Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu hành động quản trị lợi nhuận của các công ty trong 2 năm đầu niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.9 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
--------------

TRẦN THỊ THANH QUÝ

NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN CỦA
CÁC CÔNG TY TRONG 2 NĂM ĐẦU NIÊM YẾT TẠI SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Đà Nẵng – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
-------------TRẦN THỊ THANH QUÝ

NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN CỦA
CÁC CÔNG TY TRONG 2 NĂM ĐẦU NIÊM YẾT TẠI SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS. NGUYỄN
CÔNG PHƯƠNG

Đà Nẵng – 2012




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Tác giả luận văn

Trần Thị Thanh Quý


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu..................................................................2
4. Kết cấu của luận văn..........................................................................................................2
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP....................................................................................................................3
1.1. Quản trị lợi nhuận...........................................................................................................3
1.1.1. Định nghĩa quản trị lợi nhuận......................................................................................3
1.1.2. Mục tiêu quản trị lợi nhuận..........................................................................................3
1.2. Chính sách kế toán..........................................................................................................4
1.2.1. Chính sách ghi nhận doanh thu...................................................................................5
1.2.2. Chính sách ghi nhận chi phí.........................................................................................5

1.2.3. Quản trị lợi nhuận thông qua vận dụng các chính sách kế toán...............................15
1.3. Liên kết giữa kế toán và thuế và quản trị thu nhập chịu thuế thông qua lợi nhuận kế
toán.......................................................................................................................................18
1.3.1. Mục tiêu của thuế......................................................................................................19
1.3.2. Mục tiêu của kế toán.................................................................................................19
1.3.3. Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế...................................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1......................................................................................................31
CHƯƠNG 2 - GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................32
2.1. Giả thuyết nghiên cứu...................................................................................................32
2.2. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................35
2.2.1. Thu thập số liệu..........................................................................................................35


2.2.2. Mô hình nghiên cứu...................................................................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................................45
CHƯƠNG 3 - PHÂN TÍCH VÀ TRÌNH BÀY KẾT QUẢ...............................................46
3.1. Kết quả phân tích..........................................................................................................46
3.1.1. Đối với các công ty niêm yết năm 2004.....................................................................46
3.1.2. Đối với các công ty niêm yết năm 2005.....................................................................50
3.1.3. Đối với các công ty niêm yết năm 2006.....................................................................54
3.3. Kết luận.........................................................................................................................63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3......................................................................................................66
KẾT LUẬN.............................................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................69
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (Bản sao)
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTC


:

Bộ tài chính



:

Quyết định

TNDN

:

Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

TSCĐ

:

Tài sản cố định



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6

Tên bảng
Tóm tắt ví dụ về điều chỉnh lợi nhuận
Biến kế toán accruals
Kết quả nghiên cứu biến kế toán dồn tích của các công ty
niêm yết năm 2004
Tổng hợp kết quả sau khi kiểm định bằng mô hình Friedlan
đối với các công ty niêm yết năm 2004
Kết quả nghiên cứu biến kế toán dồn tích của các công ty
niêm yết năm 2005
Tổng hợp kết quả sau khi kiểm định bằng mô hình Friedlan
đối với các công ty niêm yết năm 2005
Kết quả nghiên cứu biến kế toán dồn tích của các công ty
niêm yết năm 2006
Tổng hợp kết quả sau khi kiểm định bằng mô hình Friedlan
đối với các công ty niêm yết năm 2006

Trang
34
39

47
48
51
52
55
56


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán việt nam đã ra đời và phát triền hơn 10 năm, các
doanh nghiệp tham gia trên thị trường ngày càng nhiều, quy mô doanh nghiệp ngày
càng lớn. Trong các thông tin được cung cấp trên thị trường thì thông tin kế toán
được báo cáo theo quý, năm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến quan hệ cung
cầu chứng khoán, là động lực cho quyết định mua vào hay bán ra của các nhà đầu tư
trên thị trường. Để khuyến khích sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng
thời tạo điều kiện cho các công ty tham gia niêm yết, Nhà nước đã có các chính
sách ưu đãi đối với các công ty niêm yết, trong đó quan trọng là việc giảm 50% thuế
thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu niêm yết trong giai đoạn 2004 - 2006. Nhờ
có chính sách trên mà số lượng công ty tham gia niêm yết trên thị trường tăng nhiều
so với trước. Một mặt chính sách của Nhà nước thúc đẩy thị trường chứng khoán
phát triển, tạo ra một kênh đầu tư mới hấp dẫn. Tuy nhiên trong hoàn cảnh đó cũng
thúc đẩy các công ty niêm yết được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp có
động cơ điều chỉnh lợi nhuận nhằm mục đích tối đa hóa giá trị lợi nhuận của doanh
nghiệp đồng thời tiết kiệm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này làm cho
báo cáo tài chính của công ty niêm yết thiếu tính trung thực và mất niềm tin của các
đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư, làm ảnh hưởng lâu dài đến
sự phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam nói riêng và Sở giao dịch

chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Do đó việc xác định các công ty
niêm yết có điều chỉnh lợi nhuận hay không để các đối tượng sử dụng thông tin có
nguồn thông tin chính xác để đưa ra các quyết định hợp lý. Đồng thời, từ kết quả
nghiên cứu của đề tài, các đối tượng tiếp nhận các thông tin từ báo cáo tài chính của
các công ty thấy được thực tế vấn đề điều chỉnh lợi nhuận hiện nay của các công ty
niêm yết trên thị trường trong bối cảnh được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.


2

2. Mục tiêu nghiên cứu
Khi luật thuế thu nhập quy định giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2
năm đầu của các công ty niêm yết trong giai đoạn 2004 - 2006, có nhiều khả năng
các công ty này sẽ điều chỉnh lợi nhuận. Vì vậy nghiên cứu hành động quản trị lợi
nhuận của các công ty trong 2 năm đầu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh giúp các nhà đầu tư đánh giá khách quan về tình hình kinh
doanh của các công ty và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, thu thập số liệu,
vận dụng các mô hình đã nghiên cứu để chứng minh số liệu và đưa ra kết luận.
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản trị lợi nhuận của các công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và các chính sách kế toán.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh
Phạm vi thời gian: 2 năm đầu niêm yết của các công ty niêm yết lần đầu trong
giai đoạn từ 2004 đến 2006
Đánh giá, xem xét có sự điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sở
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh hay không.
4. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, mở đầu, danh mục các chữ viết tắt và danh mục các
bảng biểu, luận văn được chia làm ba phần chính
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản trị lợi nhuận trong các doanh nghiệp
Kết luận chương 1
Chương 2: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
Kết luận chương 2
Chương 3: Phân tích và trình bày kết quả
Kết luận chương 3


3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Quản trị lợi nhuận
1.1.1. Định nghĩa quản trị lợi nhuận
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản trị lợi nhuận.
Quan điểm thứ nhất: Quản trị lợi nhuận là hành động điều chỉnh lợi nhuận kế
toán của nhà quản trị doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu thông qua
công cụ kế toán [10]
Quan điểm thứ hai, theo Schipper: Quản trị lợi nhuận là một sự can thiệp có
cân nhắc trong quá trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt được những mục
đích cá nhân (Schipper 1989)[8,tr.280].
Còn theo quan điểm của Scott: Quản trị lợi nhuận là hành động của nhà quản
trị nhằm đạt được mục tiêu nào đó có liên quan đến lợi nhuận, hoặc; Quản trị lợi
nhuận phản ánh hành động của nhà quản trị trong việc lựa chọn các phương pháp kế
toán để mang lại lợi ích cá nhân hoặc làm gia tăng giá trị thị trường của công ty
(Scott 1997)[8,tr280].
1.1.2. Mục tiêu quản trị lợi nhuận

Mục tiêu quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp trong từng thời điểm là
khác nhau. Động cơ của nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận kế toán có thể do tiền
thưởng tính trên hiệu quả kinh doanh, thu hút nguồn tài trợ từ bên ngoài (như nhà
đầu tư, ngân hàng), tối thiểu chi phí thuế,…..
Các công ty chuẩn bị cổ phần hóa hoặc niêm yết trên thị trường chứng khoán
cần thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài thì mục tiêu quản trị lợi nhuận có thể là tối đa
hóa lợi nhuận nhằm tăng khả năng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó
điều kiện niêm yết trên các thị trường còn đặt ra yêu cầu các doanh nghiệp này phải


4

làm ăn có lãi trong một số năm quy định vì vậy trong hoàn cảnh này mục tiêu của
doanh nghiệp là làm cho lợi nhuận của đơn vị đạt được điều kiện trên.
Hầu hết các doanh nghiệp muốn tối đa hóa lợi nhuận, nhất là các doanh
nghiệp có sự góp vốn của nhiều nhà đầu tư. Vì mục đích cuối cùng của các nhà đầu
tư này là lợi nhuận, nhưng nếu các chi phí của doanh nghiệp quá lớn sẽ làm cho lợi
nhuận còn lại ít, không đủ để chia lãi hoặc để trích lập các quỹ và nguồn vốn trong
doanh nghiệp. Vì vậy mục tiêu của các nhà quản trị là phải tối thiểu hóa các chi phí,
trong đó có chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, các nhà quản trị sẽ điều
chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp để làm thế nào đó chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp là thấp nhất.
Nhiều doanh nghiệp quy định mức lương, thưởng của các nhà quản trị gắn
liền với lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu mức lợi nhuận trong năm không đủ để
được tăng mức lương thưởng thì nhà quản trị có thể điều chỉnh để chuyển khoản lợi
nhuận này qua năm khác. Hoặc nếu mức lợi nhuận cao hơn mức được tăng lương
thưởng quy định thì phần lợi nhuận dôi ra này có thể được điều chỉnh để chuyển
qua năm khác.
Còn trong bối cảnh các công ty mới thành lập được ưu tiên miễn giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu thì việc điều chỉnh lợi nhuận là tất

yếu. Việc điều chỉnh này là làm tăng lợi nhuận ở các năm được ưu đãi về thuế làm
khoản chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là thấp hơn nhiều so với khi
không có sự điều chỉnh lợi nhuận.
1.2. Chính sách kế toán
Chính sách kế toán là các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể
được doanh nghiệp áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính (Theo
Chuẩn mực số 29 – Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót).
Các chính sách kế toán có thể được vận dụng một cách khéo léo để điều chỉnh lợi
nhuận trong kỳ của các doanh nghiệp. Cụ thể, mỗi chính sách kế toán có quy định
khác nhau mà kế toán dựa vào đó để có thể làm thay đổi lợi nhuận. Trong đó bao
gồm các chính sách về ghi nhận doanh thu và chi phí.


5

1.2.1. Chính sách ghi nhận doanh thu
Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ thực hiện trong nhiều kỳ kế toán
thì việc xác định doanh thu trong kỳ được thực hiện theo tỷ lệ công việc hoàn thành.
Theo phương pháp này doanh thu được ghi nhận trong kỳ kế toán được xác định
theo tỷ lệ phần trăm công việc đã hoàn thành. Phần công việc hoàn thành được xác
định theo một trong ba phương pháp tùy thuộc vào bản chất của dịch vụ:
+ Đánh giá phần công việc hoàn thành
+ So sánh tỷ lệ phần trăm (%) giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với
tổng khối lượng công việc phải hoàn thành.
+ Tỷ lệ phần trăm (%) chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để
hoàn thành toàn bộ sản phẩm, dịch vụ.
Phần công việc hoàn thành không phụ thuộc vào các khoản thanh toán định
kỳ hay ứng trước của khách hàng
Các phương pháp xác định phần công việc hoàn thành phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan của nhà quản trị. Các nhà quản trị có thể ghi nhận tăng doanh thu trong kỳ

so với thực tế bằng cách đánh giá phần công việc hoàn thành, tỷ lệ phần trăm (%)
khối lượng công việc đã hoàn thành với khối lượng công việc phải hoàn thành hoặc
tỷ lệ phần trăm (%) chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để hoàn thành
toàn bộ sản phẩm, dịch vụ tăng lên. Ngược lại có thể ghi nhận doanh thu giảm đi.
Việc xác định doanh thu ghi nhận trong kỳ sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán
trong kỳ, làm lợi nhuận kế toán trong kỳ tăng lên hoặc giảm xuống.
1.2.2. Chính sách ghi nhận chi phí
Tài sản cố định là bộ phận chủ yếu trong tổng tài sản và đóng vai trò quan
trọng trong việc thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy việc xác định
một tài sản có được ghi nhận là tài sản cố định hay chỉ là một khoản chi phí sản xuất
kinh doanh trong kỳ sẽ ảnh hưởng lớn đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp
1.2.2.1 Chính sách kế toán về tài sản cố định
+ Chính sách khấu hao tài sản cố định


6

Đối với khấu hao tài sản cố định hữu hình, giá trị phải khấu hao của tài sản
cố định hữu hình được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu
ích của chúng. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản
đem lại cho doanh nghiệp. Số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong kỳ, trừ khi chúng được tính vào giá trị của các tài sản khác
như: khấu hao tài sản cố định hữu hình dùng cho các hoạt động trong giai đoạn triển
khai là một bộ phận chi phí cấu thành nguyên giá tài sản cố định vô hình (theo
chuẩn mực số 4 - tài sản cố định vô hình) hoặc chi phí khấu hao tài sản cố định hữu
hình dùng cho quá trình tự xây dựng hoặc tự chế tạo các tài sản khác. Theo Quyết
định 203/2009/QĐ-BTC về Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố
định thì có 3 phương pháp khấu hao tài sản cố định:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần

- Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong ba phương pháp trên để tính và trích
khấu hao tài sản cố định. Tùy thuộc vào mục đích của doanh nghiệp mà doanh
nghiệp có thể lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp. Do việc trích khấu hao tài
sản cố định sẽ được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ, vì vậy lựa chọn
phương pháp khấu hao sẽ cho phép dịch chuyển lợi nhuận giữa các niên độ. Cụ thể
nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp trích khấu hao theo số dư giảm dần thì sẽ
làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong những năm đầu trích khấu hao hoặc áp dụng
phương pháp khấu hao đường thẳng sẽ làm cho phần khấu hao được ghi nhận vào
chi phí liền đều qua các năm.
Đối với khấu hao tài sản cố định vô hình: Giá trị phải khấu hao của TSCĐ vô
hình được phân bổ một cách có hệ thống trong suốt thời gian sử dụng hữu ích ước
tính hợp lý của nó. Theo chuẩn mực số 04 – Tài sản cố định vô hình, thời gian tính
khấu hao của TSCĐ vô hình tối đa là 20 năm. Việc tính khấu hao được bắt đầu bắt
đầu khi đưa TSCĐ vô hình vào sử dụng. Trong một số trường hợp, thời gian sử
dụng hữu ích của TSCĐ vô hình có thể vượt quá 20 năm khi có những bằng chứng


7

tin cậy, nhưng phải xác định được cụ thể. Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải:
khấu hao TSCĐ vô hình theo thời gian sử dụng hữu ích ước tính chính xác nhất; và
trình bày các lý do ước tính thời gian sử dụng hữu ích của tài sản trên báo cáo tài
chính. Việc trích khấu hao TSCĐ vô hình được ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ. Do đó lựa chọn phương pháp khấu hao và ước tính thời gian sử
dụng hữu ích của TSCĐ sẽ ảnh hưởng đến giá trị khấu hao cần trích lập từ đó ảnh
hưởng đến chi phí trong kỳ báo cáo.
Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian sử dụng
hữu ích của tài sản cố định, nếu trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô
hình, doanh nghiệp xét thấy có thể thay đổi cách thức ước tính về lợi ích kinh tế

trong tương lai mà doanh nghiệp dự tính thu được. Do đó có thể thay đổi phương
pháp khấu hao. Ví dụ phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần phù hợp hơn
phương pháp khấu hao đường thẳng (Theo chuẩn mực số 04 – Tài sản cố định vô
hình). Ngoài ra nếu thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khác biệt lớn so
với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng. Ví
dụ: Thời gian sử dụng hữu ích có thể tăng lên do đầu tư thêm chi phí làm tăng năng
lực của tài sản so với năng lực hoạt động được đánh giá ban đầu.
Tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể lựa chọn thay đổi
phương pháp khấu hao và thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản, việc lựa
chọn này nằm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi
phí ghi nhận trong kỳ để xác định lợi nhuận kỳ báo cáo.
+ Chính sách về sửa chữa TSCĐ
Để duy trì năng lực hoạt động cho TSCĐ trong suốt thời gian sử dụng doanh
nghiệp cần phải sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ. Có hai loại sửa chữa TSCĐ đó là sửa
chữa nhỏ và sửa chữa lớn. Với mỗi loại sửa chữa sẽ phát sinh chi phí sửa chữa. Tuy
nhiên, chi phí sửa chữa này được hạch toán vào chi phí khác nhau ứng với mỗi loại
sửa chữa. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ báo cáo.
- Đối với sửa chữa nhỏ TSCĐ: là loại sửa chữa có mức độ hư hỏng nhỏ, thời
gian sửa chữa ngắn, chi phí sửa chữa phát sinh ít. Do đó toàn bộ chi phí sửa chữa


8

nhỏ tài sản cố định doanh nghiệp hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong
kỳ
- Đối với sửa chữa lớn: là loại sửa chữa có mức độ hư hỏng nặng, thời gian
sửa chữa dài, chi phí sửa chữa phát sinh nhiều. Vì thế nếu doanh nghiệp chưa có kế
hoạch trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ thì toàn bộ chi phí này được tập hợp
và phân bố nhiều kỳ. Doanh nghiệp có thể lựa chọn số kỳ phân bổ tùy thuộc vào ý
muốn chủ quan của nhà quản trị. Song mức phân bổ chi phí sửa chữa trong từng kỳ

sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ đó [4]. Ngoài ra, doanh nghiệp có thế
ước tính trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh
tronh kỳ tại thời điểm chưa phát sinh chi phí sửa chữa lớn TSCĐ và mức chi phí
tính trích trước này sẽ làm gia tăng chi phí trong kỳ từ đó làm giảm lợi nhuận của
kỳ báo cáo. Đây cũng là một trong số các lựa chọn, các nhà quản trị doanh nghiệp
có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận kế toán theo ý muốn chủ quan của họ.
1.2.2.2. Chính sách kế toán liên quan đến hàng tồn kho
+ Xác định giá vốn hàng xuất kho
Có bốn phương pháp tính giá hàng xuất kho gồm: phương pháp nhập trước –
xuất trước, phương pháp nhập sau – xuất trước, phương pháp bình quân gia quyền,
phương pháp thực tế đích danh. Với mỗi phương pháp mà đơn vị áp dụng sẽ cho giá
trị hàng xuất kho khác nhau. Tùy theo đặc điểm của hàng tồn kho, mục đích của
doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho
phù hợp. Việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho sẽ ảnh hưởng đến giá
vốn hàng bán ra từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ. Mặt khác, khi doanh
nghiệp xuất bán hàng tồn kho, giá gốc của hàng tồn kho đã bán được ghi nhận vào
chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phù hợp với doanh thu của hàng tồn kho được
ghi nhận. Điều này có nghĩa là giá gốc của hàng tồn kho được ghi nhận vào chi phí
trong kỳ khi việc xuất bán hàng tồn kho đã xác định tiêu thụ. Khi đơn vị xuất hàng
gửi bán thì giá gốc hàng xuất bán chưa xác định tiêu thụ nên không được hạch toán
vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Việc có hạch toán giá vốn hàng tồn kho


9

vào chi phí hay không sẽ làm chi phí trong kỳ thay đổi và sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận kỳ báo cáo [4].
+ Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Theo chuẩn mực số 03 – Hàng tồn kho và Thông tư số 107/2001/TT-BTC
ngày 31/12/2001 của Bộ Tài Chính hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các

khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán đầu tư, dự phòng nợ
khó đòi tại doanh nghiệp; Thông tư số 13/2006/TT-BTC – Hướng dẫn chế độ trích
lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu
tư tài chính, nợ khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp tại
doanh nghiệp, cuối kỳ kế toán năm đối với các doanh nghiệp, đối với các doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ
thì được trích lập và hoàn nhập dự phòng ở cả thời điểm lập báo cáo tài chính giữa
niên độ khi giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho nhỏ hơn giá gốc thì
phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Mức dự phòng giảm giá hàng tồn kho
được tính theo công thức:
Mức dự phòng
giảm giá vật tư
hàng hóa

=

Lượng vật tư hàng

Giá gốc hàng

hóa thực tế tồn kho

tồn kho theo

tại thời điểm lập báo

x

sổ kế toán


Giá trị thuần có thể
- thực hiện được của

hàng tồn kho
cáo tài chính
Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí

liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái
hiện tại theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 02 - Hàng tồn kho ban hành kèm
theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính. Giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho (giá trị dự kiến thu hồi)
là giá bán (ước tính) của hàng tồn kho trừ (-) chi phí để hoàn thành sản phẩm và chi
phí tiêu thụ (ước tính) theo Chuẩn mực kế toán số 02 - Hàng tồn kho ban hành kèm
theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính. Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho được lập là số chênh lệch giữa giá gốc
của hàng tồn kho lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được. Việc lập dự phòng


10

giảm giá hàng tồn kho sẽ làm cho chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ tăng lên, từ
đó làm ảnh hưởng đến lợi nhuận. Mức trích lập dự phòng doanh nghiệp có thể vận
dụng linh hoạt tùy thuộc vào mức ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được của
hàng tồn kho [12].
Cuối kỳ kế toán tiếp theo, doanh nghiệp phải thực hiện đánh giá mới về giá
trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho cuối năm đó. Trường hợp cuối kỳ
kế toán năm nay, nếu khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập thấp hơn mức
dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế toán năm trước đó thì số chênh
lệch lớn hơn phảo được hoàn nhập để đảm bảo cho giá trị của hàng tồn kho phản
ánh trên báo cáo tài chính theo giá gốc (nếu giá gốc nhỏ hơn giá trị thuần có thể

thực hiện được) hoặc theo giá trị thuần có thể thực hiện được (nếu giá gốc lớn hơn
giá trị thuần có thể thực hiện được) Theo chuẩn mực số 03 – Hàng tồn kho và
Thông tư số 107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ Tài chính; Thông tư Số:
13/2006/TT-BTC. Việc hoàn nhập hay trích lập thêm dự phòng trong năm tiếp theo
cũng tùy thuộc vào mức lựa chọn theo ý muốn chủ quan của các nhà quản trị. Do
vậy, đối với việc trích lập và hoàn nhập dự phòng chuẩn mực kế toán luôn tạo ra
khoảng không tự do cho các doanh nghiệp lựa chọn. Mỗi sự lựa chọn đều ảnh
hưởng trực tiếp đến việc ghi nhận chi phí trong kỳ từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận.
1.2.2.3. Chính sách kế toán về chi phí vốn vay
Chi phí đi vay bao gồm lãi tiền vay và các khoản chi phí phát sinh liên quan
trực tiếp đến các khoản vay của doanh nghiệp, bao gồm: lãi tiền vay, chi phí phát
sinh liên quan đến thủ tục vay, trả lãi vay định kỳ về thuê tài chính,…Theo quy định
của chuẩn mực kế toán số 16 – Chi phí đi vay và Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC
ngày 31/12/2002 , đối với các khoản chi phí đi vay phát sinh trong kỳ doanh nghiệp
cần phân biệt khoản chi phí nào được vốn hóa vào nguyên giá TSCĐ, khoản chi phí
nào không được phép và chỉ được ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh trong
kỳ. Việc phân biệt này ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ báo cáo vì giả thuyết rằng tất cả
các khoản chi phí đi vay phát sinh trong kỳ đều được ghi nhận vào chi phí tài chính


11

làm cho chi phí tăng lên và giảm lợi nhuận trong kỳ. Việc xác định khoản chi phí đi
vay nào được vốn hóa, khoản chi phí nào không được vốn hóa, thời điểm vốn hóa,
thời điểm nào chấm dứt việc vốn hóa thì những điều này doanh nghiệp có thể lựa
chọn. Ví dụ, chi phí đi vay liên quan đến việc mua một mảnh đất cần có các hoạt
động chuẩn bị mặt bằng sẽ được vốn hóa trong kỳ khi các hoạt động liên quan đến
việc chuẩn bị mặt bằng đó. Tuy nhiên, chi phí đi vay phát sinh khi mua mảnh đất đó
để giữ mà không có hoạt động triển khai xây dựng liên quan đến mảnh đất đó thì
chi phí đi vay không được vốn hóa. Tuy vậy việc có hoạt động chuẩn bị mặt bằng

hay không tùy theo ý muốn chủ quan của chủ doanh nghiệp [4].
1.2.2.4. Chính sách kế toán về lợi thế thương mại
Lợi thế thương mại là một tài sản vô hình nhưng là một tài sản đặt biệt chỉ
phát sinh khi có các nghiệp vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Hiểu một cách đơn
giản thì lợi thế thương mại là phần chênh lệch giữa số tiền mà một doanh nghiệp bỏ
ra để mua một doanh nghiệp không trùng với giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp
được mua [4].
Lợi thế thương mại được ghi nhận ngay vào chi phí sản xuất kinh doanh nếu
có giá trị nhỏ hoặc phải phân bổ dần trong suốt thời gian hữu ích ước tính nếu giá trị
lớn. Thời gian sử dụng hữu ích phải phản ảnh được ước tính đúng đắn về thời gian
thu hồi lợi ích kinh tế có thể mang lại cho doanh nghiệp tối đa 10 năm (Theo chuẩn
mực số 11 – Hợp nhất kinh doanh).
Lợi thế thương mại sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh hay thu nhập trước thuế của doanh nghiệp dưới hình thức phân bổ dần
vào chi phí hay ghi nhận ngay phần giảm sút về mặt giá trị hợp lý của lợi thế
thương mại như là một khoản chi phí. Thời gian phân bổ và phương pháp phân bổ
lợi thế thương mại phải được xem xét lại cuối mỗi năm tài chính. Nếu thời gian sử
dụng hữu ích của lợi thế thương mại khác biệt lớn so với ước tính ban đầu thì phải
thay đổi thời gian phân bổ. Nếu có sự thay đổi lớn về cách thức thu hồi lợi ích kinh
tế trong tương lai do lợi thế thương mại đem lại thì phương pháp phân bổ cũng phải


12

thay đổi. Trường hợp này phải điều chỉnh chi phí phân bổ của lợi thế thương mại
cho năm hiện hành và các năm tiếp theo và phải được thuyết minh trong báo cáo tài
chính (Theo chuẩn mực số 11 – Hợp nhất kinh doanh).
1.2.2.5. Chính sách kế toán đối với giao dịch bằng ngoại tệ
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể phát sinh các nghiệp vụ
kinh tế bằng ngoại tệ. Doanh nghiệp đồng thời theo dõi nguyên tệ vừa phải quy đổi

sang đồng Việt Nam. Việc quy đổi ra đồng Việt Nam sẽ làm phát sinh chênh tỷ giá
hối đoái (Chuẩn mực số 10 - ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái). Khoản
chênh lệch này tùy theo từng trường hợp cụ thể sẽ được hạch toán vào doanh thu
hoặc chi phí. Khi doanh nghiệp phát sinh các nghiệp vụ xuất ngoại tệ, tỷ giá xuất
ngoại tệ được xác định theo một trong bốn phương pháp giống như hàng tồn kho:
nhập trước – xuất trước, nhập sau – xuất trước, bình quân gia quyền, thực tế đích
danh. Khi doanh nghiệp áp dụng phương pháp khác nhau sẽ dẫn đến tỷ giá xuất
ngoại tệ khác nhau. Vì thế, tùy theo tỷ giá ngoại tệ trên thị trường và tùy vào từng
điều kiện cụ thể, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp này hoặc phương pháp
khác. Việc lựa chọn các phương pháp này ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu hoặc
chi phí phát sinh trong kỳ và làm lợi cho lợi nhuận tăng lên hoặc giảm xuống [4].
Theo hướng dẫn của Thông tư 201/2009/TT-BTC: Hướng dẫn xử lý các
khoản chênh lệch tỷ giá trong doanh nghiệp.
a. Xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái của nghiệp vụ ngoại tệ trong kỳ:
+ Trong giai đoạn đầu tư xây dựng để hình thành tài sản cố định của doanh
nghiệp mới thành lập:
Trong giai đoạn đầu tư xây dựng để hình thành tài sản cố định của doanh
nghiệp mới thành lập, chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh khi thanh toán các khoản
mục tiền tệ có gốc ngoại tệ để thực hiện đầu tư xây dựng và chênh lệch tỷ giá hối
đoái phát sinh khi đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài
chính được phản ánh lũy kế, riêng biệt trên Bảng cân đối kế toán. Khi tài sản cố
định hoàn thành đầu tư xây dựng đưa vào sử dụng thì chênh lệch tỷ giá hối đoái


13

phát sinh trong giai đoạn đầu tư xây dựng được phân bổ dần vào thu nhập hoặc chi
phí sản xuất, kinh doanh cụ thể:
- Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng được phân bổ dần vào thu nhập
tài chính của doanh nghiệp, thời gian phân bổ không quá 5 năm kể từ khi công trình

đưa vào hoạt động.
- Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm được phân bổ dần vào chi phí
tài chính của doanh nghiệp, thời gian phân bổ không quá 5 năm kể từ khi công trình
đưa vào hoạt động.
+ Thời kỳ doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh:
Trong giai đoạn sản xuất, kinh doanh, kể cả việc đầu tư xây dựng để hình
thành tài sản cố định của doanh nghiệp đang hoạt động, chênh lệch tỷ giá hối đoái
phát sinh khi thanh toán các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ sẽ được ghi nhận là
thu nhập hoặc chi phí trong năm tài chính cụ thể:
Đối với nợ phải thu:
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng tính vào thu nhập tài chính trong
kỳ.
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm tính vào chi phí tài chính trong
kỳ.
Đối với nợ phải trả:
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm tính vào thu nhập tài chính trong
kỳ.
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng tính vào chi phí tài chính trong
kỳ.
+ Thời kỳ giải thể, thanh lý doanh nghiệp:
Đối với nợ phải thu:
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng tính vào thu nhập thanh lý doanh
nghiệp.
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm tính vào chi phí thanh lý doanh
nghiệp.


14

Đối với nợ phải trả:

Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm tính vào thu nhập thanh lý doanh
nghiệp.
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng tính vào chi phí thanh lý doanh
nghiệp.
+ Chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong kỳ do việc mua, bán ngoại tệ:
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng tính vào thu nhập tài chính trong
kỳ.
Trường hợp chênh lệch tỷ giá hối đoái giảm tính vào chi phí tài chính trong
kỳ.
b. Xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối
kỳ:
Cuối kỳ kế toán, doanh nghiệp phải quy đổi số dư tiền mặt, tiền gửi, tiền
đang chuyển, các khoản nợ phải thu, nợ phải trả có gốc ngoại tệ ra "đồng Việt Nam”
theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Nhà nước công bố. Khoản chênh lệch giữa
tỷ giá sau khi quy đổi với tỷ giá đang hạch toán trên sổ kế toán được xử lý như sau:
+ Đối với chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh do việc đánh giá lại số dư
cuối năm là: Tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển, các khoản nợ ngắn hạn (1 năm trở
xuống) có gốc ngoại tệ tại thời điểm lập báo cáo tài chính thì không hạch toán vào
chi phí hoặc thu nhập mà để số dư trên báo cáo tài chính, đầu năm sau ghi bút toán
ngược lại để xoá số dư.
+ Đối với chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh do việc đánh giá lại số dư
cuối năm của các khoản nợ dài hạn (trên 1 năm) có gốc ngoại tệ tại thời điểm lập
báo cáo tài chính thì được xử lý như sau:
- Đối với các khoản nợ phải thu dài hạn:
Đối với các khoản nợ phải thu bằng ngoại tệ, công ty phải đánh giá lại số dư
cuối năm của các loại ngoại tệ, sau khi bù trừ, chênh lệch còn lại được xử lý như
sau:


15


Trường hợp chênh lệch tăng được hạch toán vào thu nhập tài chính trong
năm.
Trường hợp chênh lệch giảm được hạch toán vào chi phí tài chính trong năm.
- Đối với các khoản nợ phải trả dài hạn:
Đối với khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ, công ty phải đánh giá lại số dư cuối
năm của các loại ngoại tệ, sau khi bù trừ, chênh lệch còn lại được xử lý như sau:
Trường hợp chênh lệch tăng tỷ giá hối đoái thì chênh lệch tỷ giá hạch toán
vào chi phí tài chính trong năm và được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu
nhập doanh nghiệp. Trường hợp hạch toán chênh lệch tỷ giá hối đoái vào chi phí
làm cho kết quả kinh doanh của công ty bị lỗ thì có thể phân bổ một phần chênh
lệch tỷ giá cho năm sau để công ty không bị lỗ nhưng mức hạch toán vào chi phí
trong năm ít nhất cũng phải bằng chênh lệch tỷ giá của số dư ngoại tệ dài hạn phải
trả trong năm đó. Số chênh lệch tỷ giá còn lại sẽ được theo dõi và tiếp tục phân bổ
vào chi phí cho các năm sau nhưng tối đa không quá 5 năm.
Trường hợp chênh lệch giảm thì được hạch toán vào thu nhập tài chính.
1.2.3. Quản trị lợi nhuận thông qua vận dụng các chính sách kế toán
1.2.3.1. Lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và ước tính các
khoản chi phí, doanh thu
Nhà quản trị DN có thể lựa chọn thời điểm và cách thức ghi nhận các sự kiện
có liên quan đến chỉ tiêu lợi nhuận trong kỳ bằng cách lựa chọn thời điểm ghi nhận
doanh thu và chi phí trong kỳ.
Việc vận dụng các phương pháp kế toán thông qua ghi nhận các khoản chi
phí bằng việc trích lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các
khoản phải thu khó đòi hoặc dự phòng các khoản đầu tư tài chính ngắn và dài hạn.
Các chi phí này có thể thay đổi qua thời điểm trích lập, mức trích lập và thời điểm
hoàn nhập các khoản dự phòng này. Khi các chi phí này thay đổi có thể làm thay đổi
lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một số loại chi phí có thể được ghi nhận thông qua các ước tính
như: trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân, trích trước chi phí sửa chữa



16

lớn TSCĐ, trích trước chi phí bảo hành sản phẩm, ước tính tỷ lệ chi phí đã bỏ ra so
với hợp đồng trong xây lắp. Việc ước tính các khoản chi phí này phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của nhà quản trị.
Không chỉ các chi phí có thể ước tính mà các khoản doanh thu, thu nhập của
doanh nghiệp cũng có thể được ghi nhận thông qua các ước tính kế toán như ước
tính doanh thu theo tỷ lệ hoàn thành trong xây lắp và cung cấp dịch vụ. Việc ghi
nhận các khoản doanh thu này cũng có thể được điều chỉnh.
Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ cũng có thể được thực hiện để
điều chỉnh chi phí khấu hao (mặc dù phạm vi không lớn) [5]
Việc phân loại thuê tài sản thành thuê tài chính hoặc thuê hoạt động cũng có
thể thực hiện điều chỉnh chi phí khấu hao. Vốn hóa hoặc không vốn hóa các chi phí
triển khai, chi phí vốn vay sẽ làm thay đổi nguyên giá tài sản cố định và như vậy sẽ
làm thay đổi mức trích khấu hao trong kỳ.
1.2.3.2. Lựa chọn thời điểm thực hiện các giao dịch
Phương pháp này liên quan đến các quyết định kinh doanh, tài chính và đầu
tư hơn là lựa chọn chính sách kế toán.
+ Lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định
Lựa chọn thời điểm mua hay thanh lý, nhượng bán tài sản cố định cũng có ảnh
hưởng đến lợi nhuận kế toán. Việc đầu tư mua sắm tài sản cố định sẽ ảnh hưởng đến
chi phí khấu hao tài sản cố định và tất nhiên ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ. Nếu muốn điều chỉnh tăng lợi nhuận thì phải trì hoãn việc đầu tư
mua sắm tài sản cố định. Nhà quản trị quyết định thời gian thanh lý, nhượng bán tài
sản cố định có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm lại việc ghi nhận doanh thu khác và
thu nhập khác trong kỳ, làm thay đổi lợi nhuận kế toán.
Đẩy nhanh hay làm chậm việc gửi hàng cho khách hàng vào thời điểm gần
cuối niên độ cũng có thể ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận báo cáo trong kỳ [5],

[11].
+ Lựa chọn thời điểm và mức độ đầu tư chi phí nghiên cứu, triển khai.


17

Các chi phí này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp về
lâu dài. Trong một vài trường hợp có thể cắt giảm các chi phí này để tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, quyết định này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp và
doanh nghiệp phải hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai. Đồng
thời nhà quản trị có thể quyết định chuyển dịch về sau (hoặc ghi nhận sớm hơn) các
loại chi phí này sẽ làm giảm (hoặc tăng) chi phí của niên độ hiện hành [5], [11]
+ Dịch chuyển thời gian ghi nhận một số chi phí.
Một số loại chi phí phát sinh liên quan đến nhiều kỳ kế toán bao gồm: chi phí
bảo hiểm hỏa hoạn, giá trị công cụ dụng cụ phân bổ cho nhiều kỳ, chi phí sửa chữa
lớn tài sản cố định, chi phí quảng cáo, chi phí bảo hành sản phẩm. Việc dịch chuyển
thời gian ghi nhận chi phí sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ. Tùy theo mục đích
của nhà quản trị những loại chi phí này có thể được ghi nhận vào niên độ phát sinh
hoặc phân bổ cho một số kỳ (dựa vào nguyên tắc phù hợp) [5], [11].
+ Bán các khoản đầu tư hiệu quả
Các khoản đầu tư là những khoản mang lại lợi nhuận đồng thời giúp doanh
nghiệp phân tán rủi ro. Tuy nhiên khi cần gia tăng lợi nhuận cho năm hiện tại,
doanh nghiệp có thể bán các khoản đầu tư đang sinh lời, việc này làm gia tăng
doanh thu trong kỳ. Nhưng động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, áp
dụng biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ
các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo [11].
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể trì hoãn bán các khoản đầu tư không hiệu
quả, việc làm này không tốt cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc trì hoãn này có thể
giúp doanh nghiệp tránh được việc giảm lợi nhuận trong kỳ hiện tại.
+ Sử dụng chính sách giá và tín dụng

Một biện pháp các doanh nghiệp thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có
nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín
dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Biện
pháp thứ hai là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng lợi nhuận
Quí IV/2007, một công ty sản xuất ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí


18

I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 sẽ tăng vọt. Hai biện pháp này cho phép
công ty tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì
thực chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm sau sang năm hiện tại. Mặt khác,
tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường
[11].
+ Sản xuất vượt mức công suất tối ưu
Thông thường mỗi doanh nghiệp xác định một mức công suất tối ưu đối với
từng loại máy móc thiết bị tùy thuộc vào năng lực nội tại và điều kiện thị trường.
Tuy nhiên, công ty có thể sản xuất vượt mức công suất tối ưu để tận dụng chi phí cố
định nhằm hạ giá thành đơn vị sản phẩm nếu muốn tăng lợi nhuận. Đó là trong điều
kiện doanh nghiệp có thể bán ra các sản phẩm vượt công suất. Ngược lại, khi các
sản phẩm này sản xuất ra nhiều, nếu không bán được sẽ phát sinh chi phí bảo quản
và hàng tồn kho lâu ngày sẽ bị giảm giá trị. Ngoài ra, sản xuất vượt mức công suất
tối ưu sẽ làm cho máy móc thiết bị làm việc quá mức, ảnh hưởng đến năng suất và
độ bền [11]
+ Điều chỉnh thời điểm lập hóa đơn bán hàng, doanh nghiệp có thể điều chỉnh
thời điểm lập hóa đơn lệch vài ngày có thể làm gia tăng hoặc giảm doanh thu trong
kỳ [5], [11]. Vì theo quy định của kế toán doanh thu được ghi nhận dựa vào thời
điểm lập hóa đơn bán hàng.
1.3. Liên kết giữa kế toán và thuế và quản trị thu nhập chịu thuế thông qua lợi
nhuận kế toán.

Thuế và kế toán có mục tiêu khác nhau và có các nguyên tắc khác nhau. Các
khái niệm, các nguyên tắc của thuế và kế toán không phải lúc nào cũng giống nhau,
phù hợp với nhau. Bởi vì thuế do Nhà nước ban hành các luật, các văn bản hướng
dẫn thi hành. Còn kế toán phải được thực hiện theo các nguyên tắc của luật kế toán,
các chuẩn mực kế toán khác với thuế. Tuy nhiên các mối quan hệ của thuế và kế
toán đều dùng thước đo giá trị, đều nhằm đo lường lợi nhuận hàng năm của doanh
nghiệp. Và khi có sự khác biệt trong phương pháp tính toán hoặc trong kết quả thì
cả thuế và kế toán đều phải chấp nhận sự khác biệt đó. Thuế cũng là một yếu tố của


×