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam ta nói riêng, song nó cũng tạo ra
nhiều thách thức, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và đổi mới để
tồn tại và phát triển.
Để giúp cho doanh nghiệp có thể tồn tại một cách vững chắc, các nhà quản
trị cần nhận thức rõ vai trò của chi phí phát sinh trong doanh nghiệp mình. Chi phí
và giá thành là nhân tố quan trọng trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của
nhà quản trị. Chi phí và giá thành ảnh hưởng đến lợi nhuận, sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Vì vậy, việc tổ chức công tác kế toán sao cho xác định chi phí và
giá thành sản phẩm được chính xác là vấn đề rất quan trọng trong quản lý.
Công ty Sợi thuộc Tổng công ty CP Dệt may Hòa Thọ, sản phẩm chủ yếu là
sợi với nhiều đặc điểm và quy cách khác nhau. Việc quyết định sản xuất loại sợi
nào, đồng ý sản xuất đơn đặt hàng nào, từ chối đơn đặt hàng nào, giá bán từng loại
sợi là bao nhiêu?…..ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty, mà
thông tin làm cơ sở cho việc ra quyết định này chính là giá thành được xác định cho
mỗi loại sản phẩm sợi.
Phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động (ABC – Activity Based
Costing) với việc lựa chọn những tiêu thức phân bổ nguồn lực hợp lý, sử dụng một
hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở phân tích mối quan hệ
nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ tham gia của từng
hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, được các nước phát triển
xem đó là sự lựa chọn tối ưu trong việc nâng cao chất lượng thông tin về chi phí cho
việc ra quyết định liên quan đến từng loại sản phẩm…
Trong một mức độ nào đó, nghiên cứu và vận dụng phương pháp ABC trong
việc tính giá thành sản phẩm sợi là một trong những giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường của Công ty.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin chính xác về giá thành, phương pháp ABC




2

còn cung cấp thông tin chi tiết về cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, về quá trình và
nguyên nhân phát sinh chi phí. Việc hiểu rõ quá trình và nguyên nhân phát sinh chi
phí không chỉ giúp nhà quản trị tìm ra biện pháp thích hợp để cắt giảm chi phí mà
còn giúp cho nhà quản lý có thể xây dựng được cơ chế đánh giá và khuyến khích
nhân viên phù hợp, góp phần quan trọng nâng cao hiệu suất làm việc của nhiên
viên, qua đó, cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa,
những thông tin do phương pháp ABC cung cấp, giúp cho nhà quản lý có thể linh
hoạt hơn trong việc lập kế hoạch ngân sách cũng như điều chỉnh các chính sách,
chiến lược sản phẩm của Công ty trong điều kiện thị trường luôn biến động, và từ
đó đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn, tối đa hóa được lợi nhuận.
Đã có rất nhiều nghiên cứu về phương pháp ABC nói chung và nghiên cứu
vận dụng phương pháp này vào trong các lĩnh vực khác nhau như: sản xuất, dịch
vụ…nói riêng. Tuy nhiên, đến nay, hầu như chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu
vận dụng phương pháp ABC tại các doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất sợi, mặc
dù, đã có một cơ sở lý luận tương đối hoàn chỉnh về phương pháp ABC và số lượng
doanh nghiệp sản xuất sợi ngày càng gia tăng trên thị trường.
Xuất phát từ những yêu cầu về lý luận cũng như thực tiễn, đề tài đã đi sâu
nghiên cứu phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động và qua đó nghiên
cứu vận dụng phương pháp này tại Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ phần dệt
may Hòa Thọ. Qua nghiên cứu thực trạng công tác tính giá thành tại Công ty Sợi,
nhận thấy chi phí sản xuất chung tại Công ty chiếm tỷ trọng tương đối cao trong giá
thành sản phẩm, tỷ trọng này có xu hướng gia tăng bởi điều kiện sản xuất ngày càng
được nâng cao. Tuy nhiên, việc tập hợp chi phí sản xuất chung tại Công ty được
thực hiện theo từng phân xưởng và tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung chỉ
dựa trên một tiêu thức phân bổ đó là số sản phẩm hoàn thành quy về chi số NE30,
do đó, việc tính giá thành cho từng sản phẩm sợi sẽ không phản ánh chính xác được

những chi phí thực tế kết tinh trong mỗi đơn vị sản phẩm, dẫn đến công tác định giá
bán, ra các quyết định sản xuất của nhà quản trị sẽ không hợp lý. Xuất phát từ lý do
đó, tác giả đã nghiên cứu vận dụng phương pháp ABC tại Công ty Sợi thuộc Tổng


3

Công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ nhằm hoàn thiện công tác tính giá thành, làm cơ
sở để nhà quản trị lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu nhất, nâng cao khả năng
cạnh tranh về giá đối với sản phẩm sợi tại Công ty, giúp Công ty vững bước trên
con đường kinh doanh của mình.
Đề tài sẽ giới thiệu khái quát cơ sở lý luận về phương pháp ABC, trình bày
kinh nghiệm vận dụng phương pháp ABC ở các nước trên thể giới cũng như sự vận
dụng phương pháp này ở Việt Nam nói chung và doanh nghiệp sợi nói riêng; nghiên
cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ với
Công ty Sợi, cơ cấu quản lý, tổ chức sản xuất, tổ chức công tác kế toán, thực trạng
công tác tính giá thành tại Công ty Sợi và đề xuất vận dụng phương pháp ABC tại
Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ nhằm khắc phục những
hạn chế của phương pháp tính giá thành mà Công ty đang áp dụng. Phân tích những
thuận lợi, khó khăn và nêu lên những vấn đề mà Công ty Sợi cần phải hoàn thiện để
có thể vận dụng thành công phương pháp ABC, cũng như trình bày tác dụng của
việc vận dụng phương pháp ABC trong công tác quản trị chi phí tại Công ty.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng công tác tính giá thành tại Công ty Sợi thuộc Tổng
Công ty cổ phần dệt may Hòa Thọ. Qua đó, đề xuất vận dụng phương pháp tính giá
thành dựa trên cơ sở hoạt động vào Công ty nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công
tác kế toán chi phí và tính giá thành, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý
của Công ty.
3. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng công tác tính giá thành tại Công ty Sợi thuộc Tổng Công ty cổ

phần Dệt may Hòa Thọ hiện nay như thế nào?
- Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng phương pháp tính giá thành dựa
trên cơ sở hoạt động tại Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ?
- Tác dụng của việc áp dụng phương pháp ABC trong quản trị chi phí ở Công
ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4

- Đối tượng nghiên cứu:
Việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty Sợi là khá phức
tạp, nên để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu và dung lượng của đề tài, tác giả xin
đơn giản bớt phần thủ tục chứng từ, tài khoản kế toán, định khoản, mà chỉ trình bày
kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành thông qua các bảng biểu cũng như cách lựa
chọn tiêu thức phân bổ chi phí tại Công ty, tập trung nghiên cứu các báo cáo kế
toán, bảng biểu, quy trình sản xuất tại Công ty Sợi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công ty Sợi thuộc Tổng công ty CP Dệt may Hòa Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp điều tra (phỏng
vấn trực tiếp những người có liên quan như: kế toán viên, trưởng ca…), quan sát
quá trình sản xuất tại các nhà máy, phương pháp khai thác số liệu thứ cấp (sử dụng,
phân tích các tài liệu, nghiên cứu trước đây như: sách, báo, tạp chí…viết về phương
pháp ABC, các sổ sách, các báo cáo của Công ty…)
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Ý nghĩa khoa học:
Đề tài đi sâu nghiên cứu và phần nào làm rõ hơn cơ sở lý luận về phương
pháp tính giá thành còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đó là

phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động. Nghiên cứu vận dụng phương
pháp ABC vào công ty sợi, đây là một vấn đề mà trước đây, hầu như chưa có một
nghiên cứu nào. Qua đó, đề xuất một phương pháp tính giá thành mới có thể vận
dụng thành công vào các doanh nghiệp sợi.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài nghiên cứu vận dụng một phương pháp tính giá thành mới (phương
pháp ABC) tại Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ, nhằm
đảm bảo công tác tập hợp, phân bổ chi phí và tính giá thành từng loại sản phẩm tại
Công ty được chính xác và hợp lý hơn.


5

7. Kết cấu đề tài:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt
động
Chương 2: Thực trạng công tác tính giá thành tại Công ty Sợi thuộc Tổng
công ty Cổ phần Dệt may Hòa Thọ
Chương 3: Vận dụng phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động
vào Công ty Sợi thuộc Tổng công ty Cổ phần Dệt may Hòa Thọ.

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Đề tài tập trung nghiên cứu về phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở


6

hoạt động và vận dụng phương pháp này tại Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ
phần Dệt may Hòa Thọ. Vì vậy, tác giả tập trung thu thập, tìm kiếm thông tin, tài

liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: các giáo trình, luận văn, các bài báo, tạp chí kế
toán, các tài liệu tiếng anh, trên các phương tiện tìm kiếm hiện đại như google…viết
về phương pháp ABC nhằm cung cấp một lượng thông tin cần thiết, giúp tác giả
hiểu rõ hơn về phương pháp ABC, nắm rõ được cơ sở lý luận làm cơ sở cho việc
đánh giá phương pháp tính giá thành đang áp dụng tại Công ty Sợi, từ đó phân tích
những thuận lợi, khó khăn của Công ty khi áp dụng phương pháp ABC và đề xuất
vận dụng phương pháp này nhằm hoàn thiện công tác tính giá thành tại Công ty.
Giáo trình Kế toán quản trị của tác giả Đặng Kim Cương, giáo trình Kế toán
quản trị của tác giả Huỳnh Lợi, Giáo trình kế toán quản trị của GS. TS. Trương Bá
Thanh, giáo trình Kế toán quản trị của PGS.TS Phạm Văn Dược… những giáo trình
này đều giới thiệu một cách khái quát về phương pháp ABC, từ đó, giới thiệu một
cách cụ thể về nội dung phương pháp ABC từ bước Phân tích hoạt động và xác định
các nguồn lực được sử dụng cho từng hoạt động , phân bổ chi phí nguồn lực cho
các hoạt động, chọn lựa nguồn sinh phí phát sinh tương ứng với từng hoạt động, xác
định chi phí hoạt động cho từng sản phẩm đến bước cuối cùng là tính giá thành sản
phẩm. Các giáo trình cũng trình bày các phương pháp thu thập số liệu khi vận dụng
phương pháp tính giá thành này. Từ đó, giúp tác giả có những hiểu biết một cách
khái quát về phương pháp ABC.
Những tài liệu tác giả thu thập được là những tài liệu giới thiệu từ khái quát
đến cụ thể về phương pháp ABC và vận dụng phương pháp ABC vào các công ty
khác nhau. Bài báo Áp dụng phương pháp tính chi phí theo hoạt động (ABC) cho
các doanh nghiệp nhỏ của tác giả Nguyễn Thu Hà năm 2008; Bàn thêm về phương
pháp tính chi phí theo hoạt động của Thạc sĩ Phạm Rin trên tạp chí kế toán ngày
19/11/2006…, đã phân tích được những điều kiện, những ưu điểm, hạn chế khi áp
dụng phương pháp ABC đây cũng là một cơ sở để tác giả nghiên cứu, tham khảo và
vận dụng vào đề tài của mình. Các bước thực hiện phương pháp ABC, đặc biệt là
phương pháp ước đoán trong quá trình thu thập thông tin được thay thế hoàn toàn


7


bằng những dữ liệu thực tế mà bài báo này đưa ra làm cơ sở để tác giả vận dụng vào
Công ty Sợi, phương pháp ước đoán này giúp cho Công ty tiết kiệm được một
khoản chi phí tương đối lớn trong công tác thu thập thông tin, giảm đi đáng kể
những rủi ro của việc chuyển đổi từ hệ thống tính giá thành truyền thống sang hệ
thống tính giá thành theo phương pháp ABC. Bởi Công ty Sợi thuộc Tổng công ty
cổ phần Dệt may Hòa Thọ là một công ty thuộc loại doanh nghiệp nhỏ.
Hầu hết các tài liệu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính gồm
nghiên cứu chuyên sâu về phương pháp ABC, cũng như nghiên cứu so sánh giữa
phương pháp tính giá thành truyền thống với phương pháp ABC để từ đó, giới thiệu
một cách khái quát nhất về phương pháp ABC, các bước thực hiện trong phương
pháp ABC và nêu ra được những ưu nhược điểm của phương pháp ABC so với
phương pháp tính giá thành truyền thống và lợi ích của doanh nghiệp khi áp dụng
phương pháp ABC trong việc tính giá thành sản phẩm. Hầu hết các tài liệu đều
khẳng định việc áp dụng phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động có
nhiều ưu điểm hơn phương pháp tính giá thành truyền thống và mang lại nhiều lợi
ích cho doanh nghiệp. Phương pháp ABC cung cấp thông tin chính xác về giá
thành, mức tiêu hao của các nguồn lực thực tế vào từng sản phẩm, từ đó, giúp cho
các nhà quản trị có thể xác định chi phí sản phẩm, cải thiện cấu trúc chi phí và đề ra
những chiến lược kinh doanh phù hợp cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy thuộc vào
đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà nhà quản trị xem xét cách
thức vận dụng cho phù hợp.
Những giáo trình, bài báo, tạp chí khoa học…viết về phương pháp ABC mà
tác giả tìm kiếm và thu thập được là phù hợp với nội dung đề tài mà tác giả nghiên
cứu. Bởi những tài liệu này cung cấp một cơ sở lý luận, cũng như đưa ra cách thức
vận dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cụ thể, làm cơ sở để tác giả nghiên cứu,
tham khảo và hoàn thiện đề tài của mình.
Hiện nay, đã có rất nhiều nghiên cứu về phương pháp ABC nói chung và
nghiên cứu vận dụng phương pháp này vào trong các lĩnh vực khác nhau như: sản
xuất, dịch vụ…nói riêng, tuy nhiên, đến nay, hầu như chưa có một nghiên cứu nào



8

nghiên cứu vận dụng phương pháp ABC tại các doanh nghiệp kinh doanh và sản
xuất sợi, mặc dù, đã có một cơ sở lý luận tương đối hoàn chỉnh về phương pháp
ABC và số lượng doanh nghiệp sản xuất sợi ngày càng gia tăng trên thị trường. Qua
quá trình tham khảo các tài liệu viết về phương pháp ABC từ cơ sở lý luận đến
những nghiên cứu vận dụng phương pháp này vào những công ty, những lĩnh vực
cụ thể, đề tài đã nghiên cứu phát triển vận dụng phương pháp ABC vào trong doanh
nghiệp kinh doanh và sản xuất sợi mà cụ thể Công ty Sợi thuộc Tổng công ty cổ
phần Dệt may Hòa Thọ.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ
THÀNH DỰA TRÊN CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG


9

1.1. Sự hình thành và vai trò của phương pháp tính giá thành dựa trên cơ
sở hoạt động (phương pháp ABC)
1.1.1. Sự hình thành phương pháp ABC
Trong những năm thập niên 1980, nhiều nhà quản trị cũng như kế toán đã
không hài lòng với hệ thống tính giá thành truyền thống. Bên cạnh những ưu điểm,
các hệ thống tính giá thành đó đã bộc lộ một số hạn chế dẫn đến những bất lợi trong
việc ra quyết định. Có thể bàn đến hai hạn chế lớn nhất là cách lựa chọn đối tượng
tập hợp chi phí và kỹ thuật phân bổ chi phí.
Trong phương pháp tính giá thành truyền thống, đối tượng tập hợp chi phí
chủ yếu là theo đơn đặt hàng (hệ thống tính giá theo công việc) hoặc theo phân
xưởng, giai đoạn sản xuất (hệ thống tính giá theo quá trình sản xuất). Với đối tượng

đó, hệ thống tính giá thành chỉ mới nhằm mục đích tính giá thành sản phẩm, không
chỉ ra mối quan hệ qua lại giữa các hoạt động ở các bộ phận chức năng khác nhau.
Những vấn đề như: chi phí gia tăng ở khâu nào, do nguyên nhân nào trong quá trình
sản xuất luôn được các nhà quản trị đặt ra trong quá trình hoàn thiện và thiết kế lại
quá trình sản xuất nhằm cắt giảm chi phí. Thực tế cho thấy, chi phí phát sinh ở
nhiều hoạt động khác nhau trong quá trình sản xuất, nhưng nếu chỉ tập hợp chi phí ở
góc độ chung thì không thể kiểm soát chi phí ở doanh nghiệp. Nói cách khác, mục
tiêu kiểm soát và hoạch định ở doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gia tăng
chưa được đáp ứng.
Các phương pháp tính giá thành truyền thống thường lựa chọn một hay một
vài tiêu thức để phân bổ chi phí sản xuất chung. Do vậy, giá thành sản phẩm không
phản ánh đúng giá phí của nó, nhất là khi mức độ tự động hóa trong các doanh
nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Kết quả là việc ra quyết định giá bán cạnh
tranh bị ảnh hường đối với những sản phẩm được tính giá thành quá cao hoặc quá
thấp.
Để khắc phục những hạn chế đó, người ta bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng
một phương pháp tính giá thành sản phẩm mới gọi là phương pháp tính giá thành
dựa trên cơ sở hoạt động (phương pháp ABC).


10

Các khái niệm của phương pháp ABC đã được phát triển trong lĩnh vực sản
xuất của Hoa Kỳ trong những năm 1970, 1980. Trong thời gian này, các Hiệp hội
quản lý cao cấp quốc tế, bây giờ được gọi đơn giản là CAM-I, nghiên cứu và chính
thức hóa các nguyên tắc mà bây giờ được biết đến dưới tên gọi “Activity-based
Costing”
Robin Cooper và Robert.S.Kaplan là những người đề xướng nên thẻ cân
bằng điểm (Balanced Scorecard), là những người đã đưa các khái niệm này trong
một số bài báo xuất bản của Harvard Business Review bắt đầu từ năm 1988. Cooper

và Kaplan mô tả phương pháp ABC là một cách tiếp cận để giải quyết các vấn đề
của hệ thống quản lý chi phí truyền thống. Hệ thống chi phí truyền thống thường
không thể xác định các chi phí thực tế của quá trình sản xuất và các chi phí dịch vụ
liên quan. Do đó các nhà quản lý sẽ đưa ra các quyết định dựa trên các thông tin
không chính xác đặc biệt ở những doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng, sản
phẩm khác nhau.
Hệ thống tính giá ABC lần đầu tiên được định nghĩa rõ ràng vào năm 1987
bởi Robert.S.Kaplan và W.Bruns trong một chương của quyển“Accounting and
Management: A Field Study Perspective”. Họ tập trung vào ngành công nghiệp sản
xuất đầu tiên, nơi mà tiến bộ công nghệ và sự gia tăng năng suất làm giảm tỉ lệ của
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp, tăng tỉ lệ của các chi
phí gián tiếp. Hệ thống tính chi phí ABC sau này được giải thích rõ hơn vào năm
1999 bởi Peter.F.Drucker trong quyển “Management Challenges of the 21st
Century”.
Khởi đầu từ ý tưởng của các nhà quản trị vào đầu những năm 1980, phương
pháp ABC chỉ là một kỹ thuật tính giá thành sản phẩm, dịch vụ bằng cách áp dụng
nhiều tiêu thức phân bổ đối với chi phí sản xuất chung để đảm bảo giá thành xác
định hợp lý hơn. Nhưng đến đầu những năm 1990, các nhà quản trị phát hiện rằng,
với cùng một dữ liệu ban đầu nhưng giá thành tính theo phương pháp ABC được sử
dụng tốt hơn cho việc thiết kế sản phẩm và thiết kế lại quá trình sản xuất, ABC còn
được sử dụng để đo lường hiệu quả hoạt động của quá trình kinh doanh. Số liệu của


11

phương pháp ABC giúp các nhà quản trị nhìn rõ hơn mối quan hệ giữa thời gian,
chất lượng, công suất nhà xưởng, sự linh hoạt và chi phí của doanh nghiệp. Phương
pháp ABC ngày nay đã gắn với một triết lý mới trong quản trị là quản trị dựa trên
hoạt động (ABM).
Quan điểm của ABC

Tài nguyên

Nguồn
hoạt động

Các hoạt động

Cắt giảm chi phí
Hoàn thiện quá trình
sản xuất
Loai bỏ lãng phí 
Nâng cao chất lượng
Benchmark

Đo lường
hoạt động

Đối tượng tính
giá
Ra quyết
định

Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa ABC và ABM
Điểm nổi bậc của phương pháp ABC là nhấn mạnh các hoạt động như là
những đối tượng tập hợp chi phí chủ yếu. Chi phí phát sinh theo hoạt động này sau
đó sẽ được phân bổ cho những đối tượng tính giá thành theo số lượng hoạt động
(nguồn sinh phí) mà các đối tượng này đã sử dụng. Cần chú ý là hệ thống tính giá
thành dựa trên cơ sở hoạt động có thể là một phần của hệ thống tính giá thành theo
công việc hoặc tính giá thành theo quá trình sản xuất. Hệ thống tính giá này không
thay thế phương pháp tính giá thành truyền thống, mà nhằm bổ sung khả năng xử lý

và cung cấp các thông tin trong việc ra quyết định ngắn hạn và dài hạn ở doanh
nghiệp.
1.1.2. Vai trò của phương pháp ABC
Phương pháp ABC sẽ giúp các nhà quản lý tránh được những quyết định sai
lầm do sử dụng thông tin không chính xác về giá thành như trình bày ở trên. Bên
cạnh việc cung cấp thông tin chính xác về giá thành, ABC còn cung cấp thông tin
chi tiết về cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, giúp cho nhà quản lý có thể linh hoạt


12

hơn trong việc lập kế hoạch ngân sách cũng như điều chỉnh các chính sách, chiến
lược sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường luôn biến động.
Với phương pháp ABC, chi phí phục vụ một khách hàng có thể xác định một
cách chắc chắn. Sau khi trừ ra chi phí sản phẩm và chi phí phục vụ từng khách
hàng, sẽ tính được lợi nhuận khách hàng mang lại. Phương pháp ABC tính toán chi
phí khách hàng và chi phí sản phẩm riêng biệt, giúp xác định chính xác lợi nhuận
mỗi khách hàng mang lại và giúp định vị sản phẩm và dịch vụ tương ứng.
Việc áp dụng phương pháp ABC còn góp phần hỗ trợ hoạt động marketing
trong việc xác định cơ cấu sản phẩm cũng như chính sách giá. Đặc biệt trong trường
hợp doanh nghiệp có nhiều mặt hàng thì việc đàm phán với khách hàng hay xử lý
đơn hàng một cách nhanh chóng đòi hỏi phải có thông tin chi tiết về giá thành cũng
như cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, qua đó có thể xác định các mức giá tối ưu
cho các đơn hàng khác nhau với cơ cấu sản phẩm khác nhau. Nắm được các thông
tin chi tiết và chính xác về chi phí cho các sản phẩm còn giúp doanh nghiệp dễ dàng
hơn trong việc cải tiến (customization) sản phẩm của mình nhằm tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường bằng cách đưa thêm vào sản phẩm những giá trị gia tăng
trong điều kiện chi phí còn cho phép. Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể chủ
động xây dựng chiến lược marketing để định hướng nhu cầu khách hàng vào các
mặt hàng có lợi nhuận cao, thay thế cho các mặt hàng mà doanh nghiệp không có

lợi thế. Hơn nữa, ứng dụng phương pháp ABC có thể giúp nhân viên nắm rõ toàn bộ
chi phí liên quan, giúp họ có thể phân tích chi phí và xác định những hoạt động nào
mang lại giá trị cộng thêm và hoạt động nào không, qua đó cải thiện hiệu quả hoạt
động. Đây là một quy trình hoàn thiện liên tục bắt đầu từ việc phân tích chi phí, cắt
giảm những hoạt động không tạo ra giá trị cộng thêm và qua đó đạt được hiệu suất
chung.
Phương pháp ABC giúp công ty tạo ra những sản phẩm tốt hơn, đáp ứng nhu
cầu của thị trường với chi phí cạnh tranh. Phân tích lợi nhuận sản phẩm và lợi
nhuận do khách hàng mang lại, phương pháp này đã góp phần tích cực vào quá
trình ra quyết định của cấp quản lý; công ty có thể nâng cao hiệu suất hoạt động và


13

giảm chi phí mà không hy sinh giá trị mang lại cho khách hàng. Mặt khác, có thể
giúp công ty mô hình hóa tác động của việc cắt giảm chi phí và kiểm soát chi phí
tiết kiệm được.
Nhìn chung, ABC là một phương pháp năng động thúc đẩy sự cải tiến diễn ra
liên tục. Với phương pháp ABC, bất kì công ty nào cũng có thể tạo ra lợi thế cạnh
tranh về chi phí và liên tục tạo thêm giá trị cho cổ đông và khách hàng
1.2. Nội dung phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động
Trong phương pháp ABC, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân
công trực tiếp được tập hợp và hạch toán tương tự như phương pháp tính giá truyền
thống, quy trình tính giá thành theo phương pháp ABC chỉ nhằm mục đích tập hợp
và phân bổ chi phí sản xuất chung. Việc phân bổ sẽ được dựa vào những tiêu thức
phân bổ linh hoạt, tiến bộ hơn rất nhiều so với phương pháp tính giá truyền thống.
Nội dung theo phương pháp ABC bao gồm các bước sau:
1.2.1. Phân tích hoạt động và xác định các nguồn lực sử dụng:
Bước đầu tiên cũng là bước cực kỳ quan trọng trong quy trình tính giá ABC
là tiến hành phân tích các hoạt động để xác định các nguồn lực sử dụng cho từng

hoạt động. Bởi lẽ, nếu xác định các hoạt động không chính xác sẽ ảnh hưởng đến
các bước tiếp theo của quy trình. Phân lớn các nguồn lực bị tiêu hao được ghi nhận
dưới dạng chi phỉ ở các tài khoản chi phí trong công tác hạch toán, chẳng hạn
nguyên vật liệu trực tiếp, máy móc thiết bị, dịch vụ mua ngoài… Để thực hiện việc
nhận dạng và phân loại những hoạt động của doanh nghiệp cần tiến hành tập hợp số
liệu sổ sách, chứng từ và sử dụng các bảng câu hỏi, quan sát, phỏng vấn các nhà
quản lý cũng như các nhà kỹ thuật, công nhân viên trong các dây chuyền công nghệ.
Sau khi đã phân tích và xác định được các hoạt động và các nguồn lực sử dụng ta
qua bước thứ hai đó là phân bổ chi phí nguồn lực cho các hoạt động.
1.2.2. Phân bổ chi phí nguồn lực cho các hoạt động
Quá trình thực hiện các hoạt động làm tiêu hao các nguồn lực. Các yếu tố
quyết định tiêu hao nguồn lực sẽ là căn cứ để phân bổ chi phí nguồn lực cho các
hoạt động. Một điều kiện quan trọng để lựa chọn một tiêu thức phân bổ phù hợp là


14

mối quan hệ nhân quả.
Chi phí nguồn lực có thể được phân bổ trực tiếp hoặc ước lượng. Phân bổ
trực tiếp đòi hỏi việc đo lường mức độ sử dụng thực tế các nguồn lực của các hoạt
động.
Trường hợp không thể đo lường được mức độ sử dụng thực tế các nguồn lực,
có thể cần phải ước đoán để tính ra các tỷ lệ. Việc ước đoán có thể được hợp tác
thực hiện bởi bộ phận quản lý, bộ phận tài chính và những nhân viên điều hành ca
liên quan trực tiếp đến trung tâm chi phí. Nhóm này có thể đưa ra được những ước
đoán về tỷ lệ chi phí phân bổ trong cả hai giai đoạn của phương pháp ABC. Mức độ
chính xác dựa vào sự kết hợp trong nhóm và những kiến thức của họ về trung tâm
chi phí.
Thông thường để mô tả mối quan hệ giữa chi phí và hoạt động người ta thiết
lập ma trận Chi phí – Hoạt động (EAD). Trong bước này, các hoạt động liên quan

đến từng loại chi phí được xác định để thiết lập ma trận EAD). Nhóm chi phí biểu
diễn theo cột, trong khi các hoạt động xác định được biểu diễn theo hàng. Nếu hoạt
động i có sử dụng loại chi phí j, đánh dấu vào ô ij. Sau đó, thay thế những dấu đã
đánh bằng hệ số tỷ lệ trong ma trận EAD. Tổng các cột của ma trận EAD phải bằng
1.
Có ba phương pháp được sử dụng trong việc tính toán những tỷ lệ này, có
mức độ chính xác theo thứ tự là: Ước đoán, đánh giá hệ thống và thu thập dữ liệu
thực tế. Các phương pháp này cũng có thể được sử dụng trong giai đoạn một là
phân bổ chi phí đến các hoạt động
- Ước đoán:
Trong trường hợp khi không thể có được những số liệu thực tế hoặc việc thu
thập số liệu khá tốn kém thì có thể ước đoán để tính ra các tỷ lệ. Việc ước đoán có
thể được hợp tác thực hiện với bộ phận quản lý, bộ phận tài chính và những nhân
viên điều hành có liên quan trực tiếp đến trung tâm chi phí. Nhóm người này có thể
đưa ra được những ước đoán về tỷ lệ phân bổ chi phí trong cả hai giai đoạn. Mức độ


15

chính xác dựa vào sự kết hợp của những người trong nhóm và những kiến thức của
họ về trung tâm chi phí.
- Đánh giá hệ thống:
Một phương pháp khoa học hơn để thu được những tỉ lệ này cho việc tính
toán chi phí là việc sử dụng kỹ thuật hệ thống như áp dụng quá trình phân tích thứ
bậc (AHP- Analytic Hierarchical Process) (Saaty, 1982; Golden,Wasil, và Harker,
1989). AHP là một công cụ thích hợp nhằm đưa những ý kiến cá nhân chủ quan
thành những thông tin thể hiện khách quan hơn về các tỉ lệ. Ví dụ, giả sử doanh
nghiệp cần phân bổ chi phí xăng dầu giữa ba hoạt động chạy máy, giao hàng và bảo
trì. Thông qua việc đặt câu hỏi cho những bộ phận tiêu thụ nguồn lực này và yêu
cầu họ đánh giá về tỉ lệ phần trăm chi phí xăng dầu trong một thời đoạn nhất định,

AHP có thể đưa ra được phần trăm của chi phí này và phân bổ chúng đến từng hoạt
động thích hợp.
AHP cũng có thể được sử dụng trong giai đoạn hai đó là phân bổ chi phí từ các
hoạt động đến từng sản phẩm. Trong bước này, điều quan trọng là phải xác định
được một tiêu thức phân bổ chi phí thích hợp để đạt được mức độ chính xác mong
muốn. Ví dụ, giả sử doanh nghiệp mong muốn ấn định chi phí bán hàng đến từng
sản phẩm. Một phương pháp đó là ước lượng mức độ hoạt động bán hàng cần thiết
đối với từng sản phẩm. Giả sử doanh nghiệp sản xuất 05 sản phẩm. Sản phẩm A là
sản phẩm đã có tiếng, những nỗ lực về hoạt động bán hàng là tương đối thấp, trong
khi sản phẩm B, C, và D đang trong giai đoạn giữa của dòng đời sản phẩm và sản
phẩm E, là một sản phẩm mới, tiêu tốn rất nhiều thời gian và nỗ lực hơn cho việc
bán hàng. Thay vì phân bổ đồng đều chi phí bán hàng cho từng sản phẩm, AHP có
thể đưa ra một ước lượng cho phép công ty tính chi phí đến từng sản phẩm một cách
chính xác hơn. Trong ví dụ cụ thể này, khu vực bán hàng và thời gian sử dụng để
thương thảo với khách hàng về từng sản phẩm có thể được xem là các tiêu thức liên
hệ. Sau đó, chi phí bán hàng được xếp hạng giữa các sản phẩm theo khoảng cách
cần thiết giao hàng. Việc xếp hạng tiếp theo giữa các sản phẩm được thiết lập theo tỉ
lệ thời gian cho từng khách hàng. Cuối cùng, những cách xếp hạng chủ quan về


16

hoạt động bán hàng được kết hợp lại để tính ra tỉ lệ phân bổ chi phí bán hàng giữa
05 loại sản phẩm.
Có thể sử dụng các phương pháp sau để đánh giá một cách hiệu quả:
 Quan sát và phỏng vấn:
Với phương pháp này bộ phận phân tích sẽ thực hiện thông qua việc đặt câu hỏi
đối với bộ phận thực hiện hoạt động cần phân tích, quan sát những hoạt động đó và
đánh giá mức độ hoạt động để đưa ra các tỷ lệ chính xác. Lưu ý rằng việc quan sát
quá nhiều sẽ làm cho việc thu thập bị hạn chế ở các cách thức thu thập khác do bị

tác động quá lớn về cách thức các công việc được thực hiện. Còn đối với những
người được phỏng vấn cần tập trung vào những người nắm các chức vụ quản lý hay
giám sát trong doanh nghiệp bởi bản thân những người này đã hiểu rõ những hoạt
động của những người trực tiếp thực hiện hoạt động. Mục đích của phỏng vấn là
xác định được đâu là hoạt động cơ bản và trọng yếu trong tổ chức. Thông thường,
phạm vi xem xét là những hoạt động chiếm từ 5% trở lên trong tổng thời gian hoạt
động của một cá nhân. Trong quá trình phỏng vấn chủ yếu nên sử dụng các câu hỏi:
- Cơ cấu tổ chức nhân sự gồm những ai.
- Hoạt động chủ yếu của họ là gì?
- Khi điều kiện hoạt động thay đổi thời gian hoạt động của họ có thay đổi
không? Nếu có, điều kiện đó là gì?
- Tỷ lệ mỗi hoạt động chiếm bao nhiêu trong tổng quỹ thời gian hoạt động
của họ?...
 Mô hình hóa:
Mô hình hóa hoạt động là việc xây dựng một sự mô tả chính xác về các hoạt
động được thực hiện trong doanh nghiệp. Nó không chỉ là một cách thức tổ chức,
nắm bắt và thu thập thông tin về hệ thống mà còn cung cấp một hình ảnh về hệ
thống và tạo điều kiện cho việc sửa chữa hệ thống thông qua việc trao đổi với
những người sử dụng. Khi đó chúng ta có thể nhìn thấy mối quan hệ giữa các hoạt
động tạo nên quá trình ở bất kỳ một mức độ chi tiết nào mong muốn. Theo đó có thể
biểu diễn các hoạt động dưới dạng văn bản, hình ảnh… Ví dụ đưa ra mô hình kiểm


17

tra chất lượng sản phẩm, hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm sẽ được phân nhỏ
thành các hoạt động chi tiết: kiểm tra bao bì, kiểm tra chất lượng bên trong sản
phẩm (thông qua chọn mẫu), kiểm tra số lượng sản phẩm sản xuất… Mỗi hoạt động
này lại được xem xét theo các tiêu thức: thời gian kiểm tra, số lượng nhân viên kiểm
tra, các dụng cụ thiết bị nào được huy động tham gia hoạt động này. Sau khi đưa ra

các nhân tố đó, cần tính toán các tỷ lệ về thời gian mỗi hoạt động, chi phí đã bỏ ra
đối với từng sản phẩm, loại sản phẩm. Việc đưa ra mô hình như vậy giúp doanh
nghiệp xem xét các hoạt động nào là chủ yếu, có ảnh hưởng tới việc tính giá thành
sản phẩm, từ đó đưa ra các quyết định phù hợp.
- Thu thập dữ liệu thực tế:
Đây là phương pháp chính xác nhưng tốn nhiều chi phí nhất để có thể đưa ra các
tỷ lệ cần thiết một cách chính xác. Phương pháp này đòi hỏi phải tổng hợp các chi
phí từ các hoạt động có liên quan để phân bổ cho từng đối tượng tính phí. Ta có thể
sử dụng công thức đơn giản sau để tính tổng chi phí tiêu dùng bởi một hoạt động:
Tổng chi phí tiêu dùng
bởi một hoạt động

Tỷ lệ thời gian thực hiện hoạt
=

động của một đơn vị (bộ phận)

Tổng chi phí
x phát sinh của đơn vị

trong doanh nghiệp
(bộ phận) đó
Qua đó, đưa ra danh sách các hoạt động cùng chi phí tương ứng với hoạt

động đó. Dựa trên các tiêu thức đã được xác định tiến hành phân bổ chi phí hoạt
động cho các đối tượng tính phí. Trong hầu hết các trường hợp người ta phải tổ
chức một bộ máy thu thập, ghi nhận dữ liệu thực tế và có thể đòi hỏi các thiết bị hỗ
trợ cho việc thu thập thông tin. Hơn nữa, việc thu thập dữ liệu phải đúng thời điểm
và điều tra viên phải có kinh nghiệm. Kết quả thường được phân tích bằng những
công cụ thống kê. Tiếp theo, tính toán giá trị bằng tiền của các hoạt động. Giá trị

bằng tiền của từng hoạt động, được tính theo công thức sau :


18

M
TCA (i) = ∑Chi phí (j) * EAD(i,j)
j=1
Với:
TCA (i) = Tổng chi phí của hoạt động i
M = Số loại chi phí
Chi phí (j) = Giá trị bằng tiền của nhóm chi phí j
EAD (i,j) = Hệ số tỉ lệ ở ô i, j của ma trận EAD
Bảng 1.1. Ma trận chi phí hoạt động (EAD)

Yếu tố CP

Các
Vật tư

Hoạt động

Lao động

Tài sản

dịch vụ

cố định


mua
ngoài

- Quản lý đơn mua hàng
- Bốc dở, nhận hàng
- Kiểm tra mua hàng
- Nghiên cứu quy trình sản xuất
- Chuẩn bị máy móc, vật liệu
- Hỗ trợ sản xuất
- Sản xuất (chạy máy)
- Kiểm tra thành phẩm nhập kho
- Bảo trì máy móc
- Vệ sinh phân xưởng

X
X
X

X
X
X
X
X
X

X
X
X
X
X


X
X
X

X
X

Chi phí
khác
bằng tiền

X

X

X

X

1.2.3. Chọn lựa nguồn sinh phí phát sinh:
Nguồn phát sinh chi phí (nguồn sinh phí) là những nhân tố có mối quan hệ
nhân quả trực tiếp với chi phí. Các chi phí trực tiếp có thể liên hệ trực tiếp đến một
sản phẩm mà không cần có nguồn sinh phí. Tất cả các chi phí khác cần liên kết giữa
phívà
1 sản phẩm. Nguồn
Chi phí
3 động có thể có
chi phí, hoạtChi
động

sinh2 phí là liên kết,Chi
mỗiphí
hoạt
một hoặc nhiều nguồn sinh phí liên quan, nhưng chỉ chọn một nguồn sinh phí để
Nguồn
Nguồn
phí động liên
Nguồn
phí tự, các đối
tính ra tiêu
thứcsinh
phânphí
bổ nguồn lực
cho sinh
các hoạt
quan.sinh
Tương
tượng tính giá cũng có thể có một hay nhiều nguồn sinh phí liên quan, nhưng ta
Hoạtnguồn
động sinh phí để làm
Hoạt
cũng chọn một
tiêuđộng
thức phân bổ. Hoạt động
Nguồn sinh phí

Sản phẩm 1

Nguồn sinh phí


Nguồn sinh phí

Sản phẩm 2


19

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ minh họa phân bổ nguồn sinh phí cho hoạt động
và sản phẩm
Có thể ví dụ một số hoạt động và những nguồn sinh phí liên quan như sau:

- Giai đoạn 1:
Yếu tố chi phí
Vận chuyển, bốc dở

Nguồn sinh phí
Khoảng cách (km)


20

Công tác phí

Khoảng cách (km)

Chi phí mua ngoài

Mức dùng nguồn lực

Chi phí ngoài giờ


Số giờ làm thêm giờ

Chi phí ngưng sản xuất

Số giờ ngưng hoạt động

Chi phí giám sát

Số giờ lao động trực tiếp

Chi phí kiểm tra chất lượng sản phẩm
- Giai đoạn 2:

Số lượng sản phẩm

Các hoạt động

Các nguyên nhân gây ra chi phí

Kiểm tra mua hàng

- Số lượng hóa đơn mua hàng Số lượng hóa đơn mua hàng
của từng sản phẩm
của từng sản phẩm

Chuẩn bị máy móc, vật
liệu

- Số lần vận hành máy


Tiêu thức phân bổ lựa chọn

Số lần vận hành máy

- Số giờ chạy máy
- Giờ công lao động trực tiếp

Theo dõi kế hoạch sản
xuất

- Số lần vận hành máy

Số giờ máy vận hành

- Số lần kiểm tra
- Giờ máy vận hành

Sản xuất (chạy máy)

- Giờ máy chạy

Giờ máy chạy

- Nguyên vật liệu trực tiếp
- Tiền lương lao động trực tiếp
- Giờ công lao động
Bảo trì máy móc

- Số ngày sản xuất sản phẩm


Số ngày sản xuất sản phẩm

Vệ sinh phân xưởng

- Số ngày sản xuất sản phẩm

Số ngày sản xuất sản phẩm

1.2.4. Xác định chi phí hoạt động cho từng sản phẩm:
Sau khi các chi phí đã được tập hợp cho các hoạt động, bây giờ các hoạt động
trở thành những điểm tích lũy chi phí. Và kế toán sẽ tiến hành phân bổ chi phí của
các hoạt động cho các đối tượng tính giá (các sản phẩm đang sử dụng các hoạt
động) thông qua việc thiết lập ma trận Hoạt động – Sản phẩm (APD), thể hiện mối
quan hệ giữa hoạt động và sản phẩm.


21

Ma trận APD được thiết kế như sau: Các hoạt động được biểu diễn theo cột,
còn các sản phẩm được biểu diễn theo hàng. Nếu sản phẩm I sử dụng hoạt động j, ta
đánh dấu vào ô ij. Sau đó, thay thế những dấu đã được đánh bằng tỷ lệ trong ma
trận APD. Tổng các ma trận APD phải bằng 1.
Cuối cùng, ta tính toán giá trị bằng tiền của các sản phẩm, theo công thức:
n
OCP (i) = ∑TCA (j) * APD(i,j)
j=1
Với:
OCP (i) = Chi phí chung của sản phẩm i
TCA (i) = Giá trị bằng tiền của hoạt động i

n = Số hoạt động
APD (i,j) = Tỉ lệ ở ô i, j của ma trận APD

Sản phẩm

X

X

X

X
Sản phẩm

X

X

X

Y
Sản phẩm

X

X

X

X


Vệ sinh phân xưởng

Bảo trì máy móc

Kiểm tra thành phẩm sản xuất

Hỗ trợ sản xuất

Sản xuất (chạy máy)

Theo dõi kế hoạch sản xuất

Chuẩn bị máy móc, vật liệu

phẩm

Kiểm tra mua hàng

Sản

Bốc dở nhận hàng

động

Quản lý đơn mua hàng

Hoạt

Nghiên cứu quy trình sản xuất


Bảng 1.2. Ma trận hoạt động – Sản phẩm (APD)

X
X

X

X

X

Z
1.2.5. Tính giá thành sản phẩm:
Trên cơ sở phân bổ chi phí sản xuất chung tập hợp theo các hoạt động cho các
sản phẩm và cùng với việc tính toán, hạch toán các chi phí trực tiếp cho các sản


22

phẩm, giá thành sản phẩm được tính như sau:
Giá thành sản phẩm i

=

Chi phí trực tiếp
của sản phẩm i

+


Chi phí sản xuất chung
phân bổ cho sản phẩm i

1.3. Kinh nghiệm vận dụng phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt
động ở các nước. Sự vận dụng ở Việt Nam nói chung và doanh nghiệp sợi nói
riêng.
1.3.1. Kinh nghiệm vận dụng phương pháp ABC ở các nước
Với phương pháp ABC, chi phí sẽ được theo dõi một cách cụ thể cho từng
hoạt động gắn với từng loại sản phẩm, vì thế thông tin chi phí cung cấp bởi hệ thống
ABC có mức độ chính xác cao hơn, giúp cho việc ra các quyết định liên quan đến
từng nhóm sản phẩm, từng loại sản phẩm,…
Hiện nay, phương pháp ABC được áp dụng rất phổ biến trên thế giới đặc biệt
là Mỹ, Anh , Australia…
- Mô hình ABC tại Công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ:
Elgin Sweeper là một công ty hàng đầu về công nghệ trong việc phát triển
các sản phẩm làm sạch đường phố, nước và không khí. Xe quét đường là sản phẩm
nổi tiếng nhất mà công ty sản xuất và cung cấp.
Phương pháp ABC được Công ty áp dụng từ rất lâu, vào những năm của thập
kỷ 80. Mô hình ABC được áp dụng ở Công ty như sau:
- Đầu tiên, Elgin nghiên cứu, tìm ra những hoạt động tạo phí, lập danh sách
các đơn vị tính phí có thể cho mỗi hoạt động. Tại Công ty này, các đơn vị tính phí
bao gồm: giờ lao động, tiền công lao động, số lượng hàng gửi đi, số đơn đặt hàng…
Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán.
- Tiếp theo, thiết lập các báo cáo về dây chuyền sản xuất mà ở đó cho phép
đánh giá hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực.
- Cuối cùng, các giám đốc sản xuất sẽ tham gia vào việc nhận dạng kích tố
chi phí và xóa bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị gia tăng.
- Mô hình ABC tại Công ty Mason & Cox ở Australia:



23

Mason & Cox là tập đoàn sản xuất sản phẩm đúc lớn nhất ở Australia, sản
xuất sản phẩm chủ yếu là các sản phẩm đúc kim loại cho các ngành công nghiệp
như khai khoáng, sản xuất xi măng. Công ty có hai dòng sản phẩm chính là sản
phẩm sản xuất hàng loạt và sản xuất theo yêu cầu của khách hàng.
Khái quát quá trình sản xuất ở Mason & Cox:
Bước 1. Thiết kế mẫu sản phẩm.
Bước 2. Làm các khuôn đúc dựa theo mẫu.
Bước 3. Nấu chảy kim loại và đổ vào khuôn đúc.
Bước 4. Lấy sản phẩm đúc ra khỏi khuôn và chuyển đến bộ phận hoàn thiện
sản phẩm.
Bước 5. Tại bộ phận hoàn thiện sản phẩm, sản phẩm đúc được làm nhẵn bằng
máy chuyên dụng.
Mô hình phương pháp ABC được áp dụng tại Công ty cụ thể như sau:
- Bước 1: Đo lường chi phí cho các hoạt động tức là phân bổ chi phí các
nguồn lực đến các hoạt động.
Chi phí phát sinh sẽ được phân bổ đến các trung tâm hoạt động sau đó sẽ
được phân bổ tiếp đến các hoạt động.
Có bốn dạng hoạt động chính là:
+ Hoạt động ở mức độ lô (batch level activities)
+ Hoạt động ở mức độ đơn vị sản phẩm unit level activities)
+ Hoạt động ở mức độ dòng sản phẩm (product level activities)
+ Hoạt động ở mức độ duy trì doanh nghiệp facylity level activities)
Phân bổ chi phí đến các trung tâm hoạt động. Công ty được chia thành các
trung tâm hoạt động, mỗi trung tâm hoạt động có cùng mục đích.
Tại Công ty Mason & Cos được chia thành 9 trung tâm hoạt động, gồm: điều
hành doanh nghiệp (Corporate Management), quản lý (Administration), bán hàng,
quản lý phân xưởng (Factory management), nấu chảy kim loại, làm khuôn đúc,
hoàn thiện sản phẩm, thiết kế mẫu sản phẩm, bảo dưỡng sản phẩm.



24

Tiếp đó, phân bổ chi phí đến mỗi trung tâm hoạt động theo một tiêu thức
nguồn lực. Những chi phí có cùng nguồn gốc và do cùng một nhân tố biến đổi chi
phí được tập hợp lại thành một mục chi phí để đơn giản hóa cho việc phân bổ.
Bước 2: Phân bổ chi phí hoạt động đến các sản phẩm
Việc này bao gồm tính chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị tiêu thức hoạt động
và sau đó xây dựng một bản giải trình hoạt động cho mỗi sản phẩm.
- Tính chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị tiêu thức hoạt động khi xác định các
hoạt động ở bước trước, họ đã xác định được các tiêu thức phân bổ cho mỗi hoạt
động.....
Xác định lượng tiêu thức phân bổ từ đó tính chi phí hoạt động cho mỗi một
đơn vị tiêu thức phân bổ.
Đối với một số hoạt động như "thiết kế mẫu sản phẩm, kiểm tra mẫu sản
phẩm" liên quan trực tiếp đến từng sản phẩm cụ thể có thể được tập hợp ngay vào
những sản phẩm đó.
Để lựa chọn các tiêu thức hoạt động họ đã xem xét mức độ quan hệ giữa chi
phí của một hoạt động và tiêu thức hoạt động; chi phí của việc thu thập và xử lý
thông tin về tiêu thức hoạt động đó. Tất cả các hoạt động "điều hành doanh nghiệp"
là hoạt động ở mức độ duy trì doanh nghiệp và không xác định được tiêu thức phân
bổ. Hoạt động "quản lý phân xưởng" cũng là hoạt động ở mức độ duy trì doanh
nghiệp, nhưng ở Mason & Cox quyết định phân bổ chi phí của hoạt động này đến
sản phẩm vì họ muốn tính giá thành sản phẩm bao gồm chi phí tất cả các hoạt động
sản xuất, tiêu thức phân bổ là giờ công lao động
- Chuẩn bị một giải trình các hoạt động cho mỗi sản phẩm (bill of activities for
each product).
Giải trình gồm việc xác định các hoạt động liên quan đến sản phẩm, chi phí
hoạt động trên mỗi đơn vị tiêu thức hoạt động, số lượng tiêu thức hoạt động, tổng

chi phí hoạt động cho mỗi sản phẩm.


25

- Mô hình ABC với mục đích quản lý hoạt động hay còn gọi là mô hình quản lý
dựa theo hoạt động( Activity based management - ABM)
Công ty đã thấy rằng hệ thống kế toán hiện hành không chỉ làm sai lệch giá
thành sản phẩm mà còn làm cho các nhà quản lý đưa ra các quyết định sai lầm.
Chính điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty.
Mason & Cox đã sử dụng ABM để cắt giảm chi phí: bao gồm 4 bước:
Bước 1: xác định các cơ hội chủ yếu để giảm chi phí;
Bước 2: xác định nguyên nhân chính phát sinh những chi phí đó;
Bước 3: đưa ra các biện pháp để giảm các nguyên nhân đó, từ đó làm giảm chi
phí;
Bước 4: đưa ra các thước đo sự thực hiện để giám sát sự hiệu quả của việc cắt
giảm chi phí.
Bước 1: Xác định các cơ hội chủ yếu để giảm chi phí
Để xác định các cơ hội cắt giảm chi phí, họ phân loại các hoạt động thành hoạt
động làm tăng giá trị sản phẩm và hoạt động không làm gia tăng giá trị sản phẩm.
Hoạt động làm gia tăng giá trị là các hoạt động tạo ra các giá trị chủ yếu cho khách
hàng hoặc các hoạt động chức năng của doanh nghiệp. Hoạt động gia tăng giá trị
gồm:
- Hoạt động sản xuất cơ bản: được phân bổ đến sản phẩm cuối cùng như làm
khuôn, đổ kim loại nóng chảy...
- Hoạt động quản lý cần thiết như: quản lý doanh nghiệp, chuẩn bị báo cáo
hàng năm..
Hoạt động không làm gia tăng giá trị là các hoạt động không tạo thêm giá trị
cho sản phẩm và dịch vụ. Vì vậy ta phải tìm cách cắt giảm các hoạt động đó. Trong
các doanh nghiệp thì hoạt động không làm gia tăng giá trị thường là hoạt động chờ

đợi, kiểm tra, làm lại và các sự vận chuyển và bảo quản các hàng tồn kho không cần
thiết. Tại Mason & Cox, các hoạt động không tạo thêm giá trị chiếm đến 18% tổng
chi phí.


×