Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Bài giảng lịch sử việt nam (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446 KB, 52 trang )

ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
CHƯƠNG 1 NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 02/9/1945 ĐẾN
TRƯỚC NGÀY 19/12/1946
A. Mục tiêu
1. Về kiến thức
Giúp Sinh viên nắm rõ những diễn biến cơ bản của Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1946:
Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rơi vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc": đất nước đang đứng trước sự đe
dọa của nạn đói, nạn dốt, tệ nạn xã hội tràn lan, ngân sách cạn kiệt và thêm vào đó là 20 vạn quân Tưởng cùng bọn tay sai kéo vào miền Bắc, uy hiếp
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào miền Nam giúp cho Pháp trở lại xâm lược nước ta.
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cách nào để đưa đất nước vượt qua được tình thế vô cùng khó khăn này?
2. Về tư tưởng
Bồi dưỡng cho sinh viên chuyên ngành lịch sử lòng yêu nước gắn với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ của
cách mạng... giúp sinh viên có lập trường, tư tưởng vững vàng, phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử sau này.
3. Về kĩ năng
Rèn luyện cho sinh viên kĩ năng phân tích, nhận định, đánh giá tình hình đất nước sau khi vừa mới giành được độc lập, kĩ năng sử dụng các
tranh, ảnh, phim tư liệu, lược đồ chiến tranh, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ cho việc giảng dạy.
Rèn luyện cho sinh viên khả năng tự học, tự nghiên cứu, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận các vấn đề lịch sử.
B. Nội dung cơ bản
1.1. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám - 1945
1.1.1. Những thuận lợi
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống chủ nghĩa xã hội đang hình thành
[1]
, phong trào cách
mạng thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc
[2]
đã cổ vũ
nhân dân ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ thành quả của cách mạng tháng Tám.
Dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập, tự do và bước đầu được hưởng những quyền lợi do
chính quyền cách mạng đem lại, nên họ vô cùng phấn khởi và sẵn sàng đứng lên để bảo vệ những
quyền lợi ấy. Đây chính là nguồn sức mạnh vô tận giúp cho chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
Hòa non trẻ vượt qua những khó khăn thử thách của giai đoạn lịch sử này.


Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo giờ đây đã vững vàng và dày dặn kinh
nghiệm sau 15 năm thử thách, tôi luyện. Đặc biệt là Đảng và Nhà nước ta có uy tín đối với nhân dân,
được nhân dân ủng hộ tuyệt đối. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi và là chỗ dựa vững chắc của Đảng
và Chính phủ trong quá trình đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
1.1.2. Những khó khăn
1.1.2.1. Về đối nội
Ngay sau khi giành được độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn:
Tình hình kinh tế: nạn đói đe dọa
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
1
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn chưa khắc phục nỗi. Đê vỡ do lũ lụt hồi tháng 8/1945 làm 1/3
diện tích cày cấy không canh tác được vẫn chưa khôi phục xong, tiếp đến là hạn hán làm cho 50%
diện tích đất đai ở Bắc bộ không thể cày cấy.
Công thương nghiệp đình đốn làm cho hàng vạn công nhân thất nghiệp, hàng hóa khan hiếm
dẫn đến giá cả sinh hoạt đắt đỏ, đời sống của nhân dân lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
Tình hình kinh tế trên đã đặt đất nước trước nguy cơ tiếp tục xảy ra nạn đói mới trong năm
1946.
Tình hình tài chánh: Ngân sách quốc gia trống rỗng
Sau khi giành được độc lập, ngân sách quốc gia chỉ còn 1.230.000 đồng, trong đó có đến một
nửa là tiền rách không dùng được. Trong khi đó Ngân hàng Đông Dương vẫn còn do quân đội Nhật
kiểm soát.
Quân Tưởng buộc ta phải để chúng đưa vào lưu hành đồng “Quốc tệ”, “Quan kim” đã bị mất
giá, làm rối loạn nền tài chính nước ta.
Tình hình xã hội: nạn dốt và tệ nạn xã hội phổ biến
Sau hơn 80 năm thống trị - “khai hóa” nước ta, thực dân Pháp đã để lại cho xã hội Việt Nam
một di sản văn hóa lạc hậu với hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan,
rượu chè, cờ bạc...tràn lan.
Tình hình chính trị, quân sự:

Tuy đã được tôi luyện trong 15 năm, kinh nghiệm có được chủ yếu là trong việc lãnh đạo nhân
dân đấu tranh cách mạng, nhưng kinh nghiệm quản lí nhà nước của Đảng ta chưa nhiều, nên chính
quyền cách mạng từ trung ương đến địa phương vẫn còn rất non trẻ. Ở một số nơi, chính quyền còn
do địch kiểm soát. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn chưa được các nước công nhận về ngoại
giao.
Quân đội chính quy còn đang trong quá trình xây dựng, chưa được huấn luyện qua các trường
lớp chính quy, vũ khí và phương tiện chiến tranh thiếu thốn, thô sơ.
1.1.2.2. Về đối ngoại
Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra)
Hơn 20 vạn quân Tưởng và các đảng phái tay sai của chúng như: Việt Nam Quốc dân Đảng
(Việt Quốc) do Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt Nam cách mạng đồng chí hội
(Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần cầm đầu tràn vào nước ta dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
2
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
giáp quân đội Nhật. Quân Tưởng và tay sai của chúng vào nước ta với mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng
Sản Đông Dương, lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh, lập nên chính quyền tay sai của chúng.
Dựa vào quân Tưởng, các đảng phái này đã ra sức chống phá cách mạng, lập nên chính quyền
phản động ở Yên Bái, Móng Cái, Vĩnh Yên.
Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào)
Hơn 1 vạn quân Anh theo sự thỏa thuận của lực lượng Đồng Minh cũng đã tiến vào nước ta
dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Ngay khi tiến vào nước ta, quân Anh đã tái vũ trang cho
quân đội Pháp, dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Nhân cơ hội đó, các phần tử phản động thân Pháp như Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Tâm…
đã ra sức tìm cách chống phá cách mạng, một số đảng phái chính trị phản động mới được thành lập
như Đảng Nam Kì do Nguyễn Tấn Cường – một tên mật thám Pháp cũ đứng đầu, Đảng Đông Dương
tự trị do Nguyễn Văn Tỵ đứng đầu…., thêm vào đó là một số lực lượng phản động trong các giáo
phái như Cao Đài, Hòa Hảo...hoạt động trở lại và chống phá cách mạng.
Ngoài quân Anh, Tưởng và Pháp ra, trên khắp nước ta còn có 6 vạn quân Nhật.
Những khó khăn về đối nội và đối ngoại trên là một thách thức quá lớn đối với Chính phủ Việt

Nam Dân Chủ Cộng Hòa đang còn non trẻ lúc bấy giờ. Việt Nam lúc này đang đứng trước tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”.
[1]
Trong giai đoạn 1944 – 1945, Hồng quân Liên Xô truy kích quân phát xít Đức qua vùng Đông Âu, lực lượng cách mạng ở các nước này đã
nổi dậy phối hợp với Hồng quân đánh phát xít và thành lập nên các chính quyền mới – chính quyền dân chủ nhân dân: 1944: Cộng hòa Nhân dân Ba
Lan, Cộng hòa Nhân dân Rumani ra đời; 1945: Cộng hòa Nhân dân Hung-ga-ry, Cộng hòa Nhân dân An-ba-ni, Cộng hòa Nhân dân Bun-ga-ry, Cộng
Hòa Tiệp Khắc, Cộng hòa Liên bang Nam Tư; 7/10/1949, Cộng hòa Dân chủ Đức thành lập.
Chính quyền dân chủ nhân dân mới được thành lập ở Đông Âu đều là chính quyền liên hiệp của nhiều giai cấp và đảng phái khác nhau. Trong
đó, giai cấp tư sản vẫn còn rất mạnh và chúng luôn tìm cách để giành lấy chính quyền, đưa các nước Đông Âu trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.
Trước tính hình đó, lực lượng Hồng quân Liên Xô đang đóng quân ở các nước Đông Âu đã hỗ trợ giai cấp vô sản loại bỏ giai cấp tư sản ra khỏi
bộ máy chính quyền, thực hiện chuyên chính vô sản và tiến hành những cải cách dân chủ.
Đến năm 1949, các nước Đông Âu đã hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu chuyển sang xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước (1917) đã lan rộng khắp Đông Âu, mở rộng đến Trung Quốc (01/10/1949), trở thành một hệ
thống thế giới.
[2]
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân các nước Lào, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Philippin, Maylaixia, … đứng lên đấu tranh chống
thực dân Anh, Pháp, Mĩ, Hà Lan… để giành độc lập. Lực lượng cách mạng Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã giải phóng được một phần lục
địa phía bắc với gần 100 triệu dân (trong tổng số 450 triệu dân), nhưng cuộc nội chiến giữa lực lượng cách mạng với lực lượng phản cách mạng do
Tưởng Giới Thạch cầm đầu bắt đầu diễn ra quyết liệt.
[Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình Lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, Trang 10]
1.2. Bước đầu xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng
1.2.1. Về chính trị - quân sự
Trước tình huống hiểm nghèo của đất nước sau khi mới giành được động lập, ngày 3/9/1945,
Hội đồng Chính phủ đã họp và đề ra 6 việc cấp bách cần làm ngay:
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
3
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
- Một là, phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; đồng thời tổ chức
phong trào lạc quyên.
- Hai là, mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ.

- Ba là, tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự
do dân chủ của nhân dân.
- Bốn là, mở một phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm chính để bài trừ thói hư, tật xấu do chế
độ thực dân để lại.
- Năm là, xóa bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
- Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết
[1]
.
Ngày 08/9/1945, Chính phủ lâm thời đã công bố sắc lệnh số 14 về tổng tuyển cử bầu Quốc Hội
trong cả nước. Sắc lệnh ghi rõ: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có
quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước công quyền và những người trí óc không bình
thường”
[2]
Chính phủ Lâm thời: Tức Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập theo quyết định của
Quốc dân Đại hội Tân Trào họp trong 2 ngày 16, 17/8/1945.
Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ghi rõ: "Để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc giải phóng
của chúng ta cho thắng lợi, Quốc dân Đại hội quyết định thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt
Nam. Uỷ ban này cũng như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam trước khi thành lập một Chính
phủ chính thức. Uỷ ban này thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công
việc trong nước".
Về tổ chức, Uỷ ban Giải phóng dân tộc gồm 15 người, có một Uỷ ban thường trực, với 5
thành viên: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền,
do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 26/8/1945, tại phiên họp đầu tiên của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần Chính phủ và sớm công bố danh
sách Chính phủ cho toàn dân biết. Nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đảng phái yêu
nước, nhân sĩ tiến bộ, một số thành viên của Việt Minh đã tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường
cho các thành phần khác. Hành động cao cả đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá “là một cử
chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết lên trên lợi ích cá
nhân”. (Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng,02/1951).

Ngày 27/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị Bộ trưởng trong Chính phủ Lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và ra lời Tuyên cáo, trong đó nêu rõ: “…Tuân theo Chỉ thị của Hồ Chí Minh, Uỷ
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
4
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
ban Giải phóng dân tộc đã quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ, đặng
cùng nhau gánh vác nặng nề mà quốc dân giao phó cho…Nó thật là một Chính phủ, thống nhất quốc
gia giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính
phủ Dân chủ Cộng hoà chính thức”.
[3]
Để nhanh chóng ổn định tình hình ở miền Bắc, đối phó với quân Pháp ở miền Nam, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời có sự tham
gia của một số phần tử trong Việt Quốc và Việt Cách, với điều kiện: Chính phủ này phải tổ chức tốt
cuộc Tổng tuyển cử, thống nhất các lực lượng vũ trang và sẽ từ chức khi triệu tập Quốc dân đại hội.
Ngày 01/01/1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã làm lễ ra mắt tại
Nhà hát thành phố.
Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri cả nước tham gia bỏ phiếu bầu cử Quốc hội và đã bầu ra 333
đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp ba miền Bắc – Trung – Nam tham gia vào cơ quan
quyền lực cao nhất của nhà nước.
Tại miền Nam (do không kịp hoãn, nên vẫn bầu cử vào ngày 25/12/1945) trừ Tây Ninh không
tổ chức được bầu cử do chiến sự ác liệt, nhân dân ta phải vượt qua bom đạn địch để đi bỏ phiếu. Tại
miền Bắc, ở những nơi có quân Tưởng chiếm đóng, các đảng phái phản động đe dọa, khủng bố
những người đi bỏ phiếu, có nơi chúng xông vào cướp hòm phiếu. Nhưng bất chấp sự đe dọa và hành
động phá hoại của địch, nhân dân ta vẫn hăng hái đi làm nghĩa vụ công dân
[4]
.
Ngày 02/03/1946, Quốc hội khoá 1 họp phiên đầu tiên tại nhà hát lớn Hà Nội. Quốc Hội đã tán
thành đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc mở rộng thêm 70 đại biểu không thông qua bầu cử
cho lực lượng Việt Quốc, Việt Cách theo thỏa thuận trước đó để thực hiện chủ trương nhân nhượng
Tưởng và tay sai của chúng.

Ngày 01/01/1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã làm
lễ ra mắt tại Nhà hát thành phố, trước 30 nghìn nhân dân Hà Nội.
Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố danh sách Chính phủ mới, và đường
lối đối nội, đối ngoại của Chính phủ. Người cùng các thành viên Chính phủ tuyên thệ:
1. Chúng tôi kiên quyết lãnh đạo quốc dân;
2. Giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc;
3. Thực hiện quyền dân chủ cho nước Việt Nam đặng mang lại tự do chính thức cho dân tộc;
4. Trong lúc giữ nền độc lập, quyết vượt hết mọi nỗi khó khăn nguy hiểm, dù phải hy sinh tính
mệnh cũng không từ.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
5
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân ủng hộ để Chính phủ có thể đi đến thành
công. Chính phủ liên hiệp lâm thời tồn tại từ ngày 01/01 đến ngày 02/3/1946. Trong thời gian đó,
dưới sự lãnh đạo khéo léo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã dàn xếp ổn thoả với quân đội
Tưởng Giới Thạch; lãnh đạo và chi viện tích cực cho cuộc kháng chiến ở miền Nam; tổ chức thắng
lợi cuộc Tổng tuyển cử; phát hành giấy bạc Việt Nam, động viên toàn dân tham gia sản xuất, đẩy lùi
nạn đói.
[5]
Quốc Hội quyết định thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch,
Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Chính phủ liên hiệp kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch đã đưa đất nước vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức. Từ ngày 28/10 đến ngày 9/11/1946, kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá I đã
thảo luận và thông qua những chủ trương cấp bách để chuẩn bị kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh
trình Quốc hội danh sách Chính phủ mới gồm 14 thành viên do Hồ Chí Minh làm chủ tịch kiêm Bộ
trưởng Bộ ngoại giao thay cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Quốc hội triệt để tín nhiệm Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Chính phủ mới do Hồ Chủ tịch thành lập.
Các đại biểu thuộc các tổ chức chính trị đi ngược lại quyền lợi của dân tộc hoàn toàn bị gạt ra
khỏi Chính phủ. Quốc hội đã bầu Cụ Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội; thảo
luận và thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 9/11/1946, Chủ

tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố bản Hiến pháp này.
Hiến pháp 1946 - đạo luật cơ bản của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quy định Chính thể
(chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (chương II), Nghị viện (chương III), Chính phủ (chương
IV), Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (chương V), Cơ quan tư pháp (chương VI), Sửa đổi
Hiến pháp (chương VII).
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là bản Hiến pháp dân chủ, phản ánh
rõ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và
quyết tâm bảo vệ đất nước của toàn dân, xây dựng một thể chế dân chủ cộng hoà, một chế độ bảo
đảm quyền dân chủ tự do của mọi công dân không phân biệt nam, nữ, đặc biệt ưu đãi đối với đồng
bào các dân tộc thiểu số. Công dân Việt Nam được quyền trực tiếp bầu ra Nghị viện - cơ quan có
quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đại diện cho quyền làm chủ đất nước của
toàn dân và chịu trách nhiệm trước quốc dân với vận mệnh lịch sử của dân tộc, của mọi người dân
trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc.
Đánh giá về bản Hiến pháp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là bản Hiến pháp đầu tiên
trong lịch sử nước nhà”. “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập..., dân tộc
Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam được đứng ngang hàng với đàn ông để được
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
6
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt
chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”.
[6]
Sau ngày bầu cử Quốc hội, cử tri ở Bắc bộ và Trung bộ cũng đã tiến hành bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp và thành lập Ủy ban hành chính các cấp thay cho ủy ban nhân dân lâm thời.
Việt Nam giải phóng quân được củng cố và phát triển sau đó đổi tên thành vệ quốc đoàn
(9/1945) và đến tháng 5/1946 đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam.
Ý nghĩa: Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng và Chính phủ cách mạng trước
những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai. Đồng thời là những điều kiện để Đảng và Nhà

nước vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
1.2.2. Về kinh tế - tài chính
1.2.2.1. Giải quyết nạn đói
Trước tình hình xã hội hết sức phức tạp, ngay trong phiên họp đầu tiên vào ngày 03/9/1945,
Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời đã bàn về các biện pháp chống đói:
Biện pháp trước mắt:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập “hũ gạo tiết kiệm”, không dùng gạo, ngô nấu
rượu để đem cứu dân nghèo, tổ chức “ngày đồng tâm”, thực hiện “nhường cơm sẽ áo”, ra lệnh
nghiêm trị tình trạng đầu cơ thóc gạo…
Người nói: “Lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động
lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước, cứ mỗi ngày nhịn ăn một bữa,
đem gạo đó (mỗi bữa mỗi bơ) để cứu dân nghèo”
[7]
Những biện pháp trên đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng nhân dân khắp nơi,
giúp cho người nghèo có ăn để tăng gia sản xuất.
Biện pháp lâu dài:
Về lâu dài, để đưa đất nước thoát khỏi nạn đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào
thi đua tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: “không một tất đất bỏ hoang”, “tấc đất tấc vàng”.... Bác đã
kêu gọi nhân dân “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu
hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực để chúng ta giữ vững quyền tự do và độc lập”
[8]
Củng cố đê điều, chia ruộng cho dân cày nghèo, giảm tô 25%, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế
vô lý khác.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
7
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Chính phủ cách mạng ra sắc lệnh số 11 ngày 7/9/1945 bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí
khác của chế độ cũ, ra Thông tư giảm tô 25%, miễn thuế ruộng đất đối với các vùng bị lụt và vùng có
chiến sự ở Nam bộ, Trung Nam bộ cùng các loại ruộng đất hoang hóa vừa mới được khai phá, gieo
trồng; giảm thuế ruộng 20% trong toàn quốc cho nông dân; tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian

chia cho dân cày nghèo; chia lại ruộng đất cho cả nam lẫn nữ…
[9]
Kết quả: Đến cuối năm 1946, nền nông nghiệp được phục hồi, sản lượng lương thực tăng lên
đáng kể và nạn đói được đẩy lùi.
Trong các lĩnh vực công thương nghiệp, giao thông vận tải… chính phủ cũng có những biện
pháp kịp thời để khôi phục và phát triển, góp phần ổn định đời sống và nhu cầu đi lại của nhân dân.
1.2.2.3. Giải quyết khó khăn về tài chính
Nguồn kinh phí hoạt động của chính phủ phần lớn phụ thuộc vào nguồn thu thuế của nhân dân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nhân dân lao động đang đói khổ, Chính phủ đang thực hiện vận động
những người giàu có giúp đỡ người nghèo vượt qua khó khăn trước mắt, chính phủ không thể thu
thuế của những người đang được trợ cấp lương thực và lại càng không thể thu thuế những người đang
ủng hộ Chính phủ giải quyết những khó khăn của đất nước.
Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ đã thành lập quỹ độc lập, phát động tuần lễ vàng... để
kêu gọi nhân dân tự nguyện đóng góp giúp Chính phủ.
Biện pháp này đã nhận được kết quả tích cực, nhân dân hăng hái đóng góp. Sau một thời gian
ngắn Chính phủ đã thu được 20 triệu bạc cho “quỹ độc lập”, 40 triệu đồng cho “quỹ đảm phụ quốc
phòng” và 370 kg vàng.
Ngày 31/01/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.
Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trên toàn quốc.
1.2.3. Về văn hoá - giáo dục
Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Hồ Chủ Tịch đã nêu rõ: “muốn giữ vững nền độc lập, làm
cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ”
[10]
.
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và
kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ.
Đến đầu tháng 3/1946, ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên,
các trường tiểu học, trung học phát triển mạnh, các trường đại học cũng đã khai giảng để đáp ứng nhu

cầu đào tạo nhân lực phục vụ phát triển đất nước.
[11]
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
8
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Trên mặt trận văn hóa – xã hội, Đảng và nhà nước ta đã tiếp tục cho xuất bản và xuất bản mới các
báo: Cứu quốc, Cờ giải phóng, Sự thật…; mở cuộc vận động Đời sống mới, hướng đến các giá trị
đạo đức mới “cần kiệm, liêm chính”, bài trừ các tệ nạn trong xã hội.
[1]
Dẫn theo: Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, trang 13.
[2]
Việt Nam quốc dân công báo, Số 1, ngày 29/9/1945.
[3]
Nguồn: />LS_CP_CACTHOIKY/1/PHAN1.CHUONG1.II.HTM/
[4]
Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, trang 13.
[5]
Nguồn: />LS_CP_CACTHOIKY/1/PHAN1.CHUONG1.II.HTM/
[6]
Theo: />LS_CP_CACTHOIKY/1/PHAN1.CHUONG1.IV.HTM
[7]
Dẫn theo: Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, trang 17.
[8]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, Trang 115.
[9]
Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, trang 18.
[10]
Dẫn theo: Trần Bá Đệ (Chủ biên), Giáo trình lịch sử Việt Nam (1945 - 1975), Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2007, trang 13.
[11]
Theo PGS,TS. Trần Bá Đệ, Sđd, trang 19: “Từ 08/9/1945 đến 08/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với 97.664 giáo viên và đã

xóa mù chữ cho 2.520.673 người”.
1.3. Đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng
1.3.1. Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam, hoà hoãn với Tưởng Giới Thạch ở
miền Bắc (trước 6/3/1946)
1.3.1.1. Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc, Pháp đã có kế hoạch tái chiếm Đông
Dương. Ngày 24/3/1945, Tổng thống Pháp – Đờgôn đã ra tuyên bố:
Đông Dương sẽ được thành lập theo kiểu liên bang gồm xứ khác nhau (Bắc Kì, Trung Kì, Nam
Kì, Cao Mên, Ai Lao). Liên bang Đông Dương sẽ cùng với nước Pháp xây dựng thành khối liên hiệp
Pháp mà quyền đối ngoại sẽ do Pháp đại diện.
Đông Dương sẽ có một chính phủ liên bang đứng đầu là một viên toàn quyền và gồm những bộ
trưởng chịu trách nhiệm trước viên toàn quyền đó. Chính phủ liên bang sẽ là người trọng tài gồm 5
xứ. Bên cạnh viên toàn quyền có một Hội đồng nhà nước trong đó người Đông Dương chiếm nhiều
nhất là 50% số ghế.
[1]
Được sự đồng tình ủng hộ của Anh và Mĩ, Pháp đã bắt đầu ngóc đầu trở lại ở Nam bộ. Mở đầu
là sự kiện ngày 02/9/1945, thực dân Pháp đã xã súng vào nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đang tham dự
mittinh mừng ngày độc lập, làm 47 người chết và nhiều người bị thương.
Ngày 6/9/1945, quân Anh đến Sài Gòn và yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang và thả hết quân
Pháp bị Nhật bắt giam trước đó; quân Pháp được tái trang bị vũ khí và tiến hành chiếm đóng nhiều
nơi quan trọng ở Sài Gòn.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
9
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công trụ sở Ủy Ban nhân dân Nam
Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trước tình thế đó, ngay sáng ngày 23/9/1945, Xứ ủy Nam bộ và Ủy ban nhân dân Nam bộ đã
họp và quyết định phát động nhân dân Nam bộ kháng chiến chống Pháp.
Bài ca Nam bộ kháng chiến
Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ do giáo sư Trần Văn Giàu soạn thảo vào ngày

23/9/1945:
Ðồng bào Nam bộ
Nhân dân thành phố Sài Gòn
Anh em công nhân, thanh niên, tự vệ, dân quân, binh sĩ!
Ðêm qua, thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung tâm Sài Gòn.
Như vậy là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Hôm nay, Ủy ban kháng chiến kêu gọi tất cả đồng bào, già, trẻ, trai, gái, hãy cầm
võ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược. Ai không có nhiệm vụ do Ủy ban kháng
chiến giao phó thì hãy lập tức rời khỏi thành phố, những người ở lại thì:
Không đưa đường, không báo tin cho Pháp
Không bán lương thực cho Pháp
Hãy tìm thực dân Pháp mà diệt
Hãy đốt sạch tất cả các sở, xe cộ, tàu bè, kho tàng, nhà máy Pháp
Sài Gòn bị Pháp chiếm phải trở thành một Sài Gòn không điện, nước, không chợ
búa, không cửa hàng
Hỡi đồng bào
Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc. Cuộc kháng
chiến bắt đầu.
[2]
23/9/1945
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam bộ
Trần Văn Giàu
Trước tinh thần kháng Pháp của nhân dân Nam bộ, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã
ra sức ủng hộ và phát động phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến để giam chân địch. Ngày
26/9/1945, qua Đài Tiếng nói Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã gửi thư cho đồng bào Nam bộ:
“Hỡi đồng bào Nam bộ!
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
10
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Nước ta vừa tranh quyền độc lập, thì đã gặp nạn ngoại xâm. Khi còn chiến tranh với Nhật, thì

bọn thực dân Pháp hoặc đầu hàng hoặc chạy trốn. Nay vừa hết chiến tranh thì bọn thực dân Pháp
hoặc bí mật hoặc công khai mò lại.
Trong 4 năm, họ bán nước ta hai lần. Nay họ lại muốn thống trị dân ta lần nữa.
Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam bộ.
Chúng ta nên nhớ lời nói oanh liệt của nhà đại cách mạng Pháp: “Thà chết tự do hơn sống nô lệ”...
Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân.
Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc tranh đấu của chúng ta là chính đáng...”.
[3]
Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ và bức thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào Nam
bộ đã cổ vũ đồng bào Nam bộ bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với niềm tin sắt đá. Chỉ trong
tuần lễ đầu đã có 138 xí nghiệp, công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 81 tàu lớn nhỏ, 200 xe hơi và một số
cầu bị đốt phá, gần 300 tên địch bị tiêu diệt.
Góp sức với các tỉnh Nam bộ, cả nước đã tập trung chi viện sức người, sức của, những đoàn
quân Nam tiến, những phong trào “tuần lễ ủng hộ Nam bộ kháng chiến...” đã góp phần làm cho cuộc
kháng chiến mang tầm vóc cả nước.
Ngày 5/10/1945, sau khi có viện binh thực dân Pháp đẩy mạnh đánh chiếm các tỉnh Nam bộ,
Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Tính đến tháng 12/1945, Pháp đã chiếm đóng hầu hết các tỉnh Nam
bộ và đến đầu tháng 2 năm 1946, nhiều tỉnh lị và đường giao thôn quan trọng ở Tây Nguyên và Nam
Trung bộ đã bị địch chiếm.
1.3.1.2. Hòa hoãn với quân Tưởng Giới Thạch
Để tránh trường hợp cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, đồng thời tranh thủ điều kiện
hòa bình để xây dựng và củng cố chính quyền, Đảng đã chủ trương hòa hoãn và tránh xung đột với
quân Tưởng Giới Thạch: Chấp nhận tăng thêm 70 ghế không qua bầu cử cho tay sai của Tưởng; Dành
4 ghế Bộ Trưởng cho Việt Quốc, Việt Cách. Nguyễn Hải Thần làm phó Chủ tịch nước; Chấp nhận
cung cấp một phần lương thực thực phẩm cho quân Tưởng; Đồng ý để Tưởng đưa đồng “Quan kim”,
“Quốc tệ” vào lưu hành ở miền Bắc.
Có thể nói, việc hòa hoãn với quân Tưởng là một giải pháp hết sức phù hợp đối với chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang còn non trẻ và phải đương đầu với thực dân Pháp ở miền Nam lúc
bấy giờ.
1.3.2. Hoà hoãn với Pháp để gạt Tưởng khỏi nước ta, chuẩn bị đánh Pháp về sau (từ

6/3/1946)
1.3.2.1. Hiệp ước Hoa – Pháp và âm mưu của Pháp
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
11
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Sau khi chiếm đóng Nam bộ và Nam Trung bộ, thực dân Pháp chuẩn bị mở rộng xâm lược ra
miền Bắc. Nhưng do lực lượng còn yếu (3,5 vạn), chúng không thể đương đầu nổi với nhân dân miền
Bắc và sự cản trở của 20 vạn quân Tưởng đây.
Để có thể đưa quân ra miền Bắc một cách “hòa bình”, Pháp đã thương lượng và ký với Tưởng
Hiệp ước Hoa – Pháp vào ngày 28/2/1946 với nội dung:
+ Pháp trả lại một số quyền lợi cho Tưởng ở Trung Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng
hoá qua cảng Hải Phòng miễn thuế.
+ Tưởng đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân
đội Nhật. Mặt khác, Pháp tìm cách điều đình với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Như vậy, sau 28/2/1946, ta đang đứng trước hai con đường: Hoặc chống lại thực dân Pháp ngay
sau khi chúng đưa quân ra miền Bắc; hoặc tạm thời hòa hoãn với Pháp để nhanh chóng đẩy 20 vạn
quân Tưởng ra khỏi đất nước ta, sau đó mới chống lại Pháp.
Chủ trương của chính phủ ta sau ngày 28/2/1946 là: chọn con đường hòa hoãn với Pháp
bằng cách kí hai hiệp định:
1.3.2.2. Kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
Ngày 6/3/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh (đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà) và Xanhtơny J. (J. Sainteny, đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp) đã kí bản Hiệp định sơ
bộ tại Hà Nội. Nội dung cơ bản của Hiệp định sơ bộ và một bản thoả thuận phụ kèm theo Hiệp định,
gồm các điều khoản là:
Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước tự do, có chính phủ, nghị viện, quân
đội, tài chính, ở trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp; Pháp cam kết sẽ thừa nhận
quyết định của cuộc trưng cầu ý dân về vấn đề thống nhất ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ).
Việt Nam thoả thuận cho 15 nghìn quân Pháp vào Bắc Việt Nam làm nhiệm vụ thay thế quân
đội Tưởng Giới Thạch và quân Pháp sẽ rút hết sau 5 năm; hai chính phủ có biện pháp để đình chỉ
ngay xung đột quân sự và giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí lúc kí kết; hai chính phủ mở ngay

những cuộc đàm phán ở Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari về quan hệ ngoại giao của Việt Nam, về các
quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam.
Hiệp định Sơ bộ thể hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà trước tình thế cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Việc ký Hiệp định sơ bộ là
một biện pháp đúng đắn, sáng tạo. Nhờ đó, chúng ta đã đẩy nhanh quân Tưởng về nước, loại trừ cho
cách mạng một kẻ thù nguy hiểm, phá tan âm mưu của các thế lực đế quốc câu kết với nhau, hòng
bán đứng Việt Nam cho Pháp, dành thêm thời gian hòa bình để xây dựng và củng cố lực lượng về
mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
12
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
1.3.2.3. Ký tạm ước 14/9/1946
Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định sơ bộ: gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách phá hoại
Hội nghị trù bị ở Đà Lạt giữa hai chính phủ để bàn về việc tổ chức Hội nghị chính thức.
Theo cam kết trong Hiệp định sơ bộ, ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh cử
đồng chí Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, thay mặt Chính phủ Việt Nam đàm phán với Chính phủ
Pháp. Cuộc đàm phán chính thức Việt - Pháp được tổ chức tại Phông-ten-nơ-blô. Tuy nhiên, do dã
tâm xâm lược của thực dân Pháp, cuộc đàm phán không đi đến kết quả.
Đồng thời lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đang ở thăm chính thức nước Pháp theo lời mời
của Chính phủ Pháp. Trước sự thất bại của Hội nghị Phông-ten-nơ-blô, ngày 14/9/1946, Hồ Chủ tịch
đã ký với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp M. Mutê bản Tạm ước Pháp - Việt.
Tạm ước gồm 11 điều khoản. Nội dung của các điều khoản thể hiện những thỏa thuận tạm thời
về một số vấn đề bức thiết có tính chất bộ phận, cụ thể là: Chính phủ Pháp thi hành các quyền tự do,
dân chủ và ngừng bắn ở Nam bộ; Chính phủ Việt Nam nhân nhượng với Pháp một số quyền lợi về
kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam; quy định thời gian tiếp tục cuộc đàm phán Việt – Pháp vào
tháng 1/1947.
Việc ký Tạm ước 14/9 là một thắng lợi trong sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để nhân dân ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài.
Tóm lại, sự nhân nhượng thực dân Pháp trong giai đoạn sau ngày 28/2/1946 đã đẩy được 20 vạn
quân Tưởng và tay sai ra khỏi miền Bắc, tạo ra được một giai đoạn hòa bình để củng cố và xây dựng

lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.
[1]
Dẫn theo: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954, tập 1, Nxb QĐND, HN, 1985, Trang 23.
[2]
Minh Anh (SGGP), Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Ủy ban MTTQ Tp. Hồ Chí Minh,
web/tintuc/default.aspx?cat_id=645&news_id=2380
[3]
Dẫn lại: Nguyễn Xuyến, Hào Khí Nam bộ kháng chiến, Báo Bình Dương, ngày 24/9/2006,
/> * Bài tập chương 1
1. Hoàn cảnh lịch sử của nước Việt Nam năm đầu sau cách mạng tháng Tám 1945.
2. Những thành tựu về xây dựng và củng cố nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ tháng 9/1945 đến tháng 12 năm 1946.
3. Ngay sau khi thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở vào tình thế khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”. Vì sao?
4. Những thuận lợi và khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng tám 1945?
5. Chủ trương và biện pháp của Đảng và Chính phủ ta nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt trong thời gian sau Cách mạng tháng Tám
(9/1945 – 12/1946).
6. Vì sao chính phủ ta kí với chính phủ Pháp hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946?
7. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ở Nam bộ vào cuối năm 1945 đã diễn ra như thế nào?
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
13
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
* Bài đọc thêm
1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Tổng tuyển cử thành lập chính phủ liên hiệp kháng
chiến,
I.HTM/
2. PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Tính chất chính nghĩa, chủ động sáng tạo của Nam bộ kháng chiến mãi mãi tỏa
sáng, /
3. Phạm Minh Khải, Bác Hồ với Nam bộ kháng chiến , /
4. Bình Thái, Những tượng đài của lòng ái quốc,

* Tài liệu tham khảo

1. Minh Anh (SGGP), Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Ủy ban MTTQ Tp. Hồ Chí Minh,
/>2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2007), Lịch sử 12 nâng cao, Nxb GD, Hà Nội.
3. Bộ quốc phòng (1974), Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội.
4. Trường Chinh (1947), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
5. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới , Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
CHƯƠNG 2 NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950)

A. Mục tiêu
1. Về kiến thức
Giúp Sinh viên nắm rõ những diễn biến cơ bản của Lịch sử Việt Nam từ 1946 đến 191950:
Trong năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ luôn kiên trì giải pháp hòa bình trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Thế
nhưng tại sao đến cuối năm 1946 (18/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến chống Pháp?
Trong bối cảnh lực lượng của ta chưa chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng, đất nước gặp khó khăn trên nhiều lĩnh vực, Đảng và Chính phủ đã có đường
lối kháng chiến như thế nào để đảm bảo khả năng chiến thắng thực dân Pháp?
Với lực lượng quân sự hơn hẳn ta cả về số lượng lẫn trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh, Pháp đã áp dụng chiến thuật đánh nhanh thắng
nhanh, gây cho ta nhiều khó khăn.
Đảng và Chính phủ phải bỏ thủ đô Hà Nội, rút về căn cứ địa Việt Bắc để bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Tại chiến khu Việt Băc,
Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã lần lượt đánh bại âm mưu tấn công lên Việt Bắc để tiêu diệt cơ quan đầu não của ta của Bô-léc và
Rơ-ve bằng chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947 và chiến dịch Biên giới 1950, đánh bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, giành lại thể chủ
động trên chiến trường chính Bắc bộ.
2. Về tư tưởng
Bồi dưỡng cho sinh viên chuyên ngành lịch sử lòng yêu nước gắn với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ của
cách mạng,... giúp sinh viên có lập trường, tư tưởng vững vàng, phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử sau này.
3. Về kĩ năng
Rèn luyện cho sinh viên kĩ năng phân tích, nhận định, đánh giá tình hình trên chiến trường chính Bắc Bộ từ khi phát động toàn quốc kháng
chiến đến năm 1950, rèn luyện kĩ năng sử dụng các tranh, ảnh, phim tư liệu, lược đồ chiến tranh, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ
cho việc giảng dạy.
Rèn luyện cho sinh viên khả năng tự học, tự nghiên cứu, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận các vấn đề lịch sử.

2.1. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ (19/12/1946) và đường lối
kháng chiến của ta
2.1.1. Kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ
Ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ xác định: Công
việc khẩn cấp là kháng chiến và kiến quốc. Người dự đoán cuộc kháng chiến sẽ gay go, gian khổ,
nhưng chúng ta kiên quyết chống chọi với các trận khủng bố của địch, thì ta sẽ thắng.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
14
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Tháng 11/1946, cả nước được chia thành 12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Uỷ ban
kháng chiến khu phụ trách hành chính, Khu trưởng phụ trách quân đội.
Ngày 30/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 230-SL bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Võ Nguyên Giáp giữ chức Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc.
Về phía thực dân Pháp, mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) với
ta, nhưng chúng vẫn đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích:
Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp bội ước nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đến đầu
tháng 12/1946, chúng đổ bộ hàng nghìn quân lên chiếm đóng Đà Nẵng, Lạng Sơn.
Trước tình hình đó, ngày 15/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thông điệp cho Thủ tướng
Chính phủ Pháp Lêông Blum, nhắc lại lập trường đúng đắn của phía Việt Nam, nêu ra một số điều
kiện để cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp.
Thực dân Pháp không những không phúc đáp bản thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà
còn tiếp tục khiêu khích ta ở Thủ đô và bắn đại bác vào phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, cầu Long Biên
vào ngày 17/12/1946.
Nghiêm trọng hơn, ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng trong
vòng 48 giờ.
Nếu tiếp tục nhân nhượng, thuận theo những điều kiện lúc này của thực dân Pháp thì đồng
nghĩa với việc trao độc lập, chủ quyền của ta cho chúng. Nhân dân ta chỉ còn một con đường duy
nhất là cầm vũ khí đứng lên.
Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở Vạn Phúc

(Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến
và quyết định đánh trước để giành thế chủ động.
Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, cuộc khởi nghĩa bắt đầu nổ ra ở Hà Nội. Và ngay trong đêm
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
15
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước
[1]
.
Sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát đi khắp cả nước, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp lần 2 chính thức bùng nổ trên toàn quốc.
2.1.2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Sau lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1946, Trung
ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, và sau đó, Tổng Bí thư Trường Chinh đã cho xuất
bản cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi”... xác định đường lối kháng chiến trong thời kì đầu là: 1.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là sự tiếp tục của cuộc Cách mạng tháng Tám; 2. Kháng
chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên chống thực dân Pháp cứu tổ quốc; 3. Kháng chiến
toàn diện: Trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế,văn hoá; 4. Tự lực cánh sinh:
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính; 5. Kháng chiến trường kỳ: Theo 3 giai đoạn: Phòng ngự,

cầm cự và tổng phản công.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến đã nêu rõ: Mục đích của kháng chiến là "đánh phản
động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập"; "tính chất: Trường kỳ
kháng chiến, toàn diện kháng chiến"; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết
toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp) để
chống bọn thực dân Pháp phản động. Bản Chỉ thị còn dự đoán về các giai đoạn phát triển
của cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về cơ quan lãnh đạo kháng chiến, về
tuyên truyền trong kháng chiến ...
Từ tháng 3 - 1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, Trường
Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật để làm sáng tỏ
thêm đường lối kháng chiến của Đảng. Những bài viết này được xuất bản thành tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.
Tác phẩm của Trường Chinh đã xác định rõ:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn thực dân phản
động Pháp xâm lược nhằm giành độc lập và thống nhất.
Tính chất của cuộc kháng chiến: Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, cuộc
kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng và củng cố chế độ
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
16
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
cộng hoà dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ mới. Cho nên cuộc kháng
chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, Trường Chinh khẳng định "...
Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng
chế độ cộng hoà dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho
dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản quốc để bổ
sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ gia đình các chiến sĩ hy sinh"
[2]
.
Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn

diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc là nội dung cơ bản của đường lối quân
sự của Đảng. Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên nhân lực,
vật lực, tài lực của cả nước cho chiến đấu và để chiến thắng.
Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến, đồng thời để
phát huy mặt mạnh của cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta, nên chúng ta phải
đánh địch trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó quân sự là mặt
trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng của địch trên đất nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược
của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước.
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch chi phối, phương châm chiến lược của ta
là đánh lâu dài. Đó là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng của
ta, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, đánh bại từng âm mưu và kế
hoạch quân sự của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đồng chí Trường Chinh dự
đoán về đại thể cuộc kháng chiến sẽ phát triển qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và
tổng phản công; ba giai đoạn đó có quan hệ chặt chẽ, kế tiếp và đan xen với nhau trong
kháng chiến.
Để đánh lâu dài, ta phải tự lực cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh của cả
dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do, đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế
để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính là "thầy
chiến lược", là "bí quyết của sự thắng lợi" của ta.
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi đã vạch ra một phương châm "tử
chiến" (quyết chiến) với thực dân phản động Pháp để giành độc lập, thống nhất thực sự
cho đất nước.
Kháng chiến nhất định thắng lợi là niềm tin, là động lực và sức mạnh kháng chiến
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
17
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác
phẩm của Trường Chinh là đường lối kháng chiến của Đảng ta, dẫn dắt và tổ chức nhân dân ta đấu

tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ anh dũng và nhất định thắng lợi
[3]
.
[1]

EP/
LS_CP_CACTHOIKY/1/PHAN1.CHUONG1.IV.HTM
[2]
Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1947, tr. 30,31.
[3]
Nguồn: />option=com_content&task=view&id=1066&Itemid=69/
2.2. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950)
2.2.1. Cuộc kháng chiến ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, quân dân các thành phố và thị xã ở Bắc vĩ
tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đã đồng loạt nổ súng:
Tại thị xã Hải Dương, quân ta đã nhanh chóng tiêu diệt địch ở trường Nữ học
và cầu Phú Lương. Nhưng ngay sau đó, Pháp đã phản kích và giành lại quyền kiểm soát.
Tại Hải Phòng, nhân dân đã phá cầu, chôn mìn đặt chướng ngại vật... để chặn đường tiếp tế cho
Hà Nội của Pháp.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...nhân dân ta đã nổ súng tấn công địch ở
khắp nơi, chiếm giữ được nhiều vị trí quan trọng. Nhưng do bị phản công của Pháp quá mạnh nên ta
buộc phải rút lui ra ngoại thành và các vùng nông thôn để bảo toàn lực lượng và tiếp tục kháng chiến.
Trong các cuộc đấu tranh đó, tiêu biểu nhất là cuộc chiến 60 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội. Với
tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, quân và dân Thủ đô đã chiến đấu dũng cảm, quyết liệt để
giam chân và tiêu hao sinh lực địch. Nhưng do lực lượng của Pháp quá mạnh, nên Trung ương Đảng
đã cho Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội trở về hậu phương để kháng chiến lâu dài.
2.2.2. Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
Song song với cuộc chiến đấu ở các đô thị, Đảng và Chính phủ cũng đã thực hiện thắng lợi
cuộc tổng di chuyển ra các vùng căn cứ kháng chiến.
Đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương đã chuyển lên căn cứ

Việt Bắc an toàn.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
18
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Tháng 3/1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia thành Bộ Tổng
chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ, và thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội
thuộc ủy ban kháng chiến các cấp.
Di chuyển được hàng vạn tấn máy móc, nguyên liệu, lương thực - thực phẩm ra vùng căn cứ
phục vụ cho cuộc kháng chiến. Đồng thời cùng với việc di chuyển, ta thực hiện chủ trương phá hoại
để kháng chiến lâu dài.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn chủ trương bằng mọi cách phải duy trì sản xuất để đảm bảo đời
sống nhân dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.
Như vậy, sau 3 tháng chiến tranh, thực dân Pháp chỉ chiếm được những vùng đô thị đổ nát do
chiến tranh phá hoại và chính sách “Tiêu thổ kháng chiến” của ta. Cơ quan đầu não kháng chiến vẫn
tồn tại cùng với một phong trào kháng chiến mạnh mẽ ở các vùng nông thôn và miền núi, làm cho kế
hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp không thành công.
2.2.3. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947
2.2.3.1. Bối cảnh
Sau khi chiếm được các đô thị và một số tuyến đường giao thông quan trọng, thực dân Pháp bắt
đầu gặp khó khăn do chiến tranh kéo dài và thiếu quân. Tháng 03/1947, Chính phủ Pháp triệu hồi
Đắc-giăng-li-ơ và cử Bô-léc sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương nhằm đẩy mạnh thực hiện kế
hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Bô - léc đã đưa ra kế hoạch củng cố vùng chiếm đóng, xúc tiến thành
lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại và chuẩn bị kế hoạch mở rộng tiến công đại quy mô vào vùng hậu
phương, căn cứ địa chính của chúng ta, hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Ngày 11/ 5/1947, tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp Pôn Muýt (Paul Mus)
đại diện Cao ủy Pháp Bôlae (Bollaert ) để trao đổi về điều kiện ngừng bắn của hai phía Việt - Pháp.
Nhưng do dã tâm xâm lược và yêu sách ngang ngược - đòi phía Việt Nam phải đầu hàng, nên cuộc
hội kiến đã không mang lại kết quả.
Trong phiên họp ngày 9/6/1947, Hội đồng phòng thủ Đông Dương đã thông qua kế hoạch tiến
công mùa Thu 1947 với mục đích: “Bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với

Trung Quốc… loại trừ mọi sự chi viện từ bên ngoài vào; truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh
cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”
[1]
Ngày 10/9/1947, Bôléc (Bollaert), Cao uỷ Pháp tuyên bố không công nhận Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh đứng đầu.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
19
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Trước tình hình đó, ngày 15/9/1947, Trung ương Đảng ra chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân
ta phải chống âm mưu dùng người Việt trị người Việt của thực dân Pháp và chuẩn bị chống lại cuộc
tấn công lớn của địch.
2.2.3.2. Diễn biến
Ngày 7/10/1947, Pháp huy động 12.000 quân và hầu hết máy bay hiện có ở
Đông Dương tấn công lên Việt Bắc:
- Một bộ phận nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới.
- Một binh đoàn bộ binh tấn công từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, sau đó chia một bộ phận theo
đường số 3 xuống Bắc Cạn.
- Ngày 9/10/1947, binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thủy đánh bộ từ Hà Nội ngược sông
Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang, bao vây Việt Bắc từ phía Tây.
Pháp dự định sẽ khép hai gọng kìm này lại tại Đài Thị.
Trước những hoạt động quân sự của địch, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt
của quân và dân ta phải làm cho địch thiệt hại nặng nề, giữ vững chính quyền dân chủ, phá vỡ bất cứ
chính quyền bù nhìn nào do địch lập nên, về quân sự phải đánh mạnh trên khắp các chiến trường...
Thực hiện chỉ thị của Đảng và căn cứ vào thực tế chiến trường, với lối đánh mưu trí linh hoạt,
chúng ta đã căng địch ra trên một không gian rộng, chia cắt các mũi tiến công của chúng, lợi dụng địa
hình hiểm trở phục kích, đánh chặn tiêu hao, tiêu diệt quân địch:
- Ở Bắc Cạn, ta bao vây tập kích quân nhảy dù của Pháp.
- Ở sông Lô, ta phục kích địch ở Đoan Hùng, Khe Lau, Khoan Bộ, bắn chìm nhiều tàu chiến và
canô của chúng.

- Trên đường số 4, ta tập kích mạnh quân pháp và giành thắng lợi lớn ở đèo Bông Lau, cắt đôi
đường số 4.
- Đồng thời với cuộc phản công ở Việt Bắc, quân dân cả nước đã đấu tranh chính trị, vũ trang
hưởng ứng, buộc Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó.
Sau 75 ngày đêm chiến đấu (Từ ngày 7/10/1947 đến ngày 21/12/1947), đại bộ phận quân Pháp
đã rút khỏi Việt Bắc.
2.2.3.3. Kết quả và ý nghĩa
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
20
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Quân và dân Việt Nam đã đánh hơn 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch
(khoảng 6.000 tên), bắn rơi nhiều máy bay (16 chiếc), phá hàng trăm xe cơ giới, bắn chìm nhiều tàu
chiến và ca nô (11 chiếc), thu hàng nghìn súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự khác.
Âm mưu thâm độc của thực dân Pháp hòng nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam đã bị thất bại, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.. Căn cứ địa Việt Bắc được
giữ vững, cơ quan đầu não của ta được bảo vệ an toàn.
Thực dân Pháp tuy vẫn kiểm soát được tuyến biên giới Lạng Sơn – Cao Bằng - Bắc Cạn nhưng
đã không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra.
2.2.4. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện chống âm mưu mới của Pháp từ sau
chiến dịch Việt Bắc 1947 đến trước chiến dịch Biên giới 1950
2.2.4.1. Âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp sau chiến dịch Việt Bắc 1947
Không giành được thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947, thực dân Pháp buộc
phải chuyển từ kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh lâu dài” với ta bằng cách thực hiện
chính sách “dùng người Việt đánh người Việt và lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”:
- Xây dựng chính phủ bù nhìn trung ương do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu và phát triển lực
lượng Việt gian.
- Tăng cường mở rộng các vùng tự do và bình định các vùng tạm chiếm.
- Thực hiện chiến tranh tổng lực trên các lĩnh vực như: chính sách “Đốt sạch, phá sạch, cướp
sạch” và chiến dịch “phá lúa” để vơ vét của cải gây khó khăn về mặt kinh tế, cho ta; đánh phá trên
lĩnh vực chính trị và lực lượng hậu bị khánh chiến của ta.

- Thực dân Pháp đã thành lập các xứ tự trị ở Tây Bắc và Tây Nguyên để chia rẽ dân tộc Việt
Nam như: Tháng 4/1948, chúng lập thành lập xứ Nùng tự trị (Tiên Yên, Móng Cái); Liên bang Thái
(Sơn La, Lai Châu); tháng 5/1948 lập xứ Mường tự trị (Hòa Bình); tháng 6/1948 lập xứ Tây Kì tự trị
(Tây Nguyên); tháng 7/1948 lập Liên bang Tày (Cao Bằng, Lạng Sơn).
Trong nửa đầu năm 1948, thực dân Pháp đã giành được nhiều kết quả làm cho phong trào đấu
tranh của nhân dân ta bị tổn thất lớn.
2.2.4.2. Chủ trương đối phó của ta
Để đối phó với những âm mưu của thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ chủ trương: Một mặt,
phát động chiến tranh du kích ở các vùng bị tạm chiếm nhằm tiêu hao sinh lực địch; mặt khác, đẩy
mạnh củng cố chính quyền, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế... ở các vùng tự do
để tạo sức mạnh phục vụ cho kháng chiến.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
21
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
2.2.4.2.1. Đẩy mạnh chiến tranh du kích
Đảng đã chủ trương phân tán 1/3 bộ đội chủ lực, đưa về các vùng bị địch chiếm đóng để hỗ trợ
và lãnh đạo nhân dân thực hiện chiến tranh du kích.
Nhờ chủ trương này, phong trào cách mạng đã được phục hồi và phát triển nhanh chóng: Các
phong trào chống thu thóc, chống nộp thuế, các hoạt động trừ gian diệt ác, chống càng, bảo vệ làng
mạc...diễn ra khắp nơi và rất mạnh mẽ.
Đến năm 1948, bộ đội chủ lực bắt đầu tập đánh vận động chiến, tiêu biểu như: Chiến dịch
Nghĩa Lộ, chiến dịch Lao – Hà, chiến dịch Đông Bắc...
Đồng thời, Đảng còn lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị ở khắp các thành phố lớn như:
Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn.... Tiêu biểu là cuộc biểu tình của 2.000 sinh viên, học sinh
Sài Gòn vào ngày 9/01/1950 và cuộc biểu tình của 300.000 đồng bào Sài Gòn vào ngày 19/3/1950.
2.2.4.2.2. Củng cố chính quyền, xây dựng kinh tế, văn hoá, giáo dục
Đảng và Chính phủ đã tăng cường củng cố chính quyền từ Trung ương xuống địa phương;
Thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thành Hội Liên Việt.
Ngày 20/01/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110-sl phong quân hàm Đại tướng cho
ông Võ Nguyên Giáp. Tháng 7/1948, Đại tướng Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc

phòng, kiêm Tổng chỉ huy quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam.
Ngày 25/01/1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 120-SL thành lập các liên khu trong cả nước để
tăng cường chỉ đạo chiến tranh. Theo Sắc lệnh này, 7 khu ở Bắc Bộ đổi thành 3 liên khu: Liên khu I,
X và III. Bốn khu ở Trung Bộ đổi thành 2 liên khu: Liên khu IV, V. Nam Bộ thành 1 Liên khu (gồm
ba khu VII, VIII, IX và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 19/8/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 206-SL thành lập Hội đồng Quốc phòng
tối cao để nghiên cứu kế hoạch kháng chiến toàn diện và trình Chính phủ duyệt và thực hiện kế hoạch
ấy. Hội đồng Quốc phòng tối cao do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Từ ngày 14 đến ngày 18/01/1949, Hội nghị cán bộ lần thứ 6 của Đảng đã nghe và thảo luận báo
cáo “Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công” do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày. Hội nghị
nhận định: “Giai đoạn cầm cự chiến lược đã bắt đầu từ năm 1948 sau Chiến dịch Việt Bắc và nhiệm
vụ chủ yếu trong giai đoạn chiến lược thứ hai là tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công”. Khẩu
hiệu của Đảng đề ra lúc này là: “Tất cả để đánh thắng”. Hội nghị đặc biệt chú trọng đến vấn đề thực
hiện chính sách ruộng đất và đề nghị Chính phủ ra Sắc lệnh giảm tô.
Ngày 12/3/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14-SL, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia
và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; các bộ chỉ
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
22
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
huy Liên khu quân sự thành Bộ Tư lệnh Liên khu; Tổng chỉ huy gọi là Tổng Tư lệnh; Liên khu
trưởng gọi là Tư lệnh Liên khu.
Ngày 18/6/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 72-SL thành lập Hội đồng tu luật do Bộ
Tư pháp chủ trì. Từ năm 1950, Hội đồng tu luật được chuyển cho Ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 25/7/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông Phạm Văn Đồng giữ chức Phó Thủ tướng
Chính phủ và được bổ sung giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Ngày 4/11/1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh quy định nghĩa vụ quân sự cho nam công dân từ
18 đến 45 tuổi và Sắc lệnh hợp nhất Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt Bắc, lập ủy ban
kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
Ngày 21/01/1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đã đề ra 10 nhiệm vụ công tác trong
năm 1950 để hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh cuộc kháng chiến sang tổng phản công.

Ngày 12/02/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Tổng động viên, để thực hiện khẩu hiệu
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Được nhân dân tích cực hưởng ứng, cuộc tổng động viên kết hợp và hoà nhập với phong trào
thi đua ái quốc đã phát triển sôi nổi và mạnh mẽ chưa từng thấy. Chỉ riêng từ liên khu IV trở ra đã có
trên 500.000 thanh niên ghi tên tòng quân, hàng mấy chục vạn đồng bào hăng hái lên đường đi dân
công phục vụ tiền tuyến. Nhân dân còn quyên góp tiền, của, thóc gạo cho kháng chiến. Trên cả nước,
từ Việt Bắc đến Nam Bộ, đâu đâu đồng bào cũng ra sức đóng góp phần mình cho kháng chiến.
Chống phá hoại kinh tế của địch: Chống chiến dịch “phá lúa”, chống chủ trương “đốt sạch, phá
sạch, cướp sạch” của địch.
Xây dựng và phát triển kinh tế như: Phát động phong trào thi đua ái quốc, đẩy mạnh sản xuất.
Thực hiện giảm tô 25%, chia ruộng cho nông dân. Giảm tức, xoá nợ, hoãn nợ cho nông dân. Xây
dựng các cơ sở công nghiệp quốc phòng…
Ngày 01/6/1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 197-SL, thành lập Ban vận động thi đua
các cấp. Ngày 11/6/1948, nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Tháng 02/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và Thông tư
chia ruộng đất của thực dân Pháp cho nông dân nghèo, nhằm chấm dứt tình trạng một số
đồn điền trại ấp lâu ngày không được canh tác.
Ngày 14/7/1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh ấn định mức địa tô và thành lập ở
mỗi tỉnh một Hội đồng giảm tô. Sắc lệnh quy định chủ ruộng phải giảm 25% so với mức
địa tô trước Cách mạng Tháng Tám; xoá bỏ tô phụ và chế độ quá điền.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
23
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Ngày 4/5/1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 68-SL thành lập Ban Kinh tế Chính phủ.
Ngày 22/5/1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 88-SL quy định thể lệ lĩnh canh ruộng
đất và Sắc lệnh số 89-SL quy định việc giảm lãi, xoá nợ, hoãn nợ.
Ngày 9/9/1950, Chính phủ Việt Nam ban hành Công trái quốc gia để huy động
nhiều thóc, gạo phục vụ nhiệm vụ kháng chiến.
=> Kinh tế ở các vùng tự do phát triển nhanh chóng, tạo tiếm lực cho chính quyền cách mạng.

Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế:
Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, thúc đẩy xây dựng nếp sống mới vui tươi lành
mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Phong trào chống mù chữ được đẩy mạnh, nền giáo dục phổ thông được mở rộng, hệ thống
giáo dục Chuyên nghiệp và Đại học bước đầu hình thành.
Hệ thống y tế được xây dựng và phát triển để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
* Kết luận: Những thành công của chiến tranh du kích và thành tựu xây dựng kinh tế, văn hoá,
giáo dục, y tế trong giai đoạn này đã tiếp tục làm thất bại âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân
Pháp. Đồng thời tạo thêm sức mạnh cho cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi
mới.
2.2.5. Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950
2.2.5.1. Bối cảnh lịch sử
Tiếp theo những thắng lợi trong giai đoạn sau năm 1947 đến trước năm 1950, lực lượng cách
mạng Việt Nam tiếp tục gặp những điều kiện khách quan thuận lợi mới:
Ngày 01/10/1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra
đời.
Ngày 14/01/1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về đường lối ngoại giao.
Ngày 15/01/1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận Chính phủ nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa.
Ngày 18/01/1950, Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là Chính phủ đầu tiên công
nhận Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau đó, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng
hòa: Ngày 30/01, Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết; ngày 31/01, Chính phủ
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên; ngày 2/02, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Tiệp Khắc và
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
24
ANH HOÀI ĐHSSỬ 09B
Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Đức; ngày 3/02, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Rumani; ngày 5/02,
Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Ba Lan và Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Hunggari; ngày 8/02,
Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Bungari; ngày 18/02, Chính phủ Anbani, và ngày 17/11/1950, Chính

phủ Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ. Đây là thắng lợi ngoại giao cực kỳ to lớn của cách mạng Việt
Nam.
Tháng 6/1950, Ủy Ban dân tộc giải phóng Campuchia thành lập và tháng 8/1950 Chính phủ
kháng chiến Lào cũng ra đời đã gây khó khăn cho thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương.
Trước tình hình đó, Mĩ đã giúp Pháp đẩy mạnh chiến tranh. Thực dân Pháp thông qua Kế hoạch
Rơ – ve với 3 hoạt động cơ bản như sau:
1/ Tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, khoá biên giới Việt – Trung.
2/ Thiết lập một “hành lang Đông – Tây” (Hải Phòng – Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La) để cô lập
căn cứ Việt Bắc.
3/ Chuẩn bị tấn công lên căn cứ Việt Bắc lần thứ hai để tiêu diệt cơ quan đầu não Việt Minh và
nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2.2.5.2. Diễn biến
Để tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt một bộ phận quan trọng
sinh lực địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, phá tan vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc, tháng 6/1950, Ban thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã quyết định mở chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, tức Chiến dịch Biên giới thu đông
năm 1950, còn được gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong II.
Chuẩn bị cho chiến dịch, ta huy động hơn 120.000 dân công, vận chuyển đến chiến trường 4.000
tấn lương thực, súng đạn... Đầu tháng 9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận, đi sát
giúp đỡ Ban chỉ huy chiến dịch và động viên bộ đội, dân công.
Sáng 16/9/1950, quân ta nổ súng tấn công Đông Khê, đến ngày 18/9/1950 ta tiêu diệt hoàn toàn
Đông Khê làm cho Cao Bằng bị cô lập và Thất Khê bị uy hiếp.
Thực dân Pháp đã lên kế hoạch rút khỏi Cao Bằng bởi một “cuộc hành quân
kép”: Đưa quân đánh Thái Nguyên buộc ta phải đối phó, đồng thời đưa lực lượng từ
Thất Khê đánh lên Đông Khê và rút quân ở Cao Bằng theo đường số 4 tiếp đánh
Đông Khê.
Đoán biết ý đồ của Pháp, ta cho quân mai phục và đánh bại cánh quân tiếp viện từ Thất Khê lên
và cả cánh quân từ Cao Bằng rút về. Đồng thời, ta đập tan cuộc hành quân tấn công lên Thái Nguyên
của địch.
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1954

25

×