Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở tỉnh quảng nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.52 MB, 145 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
¾¾¾¾¾¾¾¾¾

PHẠM HỒNG SƠN

Ý THỨC PHÁP LUẬT VỚI VIỆC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CƠ
SỞ Ở TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Đà Nẵng – Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
¾¾¾¾¾¾¾¾¾

PHẠM HỒNG SƠN

Ý THỨC PHÁP LUẬT VỚI VIỆC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CƠ
SỞ Ở TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN HỒNG LƯU

Đà Nẵng – Năm 2017




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................... 3
2.1. Mục tiêu: ................................................................................................. 3
2.2. Nhiệm vụ: ................................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
4.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Bố cục đề tài...................................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ........................................................................... 4
CHƯƠNG 1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP
LUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN ...................................... 7
1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI .............................................................................................. 7
1.1.1. Ý thức pháp luật: quan niệm và kết cấu ................................................ 7
1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội .............................. 14
1.2. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA................................................................................ 17
1.2.1. Nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ........................... 17
1.2.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ........................................................................................................ 29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 42
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NHÂN DÂN VÀ
VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
............................................................................................................................. 44



2.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý THỨC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH QUẢNG NAM ..................... 44
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của tỉnh
Quảng Nam .......................................................................................................... 44
2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật ở Quảng Nam ........... 46
2.2. Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NAM .................................................................................................................... 57
2.2.1. Mặt tích cực: thực trạng và nguyên nhân ............................................ 57
2.2.2. Thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ................... 60
2.3. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỈNH QUẢNG NAM ..................... 64
2.3.1. Quá trình thực hiện dân chủ cơ sở ở tỉnh Quảng Nam......................... 65
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam. ........................................................................................... 77
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 81
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC
PHÁP LUẬT TRONG VIỆC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH
QUẢNG NAM HIỆN NAY ................................................................................ 82
3.1. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC
PHÁP LUẬT VÀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH QUẢNG NAM ... 82
3.1.1. Tiếp tục thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh ...................................................................... 82
3.1.2. Đổi mới việc thực hiện QCDC một cách sáng tạo, phù hợp với từng địa
phương, từng xã, phường ..................................................................................... 83
3.1.3. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Đảng bộ với chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội nhằm đưa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thành nề
nếp thường xuyên ................................................................................................. 84



3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
NHẰM THỰC HIỆN TỐT DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NAM THỜI GIAN TỚI ....................................................................................... 86
3.2.1. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật............ 87
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ........................................ 90
3.2.3. Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực thực hành dân chủ cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân .......................................................................................... 93
3.2.4. Củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở ........................................ 95
3.2.5. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm giữa các
địa phương, các cơ sở ......................................................................................... 102
3.2.6. Kiện toàn Ban chỉ đạo đồng thời củng cố hoạt động của Ban thanh tra
nhân dân nhằm tiếp tục và nâng cao chất lượng việc thực hiện phương châm "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".................................................................. 104
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................. 106
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH:

Ban chấp hành

BCĐ:

Ban chỉ đạo

CNH:


Công nghiệp hóa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

HĐH:

Hiện đại hóa

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

QCDC:

Quy chế dân chủ

VKS :

Viện kiểm sát

TBCN:

Tư bản chủ nghĩa


UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi cuộc sống của con người ngày càng được nâng lên, trình độ trí tuệ của
con người ngày càng được phát triển thì nhu cầu tự do, dân chủ ngày càng được
nâng cao. Lịch sử phát triển dân chủ là lịch sử đấu tranh cho quyền sống, quyền
mưu cầu tự do và hạnh phúc của con người, từng bước xây dựng một nền dân chủ
theo lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa con người từ trói buộc đến
tự do, từ nô lệ đến làm chủ, từ thụ động đến sáng tạo. Để phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động cần phải thực hiện và đảm bảo ngày càng tốt hơn những
điều kiện thực hiện dân chủ cho cá nhân và cộng đồng xã hội. Do đó, dân chủ là xu
hướng, là khát vọng ngàn đời của con nguời. Dân chủ là động lực và mục tiêu của
tiến bộ và phát triển. Đó không những là một lý tưởng cao đẹp của con người và
loài người mà còn là con đường và phương thức phát triển của xã hội hiện đại.
Ở Việt Nam, sau khi Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ ngày 18/02/1998 về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cụ
thể hóa một bước chỉ thị này bằng các Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10, số
55/1998/NQ-UBQH10 và số 60/1998/NQ-UBTVQH10 về thực hiện dân chủ ở ba
loại hình đơn vị cơ sở chủ yếu là đơn vị hành chính cấp cơ sở; các cơ quan nhà
nước và các cơ sở kinh tế. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Hiến

pháp năm 2013 nhằm cụ thể Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó lần đầu tiên, một văn
bản pháp lý cao nhất của nước ta quy định rõ ràng về việc kiểm soát quyền lực nhà
nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” (Điều 2). Kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu nhằm bảo đảm quyền
lực nhà nước không vượt quá tầm kiểm soát của nhân dân, trở thành lực lượng đe
dọa nhân dân - chủ sở hữu quyền lực nhà nước, xâm phạm đến quyền làm chủ và


2
địa vị làm chủ của nhân dân. Chính vì thế, việc hiến định kiểm soát quyền lực nhà
nước là một bước tiến dài trong quá trình phát huy dân chủ XHCN và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN.
Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức
trách nhiệm của nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền gây
phiền hà và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tệ quan
liêu, nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Những vụ việc tham
nhũng gần đây càng gây bức bối cho xã hội về nạn lạm quyền của một số quan
chức cấp tỉnh, thành ... Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý
vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, phương châm "sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật" vẫn chưa đi vào cuộc sống, đời sống pháp luật thấp, ý
thức pháp luật và dân chủ của nhân dân, như Đảng ta chỉ rõ:
"Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy
đủ trong đời sống xã hội. Không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ
hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng phong
kiến, gia trưởng còn nặng. Đồng thời, cũng xuất hiện khuynh hướng dân
chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật,
cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa
đầy đủ"[14, tr.41- 42].

Tình trạng này có nguyên nhân từ ý thức pháp luật thấp kém, pháp luật chưa
thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành cái không thể thiếu khi điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Ý thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế và bản thân hệ
thống pháp luật chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, mặt bằng dân trí thấp, trình
độ văn hóa pháp lý còn thấp kém.
Ở Quảng Nam, từ khi tái lập tỉnh năm 1997 cho đến nay, việc triển khai thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở làm chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động
của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội về


3
mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở một số nơi vẫn còn bất cập, hình thức, không
liên tục, hiệu quả chưa cao, chưa theo kịp đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra.
Cho đến nay, ngoài "Báo cáo tổng kết 17 năm việc thực hiện Chỉ thị 30CT/TƯ của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở 1997- 2015" của Tỉnh ủy, chưa có công trình khoa học nào đề cập riêng đến
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Ý
thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở tỉnh Quảng Nam hiện nay"
làm chủ đề nghiên cứu luận văn Thạc sỹ khoa học Triết học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu:
Trên cơ sở làm rõ vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ ở
tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp để góp phần
nâng cao ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở tỉnh Quảng Nam thời
gian tới.
2.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn sẽ tập trung làm rõ:
- Ý thức pháp luật và vai trò của nó trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước
ta hiện nay.
- Khảo sát và phân tích ý thức pháp luật và những vấn đề đặt ra trong quá

trình thực hiện dân chủ cơ sở ở tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp, khuyến nghị nâng cao ý thức
pháp luật nhằm thực hiện dân chủ cơ sở ở tỉnh Quảng Nam thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khái niệm về dân chủ rất rộng, do yêu cầu của luận văn, xin được đi sâu
khía cạnh dân chủ là một hình thức nhà nước, nó có mối quan hệ chặt chẽ với pháp
luật.


4
- Khái niệm ý thức pháp luật được hiểu rất rộng, kết cấu gồm: Hệ tư tưởng
pháp luật và tâm lý pháp luật. Nội dung đề tài tập trung đi sâu một số khía cạnh tâm
lý pháp luật: trình độ nhận thức am hiểu pháp luật, tình cảm thái độ chấp hành pháp
luật của người dân.
- Từ góc độ triết học, vấn đề ý thức pháp luật và dân chủ nghiên cứu thực
hiện ở tỉnh Quảng Nam từ năm 1997 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các vấn đề
lý luận có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận triết học mác xít, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống - cấu trúc, điều tra khảo
sát, thống kê - so sánh trong nghiên cứu và trình bày.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Những nội dung liên quan đến vấn đề ý thức pháp luật, vấn đề dân chủ, đã

được một số nhà nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Các công trình nghiên
cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo
sát, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách báo.
Chẳng hạn, như những công trình sau đây:
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc
đổi mới, Đề tài Khoa học cấp bộ (1995) của Bộ Tư pháp nghiên cứu những vấn đề
lý luận chung về pháp luật, khái quát thực tiễn ý thức pháp luật trong đời sống xã


5
hội và trong công tác giáo dục pháp luật hiện nay ở nước ta, đề xuất những giải
pháp nhằm tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ
thống chính trị và trong nhân dân.
- Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay (một số vấn đề
lý luận và thực tiễn), Đề tài khoa học cấp bộ, PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên),
Phân viện Hà Nội - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Tác giả đã tập
trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn của việc thực
hiện QCDC ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta.
- Ý thức pháp luật của PGS.TS.Nguyễn Minh Đoan, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2011 đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, chức năng và các
cấp độ biểu hiện của ý thức pháp luật, cũng đã phản ánh thực trạng ý thức pháp luật
của Việt Nam và đề xuất các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật nói chung ở nước
ta hiện nay.
- PGS.TS Dương Xuân Ngọc: "Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả đã làm
rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
- Luận án Tiến sỹ triết học của Nguyễn Thúy Vân “Logic khách quan của
quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam” (Hà Nội, 2000), đã
làm sáng tỏ vai trò của logic khách quan trong quá trình hình thành và phát triển ý

thức pháp luật ở Việt Nam.
- Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, tác giả Mai Thị Minh Ngọc, năm 2003. Đề tài
nghiên cứu những về ý thức pháp luật, về dân chủ XHCN, về vai trò của ý thức
pháp luật trong đời sống xã hội và trong việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước
ta. Trên cơ sở khái quát tình hình ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, tác


6
giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức và nhân dân nhằm xây dựng và thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
Có thể nói, mỗi công trình có những giá trị nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên
ý thức pháp luật được nghiên cứu trên bình diện triết học, là một hình thái ý thức xã
hội, liên quan trực tiếp đến con người với tư cách là một công dân. Công dân có
thực hiện quyền dân chủ của mình hay không điều đó phải ý thức được quyền và
nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Vì vậy, để pháp luật đi vào cuộc sống, thì việc
nâng cao ý thức pháp luật cho các thành viên trong xã hội có một ý nghĩa hết sức to
lớn. Đây là một vấn đề mới mẻ, cơ sở lý luận và thực tiễn chưa nhiều và cũng khá
phức tạp khi tìm hiểu dưới góc độ triết học. Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở
quý báu để tác giả luận văn đi vào nghiên cứu chủ đề này trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.


7

CHƯƠNG 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1.1. Ý thức pháp luật: quan niệm và kết cấu
1.1.1.1. Một số quan niệm về ý thức pháp luật
Quan niệm về ý thức pháp luật có nhiều điểm khác nhau, khi nó được nghiên
cứu dưới những góc độ, những cách tiếp cận khác nhau của những ngành khoa học
khác nhau, như triết học, luật học hay xã hội học pháp luật.
Từ góc độ triết học, ý thức pháp luật được hiểu là một trong những hình thái
của ý thức xã hội (ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm
mỹ, ý thức tôn giáo, ý thức xã hội). Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã
hội, ra đời từ thực tiễn đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức xã hội
xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế xã hội, mà trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể hiện trong các luật lệ nhà
nước. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật, nó là sản
phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng,
quan điểm, quan niệm trong xã hội.“Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết,
tư tưởng, quan điểm, quan niệm pháp lý tồn tại trong xã hội, thể hiện mối quan hệ
của con người đối với pháp luật, đối với quá trình điều chỉnh pháp luật, sự đánh giá
về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của cá nhân, cũng như trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội”[2, tr. 373-374].
Quan niệm này đã làm rõ được chủ thể ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết đối với
pháp luật và thái độ, sự đánh giá, điều chỉnh hành vi của con người theo pháp luật.


8
Ý thức pháp luật là bộ phận của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội
từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp
luật của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có giai cấp. Theo đó, ý
thức pháp luật và pháp luật là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chịu sự
quy định và bị chi phối bởi các yếu tố trong cơ sở hạ tầng mà quan trọng nhất là các
điều kiện kinh tế. Vì thế, những nội dung của ý thức pháp luật và những quy định

của pháp luật xét đến cùng, chính là sự phản ánh đời sống hiện thực khách quan,
phản ánh sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống mà trong đó ý thức pháp
luật thể hiện ra. Với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội, ý thức pháp luật xuất
hiện, nảy sinh trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định. Vì thế, tồn tại xã hội và ý thức
pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội từ góc độ pháp luật, thể hiện trình
độ hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân trong xã hội có giai cấp. Do đó, những nội dung của ý thức pháp luật và
các quy định của pháp luật, xét đến cùng, chính là sự phản ánh đời sống hiện thực
khách quan, phản ánh sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống mà trong đó
ý thức pháp luật được thể hiện bằng các hành vi cụ thể.
C.Mác đã khẳng định:
“Nhà lập pháp phải coi mình như nhà khoa học tự nhiên. Ông ta
không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng mà chỉ nêu
chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ
tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta sẽ phải chê
trách nhà lập pháp và vô cùng tùy tiện, nếu như ông ta thay thế bản chất
của sự việc bằng những điều bịa đặt của mình”[Dẫn theo: 6; tr. 232].
Mọi sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức pháp luật đều có căn
nguyên từ những thay đổi, vận động và phát triển của đời sống xã hội. Bởi lẽ, trong
mối quan hệ với tồn tại xã hội, ý thức pháp luật là cái bị quy định. Và, mặc dù là


9
cái ổn định hơn so với sự biến động của đời sống xã hội, nhưng cuối cùng dù sớm
hay muộn, ý thức pháp luật cũng phải thay đổi theo sự biến đổi của xã hội. C.Mác
nói: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các cuộc cải cách xã hội
tách biệt với pháp luật. Một khi pháp luật bị đặt ra ngoài các quá trình biến đổi xã
hội, hoặc bị hạ thấp hay phớt lờ thì tất yếu các cải cách ấy hoặc là mang tính nữa
vời, thậm chí chết yểu, hoặc là gây nên những đảo lộn nghiêm trọng đối với đời

sống xã hội, xô đẩy xã hội vào những nguy cơ khủng hoảng” [8; tr. 254].
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa hẹp, theo nghĩa thông thường là ý thức
chấp hành những quy định pháp luật của con người. Vì thế khi đánh giá ý thức
pháp luật của một tập thể, cá nhân nào đó người ta thường so sánh giữa hành vi
chấp hành của những đối tượng đó với yêu cầu của những quy định trong văn bản
pháp luật để đánh giá ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay kém của họ. Quan niệm
này đồng nhất ý thức pháp luật với một hình thức biểu hiện cụ thể của nó, như vậy
sẽ quá hẹp, thiếu toàn diện, chưa thể hiện rõ được bản chất, vai trò năng động, sáng
tạo của ý thức pháp luật.
Trong lý luận khoa học, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng. Tuy
nhiên do mục đích và phương diện nghiên cứu khác nhau mà cho đến nay cũng
xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ nhất cho rằng: "ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [9, tr. 147]. Đây là quan
niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung chưa phản ánh kết cấu nội dung
của ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ hai: Thường nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý thức
pháp luật. Có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu của ý thức pháp luật như "ý
thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý pháp
luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm
pháp lý, những tình cảm pháp luật, cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành


10
nghiêm chỉnh pháp luật" [54, tr. 235]. Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu của ý
thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh mặt tri thức pháp luật như:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông
qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã
qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay

không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [10, tr. 229].
Quan niệm thứ ba: Đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ, toàn diện
hơn. Nó không những chỉ ra được tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp
luật mà còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến, tất yếu của ý thức pháp
luật đối với đời sống xã hội. Theo quan niệm này:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những
quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá
nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện
hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công
bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật
đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi không
hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức [43, tr. 290].
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, cùng với mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn, chúng tôi quan niệm:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc
phản ánh một cách tích cực, sáng tạo và trực tiếp đời sống pháp luật, hình thành
những khái niệm, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp,
tầng lớp) đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ của họ đối với pháp luật
hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật trong tương lai, quyền và nghĩa vụ


11
của các chủ thể pháp luật, tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự
của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội.
Quan niệm trên đã chỉ rõ nguồn gốc trực tiếp của ý thức pháp luật là đời
sống pháp luật, đồng thời cũng nêu lên tính chất, cơ cấu và nội dung... của ý thức
pháp luật, qua đó thấy được vai trò to lớn của ý thức pháp luật trong đời sống xã
hội, để có thái độ xử sự đúng đắn như nó đang tồn tại.
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật tuân thủ quy luật chung của

sự hình thành ý thức xã hội phản ánh đời sống pháp luật, mà trước hết là nhu cầu
pháp lý đặt ra của đời sống xã hội, thông qua chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh
hành vi con người, nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội theo ý chí của giai cấp
cầm quyền.
Ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý thức xã
hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, và ý thức đạo đức.
Ý thức chính trị phản ánh mối quan hệ giữa các tập đoàn người trong xã hội
đối với quyền lực nhà nước. Còn ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ của còn
người đối với các quy tắc được chấp nhận trong xã hội nhất định. Ý thức pháp luật
chịu sự tác động trực tiếp của ý thức chính trị bởi vì bản chất pháp luật là ý chí của
giai cấp cầm quyền được thể hiện thành "luật lệ" mà mỗi chế độ xã hội có giai cấp,
chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền.
Ý thức đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa các cá nhân và những quan
điểm theo đó con người đánh giá chính "cái tôi" của mình, nghĩa vụ công bằng
mang tính nội tâm và tự nguyện. Còn ý thức pháp luật nghĩa vụ và công bằng dân
chủ được Nhà nước quy định, do đó mang tính cưỡng chế.
Nếu ý thức chính trị tác động chi phối ý thức pháp luật nhất là hệ tư tưởng
chính trị thì ngược lại ý thức pháp luật là sự phản ánh những yêu cầu chính trị dưới
góc độ pháp luật. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật và ý thức đạo đức đều cùng hướng
vào việc điều chỉnh hành vi con người, nên chúng chịu ảnh hưởng và hỗ trợ nhau


12
rất lớn. Như vậy ý thức pháp luật, ý thức chính trị và ý thức đạo đức có mối quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, mặc dù khác nhau nhưng chúng cùng phản
ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhất là sự quy định của chế độ kinh tế.
1.1.1.2. Kết cấu của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là cơ sở hình thành văn hóa pháp lý của chủ thể pháp luật,
giúp cho chủ thể có khả năng và kỹ năng sử dụng cơ chế điều chỉnh pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bản thân mình, cho Nhà nước và cho xã hội,

nhằm xử sự đúng đắn và phù hợp trong các mối quan hệ. Ý thức pháp luật được tạo
nên bởi hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật, cụ thể:
Thứ nhất, Tư tưởng pháp luật là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm và học
thuyết về pháp luật còn được gọi là nhận thức pháp lý, bao gồm các tri thức của con
người về pháp luật, các hiện tượng liên quan đến pháp luật và quá trình điều chỉnh
pháp luật…được khái quát hóa thành lý luận, học thuyết về nhà nước và pháp luật.
Tư tưởng pháp luật là kết quả của sự phản ánh một cách tự giác, có mục đích, có
tính tổ chức cao của các hoạt động tư duy lý luận. Chính vì vậy, mà tư tưởng pháp
luật là bộ phận chủ yếu của ý thức pháp luật, được hình thành một cách tự giác,
phản ánh tồn tại xã hội một cách sâu sắc, khách quan mang tính hệ thống và khoa
học có tác dụng soi sáng, định hướng cho tâm lý pháp luật. Những chủ thể có tri
thức pháp luật cao sẽ có khả năng nhận thức pháp luật chính xác và có ý thức tuân
thủ tốt các quy định của pháp luật. Bởi hạt nhân của tư tưởng pháp luật là những tri
thức pháp luật (sự nhận thức, hiểu biết khoa học và nắm bắt các quy định pháp luật)
được biểu hiện thông qua hành vi, hành động của con người trong cuộc sống.
Trong đời sống xã hội, tri thức pháp luật giữ vai trò vô cùng quan trọng đặc biệt đối
với mỗi cá nhân, đó là yếu tố tạo thành nhân cách, năng lực và trình độ hiểu biết,
đối với xã hội có tác dụng phát huy sức mạnh và năng lực sáng tạo của mỗi thành
viên, đối với quốc gia là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội.


13
Ở Việt Nam, các tư tưởng pháp luật là sự kế thừa và kết hợp hài hòa của
nhiều quan niệm, quan điểm pháp luật khác nhau. Bao gồm các quan niệm, quan
điểm pháp luật dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh được củng cố và phát triển, các quan điểm pháp luật tiến bộ của các đối tác
trong quan hệ song phương, đa phương và với quốc tế lẫn các quan niệm quan điểm
vẫn còn tồn tại làm cho tư tưởng pháp luật Việt Nam thêm phong phú, đa dạng.
Thứ hai, tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ,
tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Tâm lý pháp luật

bị chi phối bởi hệ tư tưởng pháp luật, nó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm và trình
độ nhận thức lý luận của cá nhân. Nhưng đồng thời cũng là tiền đề thúc đẩy quá
trình hình thành và phát triển các quan điểm, tư tưởng pháp luật phù hợp. Tâm lý
pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp của
chủ thể và góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, từ đó hình thành
trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia đình và với quê hương đất nước.
Bởi tâm lý pháp luật chứa đựng trong nó những rung động về tâm hồn của con
người, điều chỉnh hành vi bằng niềm tin, sự hiểu biết, sự trân trọng hay thù hằn,
định kiến, ác cảm….đối với pháp luật, quá trình điều chỉnh pháp luật do ảnh hưởng
của những giao tiếp trong đời sống thực tiễn xã hội.
Ở nước ta trong thời gian qua, chưa quan tâm đúng mức vai trò quan trọng của
tâm lý pháp luật, chúng ta chủ yếu tập trung vào xây dựng hệ tư tưởng pháp luật mà
chưa thật sự chú ý tới việc củng cố, định hướng để hình thành thái độ, tình cảm
pháp luật đúng đắn trong đời sống xã hội. Do đó, mà tâm lý pháp luật ở nước ta
diễn biến khá phức tạp, biểu hiện một bộ phận không nhỏ dân cư chưa có thói quen
sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí xem nhẹ hay coi pháp luật chỉ là sự trói
buộc hành vi của con người và tìm mọi cách để trốn tranh, không tuân thủ các quy
định của pháp luật trên mọi lĩnh vực của đời sống. Vì vậy, việc thay đổi những tình
cảm, thái độ pháp lý không phù hợp nhằm tạo dựng, củng cố tâm lý pháp luật đúng


14
đắn là việc làm hết sức khó khăn ở nước ta hiện nay. Bởi tính chất bền vững của
tâm lý trong ý thức của mỗi con người. Muốn làm được điều đó, phải kiên trì,
không ngừng nâng cao ý thức pháp luật, điều chỉnh hành vi của con người theo
đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội
1.1.2.1. Ý thức pháp luật với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Ý thức pháp luật ra đời từ những điều kiện xã hội nhất định, phản ánh nhu
cầu điều chỉnh cũng như quá trình điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã

hội. Vì vậy, ý thức xã hội nói chung và ý thức pháp luật nói riêng có vai trò to lớn
đối với quá trình vận động và phát triển của xã hội. Trong đời sống pháp lý, ý thức
pháp luật giúp chủ thể thực hiện đúng các quy định pháp luật, tránh được các hành
động thiếu suy nghĩ, đi ngược với lợi ích chung của xã hội. Đối với mỗi cá nhân cụ
thể, ý thức pháp luật là nhân tố quan trọng góp phần tạo thành nhân cách, phẩm giá,
năng lực và trình độ của con người. Đối với tập thể, ý thức pháp luật tạo nên sự
đoàn kết, gắn bó trong quan hệ giữa người với người. Đối với quốc gia, ý thức pháp
luật của nhân dân trở thành động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội, biểu hiện:
Thứ nhất, ý thức pháp luật trong đời sống kinh tế: Ý thức pháp luật góp phần
thúc đẩy đời sống kinh tế phát triển. Bởi ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp để xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước. Đồng thời pháp luật là công cụ
pháp lý kinh tế của đất nước thông qua việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch
phát triển thành hệ thống quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt
động kinh tế đạt hiệu quả. Vì vậy, ý thức pháp luật được nâng cao sẽ góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh phù hợp với các quan hệ kinh tế. Do
đó, nhà nước với tư cách là người trực tiếp sáng tạo pháp luật, trước hết phải nhận
thức được những đòi hỏi khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Thực tiễn,
những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển của kinh tế để phản ánh kịp thời vào
hệ thống pháp luật. Nhờ hệ thống pháp luật, các chủ thể kinh tế được đảm bảo


15
quyền tự do và lợi ích hợp pháp, đồng thời họ cũng xác định được nghĩa vụ và
quyền hạn của mình trong mọi mặt của đời sống. Chẳng hạn, khi lưu thông trên
đường mà tất cả mọi người đều ý thức được rằng, việc tuân thủ theo đúng các quy
định Luật giao thông đường bộ là không chỉ đảm bảo an toàn cho tính mạng của
bản thân mình mà còn đảm bảo an toàn tính mạng cho người khác và toàn xã hội,
góp phần giảm thiểu thương vong do tai nạn giao thông gây ra.
Thứ hai, ý thức pháp luật trong đời sống chính trị: Giữ vị trí quan trọng là
bộ phận ý thức xã hội chủ đạo trong hệ thống ý thức xã hội. Ý thức pháp luật giúp

con người có khả năng nhận thức, đánh giá về đời sống pháp luật với các vấn đề
như tình trạng pháp chế, công tác tổ chức áp dụng và thi hành pháp luật của các cơ
quan nhà nước, tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của cá nhân, sự
công bằng trong việc áp dụng pháp luật đối với các cơ quan tổ chức xã hội.
Ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của cán bộ, công chức có ảnh hưởng
rất lớn đến bộ phận dân cư, chỉ cần một hành vi rất nhỏ để mưu cầu lợi ích cá nhân
của cán bộ, công chức sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ, vào nhà
nước. Vì vậy, những hành vi tiêu cực trong lĩnh vực giao thông đường bộ như: nạn
mãi lộ, bảo kê, quen biết….đặc biệt phê phán, lên án kịch liệt, xử lý theo đúng quy
định của pháp luật và ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ, công chức có ý thức cao, có
thái độ tôn trọng pháp luật và có hành vi tích cực chấp hành pháp luật thì sẽ tác
động rất tốt đến đời sống góp phần duy trì trật tự, kỷ cương xã hội.
Thứ ba, ý thức pháp luật trong đời sống văn hóa – tư tưởng: Ý thức pháp luật
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hình thái ý thức xã hội khác. Những quan điểm tư
tưởng pháp luật tiến bộ, khoa học góp phần củng cố, phát huy nhân tố tích cực ở
các hình thái ý thức xã hội khác, đồng thời khắc phục những quan niệm không phù
hợp, ảnh hưởng xấu đến lợi ích của các giai cấp, đến đời sống của cộng đồng và
tiến bộ xã hội. Ý thức pháp luật quyết định hiệu quả việc thực hiện pháp luật, đưa
pháp luật vào cuộc sống. Ý thức pháp luật là cơ sở văn hóa của con người khi con


16
người có ý thức tôn trọng nhau thông qua việc nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ
pháp luật.
Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, tiền đề tư tưởng trực tiếp
cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ý thức pháp luật
cao là điều kiện để việc biên soạn, ban hành pháp luật được tiến hành nhanh chóng
và thuận lợi. Nếu có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tình hình kinh tế - xã hội,
xác định đúng những quan hệ xã hội cơ bản cần có sự điều chỉnh của pháp luật, có
quy trình và kỹ thuật lập pháp khoa học, phù hợp thì hệ thống pháp luật của đất

nước sẽ được hoàn thiện.
Tóm lại, ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong đời sống. Song, để phát huy
tối đa các vai trò đó của ý thức pháp luật, chúng ta cần phải nâng cao ý thức pháp
luật của mọi tầng lớp dân cư. Đặc biệt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.1.2.2. Ý thức pháp luật với sự hình thành nhân cách con người
Nhân cách là những phẩm chất mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân được
biểu hiện ra bên ngoài thông qua những hành vi cụ thể của chủ thể. Bởi con người
luôn luôn tự chủ và ý thức được hành động của mình, và mỗi một hành vi của con
người klhi tham gia vào đời sống thực tiễn đều thể hiện quy mô và năng lực tư duy
của mình. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài, đầy
biến động phức tạp của con người. Nhân cách chính là thước đo của quá trình nhận
thức của con người khi hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng. Trong quá trình đó, ý
thức pháp luật có tác dụng điều chỉnh hành vi con người thông qua yếu tố tư tưởng,
tâm lý. Sức mạnh điều chỉnh ý thức pháp luật là sức mạnh tiềm ẩn trong nội tâm
con người. Đó là sức mạnh của lý trí, tình cảm có trong con người. Thực tế, người
có ý thức pháp luật đúng đắn, tiến bộ cũng sẽ là người có hành vi chuẩn mực trong
cuộc sống, ngược lại người có ý thức pháp luật hạn chế thì thường có những hành
vi nông cạn, vi phạm đến các quy định của pháp luật, gây mất trật tự xã hội.


17
Ý thức pháp luật là một trong những nhân tố giúp chủ thể tự điều chỉnh hành
vi của mình sao cho phù hợp với các quy định pháp luật. Bởi hành vi của chủ thể
vừa là hệ quả, vừa là thước đo đối với ý thức pháp luật. Và các giá trị mà ý thức
pháp luật đem lại trong hoạt động thực hiện pháp luật là biến tính bắt buộc của
pháp luật thành tính tự giác, tự nguyện thực hiện pháp luật của mọi người. Một xã
hội ổn định, có kỷ cương phải là một xã hội mà trong đó có những con người với
những nhân cách hoàn thiện, ý thức pháp luật cao và mọi tầng lớp dân cư đều ý
thức được rằng, tự do và lợi ích chính đáng của mình được đảm bảo bằng sự tôn

trọng tự do và lợi ích chính đáng của người khác. Tôn trọng và thực hiện đúng các
quy định của pháp luật nhằm tăng cường sự hiểu biết pháp luật, tạo năng lực đánh
giá đúng đắn các hành vi trong xã hội. Thực tế, nhiều người dân chưa có nhận thức
đúng và đầy đủ về pháp luật, họ chỉ thực sự quan tâm đến khi lợi ích của bản thân
bị xâm phạm hoặc bản thân họ đã có hành vi vi phạm pháp luật và muốn sử dụng
chính nó để làm giảm nhẹ tội cho mình. Một bộ phận nhân dân vì kém hiểu biết nên
vi phạm pháp luật, họ thường có tâm lý thờ ơ, lãnh đạm thậm chí coi thường pháp
luật, vi phạm các quy định của pháp luật đặc biệt vi phạm các quy định Luật giao
thông đường bộ, ví dụ như: Mặc dù biết rằng vượt đèn đỏ là vi phạm sẽ bị xử phạt
hành chính và nó cũng rất nguy hiểm cho tính mạng của bản thân và những người
đang tham gia giao thông nhưng họ cứ vô tư vi phạm nhiều lúc còn cho rằng đó là
hành vi thể hiện bản lĩnh hơn người. Đó là những hành vi kém văn hóa ảnh hưởng
đến nếp sống văn hóa, văn minh đô thị hiện nay.
1.2. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.2.1. Nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1.1. Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền
văn minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển lịch sử qua các thời


18
đại, các chế độ xã hội khác nhau, nó là một vấn đề rất quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn. Khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước công nguyên (tr.CN) thuật ngữ "dân
chủ" đã ra đời.
Theo Aristotle (khoảng năm 384-322 tr.CN) người đầu tiên đặt nền
móng cho nguyên lý dân chủ là Solon (khoảng năm 638-559 tr.CN). Solon muốn
xây dựng một nhà nước trên cơ sở một nền dân chủ - thông qua tuyển cử và hòa
nhập sức mạnh với pháp luật.
Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì

dân phải có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm "dân chủ"
(Demokratia). Xét về mặt ngữ nghĩa (Demokratia) trong tiếng Hy Lạp cổ đại là từ
ghép, được cấu từ hai từ gốc: Demos nghĩa là nhân dân và Kratos nghĩa là quyền
lực. Như vậy dân chủ (Demokratia) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
Với định nghĩa trên chúng ta thấy đã tồn tại ba vế trong hiện thực, đó là:
Nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa hai yếu tố đó. Ở mỗi thời đại
lịch sử khác nhau thì cách hiểu về khái niệm nhân dân và tính chất trực tiếp của
mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng sẽ khác nhau.
Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại với thời hiện
đại là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách
hiểu còn hạn hẹp về khái niệm nhân dân. Ngày nay, dân chủ hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, như dân chủ với tư cách là hình thức nhà nước, dân chủ với tư cách là
hình thức phi nhà nước, dân chủ là giá trị xã hội… Nhưng dân chủ với tư cách là
nhà nước vẫn là cốt lõi.
Nhà nước Aten ra đời, thuật ngữ "chế độ dân chủ" mới xuất hiện.
Khi xã hội có giai cấp và Nhà nước thì dân chủ mang hình thức chính trị,
trở thành một chế độ chính trị - chế độ dân chủ. "Chế độ dân chủ là chế
độ chính trị trong đó quyền lực của nhân dân được thừa nhận và được


×