Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐỀ tài TIỂU LUẬN KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89 KB, 10 trang )

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ FDI
1.1. Khái niệm FDI
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài
đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành
hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương
mại.
1.2. Bản chất của FDI
Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là sự di chuyển một khối lượng nguồn
vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đó chính là hình
thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao. Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công
nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩu mạnh mẽ quá trình CNH-HĐH ở
nước nhận đầu tư.
FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kế đối với việc quản
lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác. Tiếng nói hiệu quả trong quản lý phải đi
kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là FDI.
1.3. Đặc điểm của FDI
- Chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích lợi nhuận.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp
định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành toàn quyền
kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp đầu tư.
- Tỷ lệ góp vốn của các chủ đầu tư quy định quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời lợi
nhuận và rủi ro cũng được phân chia theo tỷ lệ này.Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc
vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập
kinh doanh.
1


- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh, tự chịu trách


nhiệm về lỗ lãi.
- FDI không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền
kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp, vốn đầu tư từ lợi
nhuận thu được.
- Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến,
học hỏi kinh nghiệm quản lý…
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ
bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh.
1.4. Các hình thức FDI tại Việt Nam.
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của
nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng
BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
1.5. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
Ba mươi năm là thời gian đủ dài để đánh giá đúng tầm quan trọng của khu vực kinh
tế đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như tiếp
cận khách quan và khoa học các vấn đề gắn với thu hút FDI để rút ra bài học kinh
nghiệm, từ đó hình thành định hướng và chính sách mới đối với FDI.
Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, trong khi doanh nghiệp nhà nước sử dụng
nguồn lực quốc gia lớn nhất đang trong quá trình cơ cấu lại chưa có hiệu quả; kinh tế tư
nhân tuy đã gia tăng nhanh chóng về số lượng, hình thành một số tập đoàn lớn nhưng đại
2



bộ phận là doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, thì khu vực FDI là động lực tăng trưởng ổn
định của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp ngày càng nhiều vào giá trị sản lượng công
nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu, thu ngân sách nhà nước và tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Khi xem xét giá trị của FDI dưới các góc độ khác nhau, các nhà kinh tế và quản lý có
những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi nhận định về giá trị của nó đối
với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, không nhiều thì ít, FDI cũng đã đem lại
những giá trị tích cực cho nền kinh tế, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Xu hướng vận động của tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng vốn FDI thực hiện tại
Việt Nam về cơ bản là cùng pha với nhau. Chỉ có năm 2008 trong khi vốn thực hiện FDI
tăng mạnh nhưng do chính sách kiềm chế lạm phát của Chính phủ và suy thoái kinh tế
toàn cầu, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh so với năm 2007. Nhìn dài hạn,
chúng ta có thể khẳng định rằng, FDI là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Mặt khác, tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP năm sau cao hơn năm trước.
Nếu năm 1992, tỷ lệ này là 2% thì đến năm 2005 đạt khoảng 15%, năm 2015 là trên
17%. Điều này khẳng định vị trí, vai trò của khu vực FDI trong nền kinh tế quốc dân.
Khu vực FDI cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách với giá trị ngày càng
tăng. Giai đoạn 1994-2000 là 1,8 tỷ USD, tăng lên 14,2 tỷ USD trong giai đoạn 20012010 và 28,7 tỷ USD trong giai đoạn 2011-2017.
Hai là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
FDI là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm
mới, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành
công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như: dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép,
ximăng…, làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân nhờ có cơ cấu kinh tế
tiến bộ hơn.
FDI cũng góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa
sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ
3



tiên tiến, giống cây, con có năng suất chất lượng cao. Các doanh nghiệp FDI đã tập trung
đầu tư vào một số ngành quan trọng trong nông nghiệp và nông thôn, như: chế biến
nông sản sau thu hoạch, chế biến thức ăn gia súc,… tạo ra nhiều loại sản phẩm mới và
tăng khả năng cạnh tranh của nông sản.
Trong lĩnh vực dịch vụ, FDI làm xuất hiện nhiều dịch vụ mới có chất lượng cao,
như: ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, vận tải biển, logistic, khách sạn, văn phòng, căn
hộ cho thuê... Một số ngành đạt tiêu chuẩn quốc tế, từng bước tạo điều kiện cho thị
trường dịch vụ phát triển và tăng khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, tăng quy mô vốn đầu tư cho nền kinh tế
Với Việt Nam, đang trong quá trình đẩy manh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nên nhu
cầu về vốn của nền kinh tế quốc dân là rất lớn, FDI đã bổ sung phần nào đáng kể nhu
cầu đó. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nguồn vốn FDI giữ một vai trò quan trọng, thể
hiện qua tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của khu vực này ngày càng tăng lên.
Trong giai đoạn 2011-2017, khu vực FDI đóng góp trên 22% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội. Tuy nhiên, dù vốn FDI là ngoại lực quan trọng cho quá trình đầu tư phát triển nền
kinh tế quốc dân, nhưng cần lưu ý nếu chúng ta sử dụng không có hiệu quả sẽ tác động
xấu đến quy hoạch, làm mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu vùng, có thể gây ô
nhiễm môi trường và tiếp thu những công nghệ lạc hậu.
Bốn là, nâng cao trình độ công nghệ
FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển năng lực công nghệ của nước tiếp nhận
đầu tư. Thông qua FDI, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế
giới để phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ hiện đại, như: cơ khí chính xác,
điện tử, công nghiệp phần mềm, bưu chính - viễn thông, công nghệ sinh học… FDI còn
góp phần thúc đẩy phát triển nhanh các khu chế xuất, khu công nghiệp với trình độ công
nghệ tiên tiến. Nhiều công nghệ mới và hiện đại đã được chuyển giao thông qua hoạt
động FDI, tạo bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển một số ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận việc chuyển giao những công nghệ mới, có tính cạnh

tranh cao thường khó thực hiện được, vì các công ty này sợ lộ bí mật hoặc mất bản
4


quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến và nhái lại công nghệ của các công ty nước
chủ nhà. Đây chính là hạn chế cơ bản trong chuyển giao công nghệ thông qua FDI.
Năm là, thúc đẩy xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế
Những năm qua, hàng hóa xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI đã “biến” bạn
hàng của họ thành bạn hàng của Việt Nam, quảng bá thương hiệu quốc gia, trở thành
“cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác với
nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ lớn trên
thế giới, từng bước nâng cao thế và lực của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thực tế ở Việt Nam đã chứng minh điều này, trước năm 1987 (năm có Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam rất nhỏ bé và đơn điệu về
chủng loại hàng hóa, hầu hết là sản phẩm thô, chưa qua sơ chế hoặc mức độ chế biến
thấp. Ngoài dầu thô và gạo, không có mặt hàng xuất khẩu nào vượt quá 100 triệu
USD/năm. Khi các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đi vào giai đoạn phát triển, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này đã góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu chung
của cả nước. Từ năm 1991 đến 1995 xuất khẩu của khu vực FDI đạt trên 1,12 tỷ USD,
đến giai đoạn 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và
chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong giai đoạn 2011-2015, cũng không
ngừng tăng lên, năm 2015 đạt gần 80 tỷ USD và 67,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước. Nhờ xuất khẩu từ khu vực FDI, cán cân thương mại không những được cải thiện,
mà còn tạo ra xuất siêu trong vài năm gần đây.
Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng, nếu năm 1990 tỷ lệ
lao động trong khu vực này chỉ chiếm 0,04% lực lượng lao động cả nước, thì đến năm
2007 tỷ lệ này là 1,6%. Năm 2010, khu vực FDI đã thu hút trên 1,7 triệu lao động trực
tiếp, trong đó lao động trực tiếp làm việc trong khu vực công nghiệp chiếm gần 80%,

năm 2015 là 2,2 triệu lao động, chiếm 4,2% so với cả nước. Ngoài ra, FDI còn tạo việc
làm cho khoảng 2,5 triệu lao động gián tiếp. Khu vực FDI được xem là tiên phong trong
việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật
5


viên, cán bộ quản lý. Một bộ phận trong đó đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học,
công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG.
1.1. Thực trạng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam trong những năm qua.
Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút FDI như chính trị ổn định, tài nguyên thiên
nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, tăng trưởng thị trường khá nhanh... Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời năm 1987.
Giai đoạn 1988-1990, kết quả thu hút FDI còn hạn chế, chỉ có 211 dự án với tổng vốn
đăng ký đạt 1.603,5 triệu USD. Đầu tư nước ngoài giai đoạn này chưa thực sự tác động
đến tình hình kinh tế xã hội giai đoạn này.
Tuy nhiên, giai đoạn 1991-1995, FDI vào Việt Nam đã tăng vượt bậc với 1.409 dự
án, với tổng số vốn đăng ký là 18.379,1 triệu USD. Đây có thể coi là thời kỳ bắt đầu sự
bùng nổ FDI tại Việt Nam. Giai đoạn này môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam bắt
đầu hấp dẫn nhà đầu tư, do chi phí đầu tư – kinh doanh thấp so với một số nước trong
khu vực; lực lượng lao động với giá nhân công rẻ có sẵn; nhiều thị trường tiềm năng
chưa được khai thác.
Bên cạnh đó, các yếu tố bên ngoài cũng đã đóng góp làm gia tăng FDI như: Làn sóng
vốn FDI chảy dồn về các thị trường mới nổi trong đầu những năm 90; Dòng vốn nước
ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, cũng được hưởng nhiều lợi
thế từ các yếu tố này. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng vốn FDI hàng năm khá
cao, nhiều năm đạt trên 50%, đặc biệt là năm 1995 thu hút được 415 dự án, với tổng số
vốn đăng ký là 7.925,2 triệu USD, tăng trưởng 85,95% so với số vốn đăng ký năm 2014.

Giai đoạn 1996-2000, FDI có sự sụt giảm cả về số vốn đăng ký lẫn quy mô dự án.
Tốc độ tăng trưởng vốn FDI đăng ký cao nhất giai đoạn này là năm 1996, tăng 21,58%
so với năm 1995. Trong 3 năm tiếp theo (1997-1999), tốc độ thu hút FDI đều giảm, năm
1997 giảm nhiều nhất 38,19%.
6


Nguyên nhân của tình trạng trên là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ châu Á năm 1997. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư của Việt Nam chậm được cải
thiện, trong khi phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước khác như Trung Quốc...
Giai đoạn 2001-2005, dòng vốn FDI vào Việt Nam bắt đầu có sự phục hồi nhưng tốc
độ còn chậm. Năm 2004 và 2005 có tốc độ tăng trưởng thu hút FDI cao nhất (mức tăng
trưởng tương ứng 42,94% và 50,86%) do có một số dự án cấp mới với quy mô lớn như:
Công ty liên doanh khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo (tổng vốn đầu tư 147
triệu USD), Công ty Đầu tư và phát triển Thành Công (tổng vốn đầu tư 114,58 triệu
USD), Công ty TNHH Shing Mark Vina (tổng số vốn đầu tư hơn 50 triệu USD)...
Giai đoạn 2006-2010, FDI có sự biến động thất thường. Năm 2006, tổng số vốn đăng
ký là 12.004 triệu USD, tăng 75,5% so với năm 2005. Năm 2007 và năm 2008, FDI đổ
vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, do từ tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Bên cạnh đó, môi trường đầu tư – kinh doanh trong nước ngày càng được cải thiện,
khung pháp luật về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, nên nhiều làn sóng
đầu tư lớn từ Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản đồng loạt rót vốn vào Việt Nam. Đến năm
2009 và 2010, do ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng vốn FDI vào Việt
Nam cũng bị sụt giảm đáng kể.
Giai đoạn 2011-2015. Năm 2011, có 1.186 dự án được cấp mới với tổng số vốn đăng
ký là 15.589 triệu USD (giảm 21,57% so với năm 2010). FDI giảm là do ảnh hưởng suy
thoái kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư giảm sút niềm tin, bên cạnh đó lạm phát và các chi
phí đầu vào tăng, việc giải phóng mặt bằng nhiều dự án gặp nhiều khó khăn... Tuy nhiên,
từ năm 2012 - 2015, số lượng dự án FDI và tổng số vốn đăng ký đã có xu hướng cải

thiện.
Năm 2016, với việc hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực nguồn
vốn đầu tư FDI đã bắt đầu tăng lên. Tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp
mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016
đạt hơn 24,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2015. Điểm đáng lưu ý là vốn FDI thực hiện
7


năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn
FDI cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2017 đánh dấu một mốc rất ý nghĩa - 30 năm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Tính chung tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, tăng thêm và
góp vốn, mua cổ phần đạt 33,09 tỷ USD, tăng 82,8% so với cùng kỳ 2016. Điểm nhấn
là, vốn giải ngân đã đạt con số khoảng 16 tỷ USD và dự kiến đạt khoảng 17,5-18 tỷ
USD trong cả năm, tăng 12-15% so với năm ngoái.

6 tháng đầu năm 2018, tính lũy kế đến ngày 20/5/2018, cả nước có 25.691 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 323 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 179,12 tỷ USD, bằng 55,5% tổng vốn đăng ký còn hiệu
lực.
- Theo lĩnh vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân
ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng
cao nhất với 198,13 tỷ USD, chiếm 57,9% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là các lĩnh vực kinh
doanh bất động sản với 51,84 tỷ USD (chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư), sản xuất, phân
phối điện, khí nước với 21,71 tỷ USD (chiếm 6,7% tổng vốn đầu tư).

8


- Theo đối tác đầu tư: đã có 127 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu

lực tại Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 59,46 tỷ USD
(chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 50,6 tỷ USD (chiếm 15,7%
tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Britishvirgin Islands,
Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó
thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 45,52 tỷ USD
(chiếm 14,1% tổng vốn đầu tư), tiếp theo là Bình Dương với 30,8 tỷ USD (chiếm 9,5%
tổng vốn đầu tư), Hà Nội với 27,85 tỷ USD (chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư).
Như vậy, từ năm 1988 đến nay, dòng vốn FDI vào Việt Nam có nhiều biến động
nhưng tổng vốn FDI có xu hướng tăng theo thời gian. Tuy nhiên, để cải thiện tỷ lệ vốn
thực hiện so với vốn đăng ký, đòi hỏi phải có chính sách thu hút vốn đầu tư ổn định,
quản lý và sử dụng FDI một cách có hiệu quả hơn.
1.2. Triển vọng thu hút vốn đầu tư FDI
Đánh giá về kết quả thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua, mặc
dù, Việt Nam đang thu hút hiệu quả đầu tư từ Nhật Bản và Hàn Quốc..., nhưng về dài
hạn, phải thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư từ các nước khác như châu Âu và Mỹ để đa
dạng hóa nguồn vốn FDI.
Đồng thời, tận dụng được đầu tư từ khu vực này cho các hoạt động mang lại giá trị
gia tăng cao hơn, cũng như tăng cường chuyển giao công nghệ cho khối kinh tế tư nhân
trong nước.
Mục tiêu của chiến lược nhằm xác định những ngành, lĩnh vực ưu tiên trong thu hút
FDI giai đoạn 2018-2030; rà soát khung chính sách FDI và kiến nghị các giải pháp,
chính sách cụ thể giúp Việt Nam đẩy mạnh thu hút FDI vào những lĩnh vực ưu tiên này.
Đặc biệt, để có thể tăng tối đa hiệu ứng lan toả và giá trị gia tăng của FDI, chiến lược
này cũng đặt trọng tâm vào sự chuyển dịch từ thu hút nhà đầu tư phù hợp cho "sản
phẩm" của Việt Nam sang phát triển sản phẩm phù hợp (tức là môi trường kinh doanh và
điều kiện đầu tư phù hợp) cho loại hình đầu tư mà Việt Nam cần trong tương lai.
9



Để đáp ứng hơn nữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới; đặc biệt là để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời
gian tới, Việt Nam cần phải sớm thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách phù hợp với
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước cho đầu tư
phát triển. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường (bất động sản,
vốn, dịch vụ, lao động, khoa học công nghệ)...
Thứ hai, tiếp tục cải cách hành chính hơn nữa theo cơ chế một cửa trong giải quyết
thủ tục đầu tư. Xử lý kịp thời vướng mắc trong vấn đề cấp phép điều chỉnh giấy chứng
nhận đầu tư. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức nhằm dảm bảo thực hiện
theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư FDI.
Thứ ba, tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông, cảng biển… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình
tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Thứ tư, Nhà nước cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
các doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát đối với các doanh
nghiệp có vốn FDI nhằm đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp trong nước và giữ
vững mối quan hệ thân thiện với các nước đầu tư. Đặc biệt, cần tạo được một hành lang
pháp lý thống nhất, đảm bảo việc quản lý có hiệu quả đối với mọi thành phần doanh
nghiệp...
Định hướng ban đầu đã có. Điều quan trọng là cụ thể hóa định hướng đó như thế nào
và thực thi ra sao. Thực thi có hiệu quả, năm 2018 sẽ tạo bước ngoặt mới trong thu hút
FDI của Việt Nam, theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tạo tác động lan tỏa
mạnh mẽ tới kinh tế - xã hội Việt Nam.

10




×