Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Nam Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.07 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện được
các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng như các mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Đối với các NHTM với tư
cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì
vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu
lãi. Nhưng để cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy
động vốn từ bên ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp
ứng đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các nguồn
khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Tại Việt Nam việc
huy động vốn khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng, hộ gia đình,
của các TCKT-XH hay các TCTD khác của NHTM còn nhiều bất hợp lý. Điều này
dẫn tới chi phí vốn cao, quy mô không ổn định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản
không còn phù hợp với quy mô, kết cấu từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời, buộc
ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro.v.v. Do đó, việc tăng cường huy động vốn
từ bên ngoài với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở nên cấp
thiết và quan trọng.
Để tăng cường huy động vốn ta cần nghiên cứu các hình thức huy động, các tiêu
chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn như quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ
lớn để tài trợ cho các danh mục tài sản và không ngừng tăng trưởng ổn định; nguồn
vốn có chi phí hợp lý; huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn; quản lý
tốt các loại rủi ro liên quan đến hoạt động huy động vốn. Cũng như phân tích các
nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
Xuất phát từ những nhận thức trên kết hợp với quá trình thực tập tại chi nhánh
Ngân hàng đầu tư và phát triển – Nam Hà Nội nên em mạnh dạn chọn đề tài “Tăng
cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Nam Hà Nội “ làm chuyên đề tốt nghiệp .

1



Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong nền
kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Nam Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Với sự thu nhận của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo
PGS.TS. Nguyễn Thị Bất và toàn thể cán bộ nhân viên của Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam – chi nhánh Nam Hà Nội, em đã hoàn thành bài chuyên đề này.
Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 phần :
Phần I:

Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTM.

Phần II: Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam – Nam Hà Nội
Phần III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam – Nam Hà Nội trong thời gian tới.

2


PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất,
vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá
trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi vào Ngân
hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng
quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.

Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình
thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động kinh
tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

1.1.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM . Đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được thì phải có Công nghệ - Lao
động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để
quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không
thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức
hoạt độnh kinh doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu
không có vốn.
Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng : Vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là
tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn
hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường
3


vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu
tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật NHTW, luật các TCTD, tạo thế
mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu
tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu cốt tử của ngân hàng.
Ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng
phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động
của mình từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh doanh,
vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại “hàng hoá đặc
biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng
khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo qui định

của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng
vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh.

_ Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của
Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó
phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng
của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi và đi
vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với một
ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt
ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu
cho vay tối đa nguồn vốn huy động được, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh
toán. Trong khi đó, với một ngân hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng
thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ
tạo được uy tín ngày càng cao. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn
khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng
thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả
dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động

4


kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có
hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.

_ Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh
doanh khác của Ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng.
Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu tư,

khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút
vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí không đáp ứng được nhu cầu
vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh
doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu
cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị
trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình
khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng
khoán…các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho Ngân
hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có
vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

_ Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của
ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu
hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh
chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều
kiện để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và
quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.

5


Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa
các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để
kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng
các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua , mua bán nợ , kinh

doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ
góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng
đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm bảo khả
năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm bảo cân đối
tiền – hàng trong nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động
nói riêng phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng
cao hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt
động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả
huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM ở tất cả các quốc
gia.

1.1.3 Đặc điểm và tính chất của các loại vốn trong NHTM
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
_ Vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng có toàn
quyền sử dụng gồm các trang thiết cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà cửa... Đây là
nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính ngân hàng. Ngân hàng có
to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn kho khách hàng khi đến giao dịch.
Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa
dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự
phát triển của thị trường.
+ Nguồn vốn hình thành ban đầu
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngân hàng phải có
một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ). Tuỳ theo hình thức
6


sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, do cổ đông đóng góp nếu là

ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là ngân hàng liên doanh và của cá nhân
nếu là ngân hàng tư nhân.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. S ố vốn tối thiểu vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng.
NHNN, luật NHNN có qui định cụ thể cho từng loại ngân hàng trong từng điều
kiện cụ thể.
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu trên thị
trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức
cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi
nhuận của ngân hàng
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có
nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát hành thêm cổ
phần, góp thêm, cấp thêm...Nguồn vốn bổ sung này tuy không thường xuyên song đối
với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ sung này chiếm một tỷ lệ rất lớn.
+ Các quỹ
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một mục đích
riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi,
quĩ khen thưởng...Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ lợi nhuận. Các quỹ này
thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ phần
thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng.Ngân hàng có thể sử dụng
vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và
có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
_Vốn huy động
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có trách nhiệm

7



phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân hàng có thể huy động vốn
từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội... với nhiều hình thức khác nhau.
+ Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch )
Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng với mục
đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền gửi thanh toán này
có thể được trả lãi hoặc không được trả lãi tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng. Người gửi
tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền... với một mức phí thấp.
Các ngân hàng có thể sử dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của
mình.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo các chu kỳ
xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền này không tiện lợi
bằng tiền gửi thanh toán ( do khi cần tiền phải đến ngân hàng để rút ) nhưng bù lại
tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp
đồng.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi. Họ
gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn và sinh lời đối với
những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết kiệm xác định rõ thời gian và
hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng. Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực
tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn
tiền này các ngân hàng luôn đưa ra các hình thức huy động đa dạng như tiết kiệm
bằng VNĐ, bằng vàng và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều
kỳ hạn để người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác
Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn có tiền gửi
của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh toán thuận tiện, phục
vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.


8


_Vốn đi vay
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay để
đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc... Các ngân hàng có thể vay ở:
+ Vay ngân hàng Nhà nước ( ngân hàng trung ương )
Khi các ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp bách về vốn thì người dang tay cứu
giúp sẽ là ngân hàng trung ương. Hình thức vay chủ yếu là tái chiết khấu ( hay tái cấp
vốn ). Các ngân hàng thương mại sẽ mang các trái phiếu mà mình đã chiết khấu lên
ngân hàng trung ương để tái chiết khấu. Thông thường các ngân hàng trung ương chỉ
cho tái chiết khấu những trái phiếu có chất lượng, thời hạn ngắn và phù hợp với mục
tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa ngân hàng với
các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình thức vay này rất đơn
giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua
ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không cần thế chấp hoặc thế chấp bằng các
chứng khoán của kho bạc. Các khoản vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu
chỉ để giải quyết những nhu cầu tức thời.
+ Vay trên thị trường vốn
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay
trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả
lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ
thường vay gián tiếp thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân
hàng đầu tư. Khả năng vay mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính,các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ...

9



_ Vốn khác
+ Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng nguồn vốn
của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân
và thu hộ..
+ Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm
chi... hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng làm tăng
nguồn vốn của mình.
+ Nguồn khác
Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả

1.2 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1

Vai trò của huy động vốn đối với hoạt động của các ngân

hàng thương mại.
Như đã được trình bày ở trên, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò
của nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ quyết định đến quy
mô, thế lực và khả năng mỏ rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế,
có thể khái quát hóa các vai trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân
hàng thương mại dưới một vài các khía cạnh sau:
_Vốn là cơ sở của hoạt động ngân hàng: NHTM muốn hoạt động kinh doanh
được thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để Quyết định khả năng kinh
doanh
+ Để có giấy phép thành lập thì NHTM phải có vốn pháp định.

+ Để thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình thì NHTM cần phải thường xuyên
chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt hoạt động kinh doanh của mình.

10


_Vốn của NHTM Quyết định đến quy mô và khả năng mở rộng hoạt động kinh
doanh của NHTM:
+ Quy mô của NHTM thể hiện ở Tổng tài sản (tiền, chứng khoán, quy mô cho tài
sản lớn, vay, tài sản cố định, …), nếu nguồn vốn lớn
+ Địa bàn hoạt động rộng : nếu nguồn vốn lớn thì có thể mở rộng hệ thống chi
nhánh tại các địa phương
+ Khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh: nếu nguồn vốn lớn thì có khả đa
dạng hóa sản phẩm
_ Vốn của NHTM Quyết định đến khả năng thanh toán của NHTM đó.
Điều này thể hiện như sau:
+ Tạo điều kiện cho NHTM có thể : dự trữ thực tế lớn , nếu nguồn vốn lớn tập
trung vốn, ứng phó kịp thời với trường hợp khách hàng rút tiền lớn hơn so với dự kiến
ban đầu.
+ NHTM sẽ có uy tín cao trên thị trường , nếu nguồn vốn lớn khi NHTM thiếu hụt
trong thanh toán thì có điều kiện thuận lợi trong việc vay mượn và bù đắp kịp thời
thiếu hụt trong thanh khoản, …
+ Nếu nguồn vốn lớn, NHTM thường được sự trợ giúp từ phía Chính phủ vì nếu
những NHTM lớn mà sụp đổ thì sẽ ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tiền tệ quốc gia và
nền kinh tế.
_ Vốn của NHTM Quyết định tới khả năng cạnh tranh của NHTM đó. Nếu có
nguồn vốn lớn thì NHTM sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh, điều này thể hiện như
sau
Cạnh tranh về giá:
+ Có điều kiện cạnh tranh về giá. do đó giảm được chi phí bình quân

+ Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giao dịch với khách hàng lớn chi phí
giao dịch bình quân cho 1 hợp đồng thấp ,giá trị giao dịch lớn , giảm được chi phí
bình quân
+ Có điều kiện giảm chi phí bù đắp rủi ro. Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều
kiện giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh
Cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ:
11


+ Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng
dụng những công nghệ mới.
+ Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng khách hàng, …
Thông qua hệ thống các vai trò mang đậm chất kinh tế của nguồn vốn ngân hàng
thương mại ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với sự
tồn tại và phát triển của một ngân hàng thương mại như thế nào. Tuy nhiên, nhìn vào
cơ cấu của nguồn vốn này, có thể nhận thấy vai trò của các nguồn vốn là hoàn toàn
không giống nhau và mang đặc tính khá khác nhau và đặc biệt trong một số trường
hợp việc huy động các nguồn vốn này chi phí lợi nhuận bị tạm thời bỏ qua và xuất
hiện các chủ thể đặc biệt.
Mặt khác, việc sử dụng các nguồn vốn này bị ràng buộc khá chặc chẽ bởi các quy
định pháp luật. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này như được trình bày ở trên
chính là xuất phát từ việc đối tượng kinh doanh của các ngân hàng thương mại chính
là loại hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Lí giải một cách đơn giản và thực tế hơn đó chính
là xuất phát từ vai trò của hệ thống các ngân hàng thương mại trong hệ thống tài chính
và nền kinh tế quốc gia, nó là huyết mạch, là đầu tàu nơi các chính sách kinh tế được
triển khai nhằm vận hành nền kinh tế theo những chiến lược được định ra từ chính
phủ. Vì vậy, khác với các doanh nghiệp thông thường khác, ngoài vai trò kinh tế,
nguồn vốn trong các ngân hàng thương mại còn đóng những vai trò khác khá quan
trọng được thiết lập từ các quy định của pháp luật. Những nhiệm vụ đó có thể được

khái quát như sau:
Đối với nguồn vốn tự có: Khoản 13 Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định:
“Vốn tự có gồm có giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác
của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước. vốn tự có là căn cứ để
tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”. Vốn điều lệ và vốn
pháp định cũng là những thể hiện của nguồn vốn này.
Vốn pháp định theo quy định của khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp “là mức vốn
tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”.

12


Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng. Theo quy định tại khoản
6 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005: “Vốn điều lệ là vốn do các thành viên, cổ
đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ
công ty.” Vì vậy, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại thực tế phải luôn lớn hơn
hoặc bằng vốn pháp định. Có thể nói vốn pháp định là nguồn vốn có vai trò tiên quyết
đối với sự hình thành và tồn tại của các ngân hàng thương mại theo quy định của
Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN, đến năm 2010, nếu không đủ số vốn điều lệ theo
quy định của Quyết định này, các ngân hàng buộc phải sáp nhập hoặc phải tiến hành
giải thể. Ngoài ra, nguồn vốn tựu có này còn Quyết định rất lớn hoạt động và các
nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
Đối với nguồn vốn khác, phương thức điều chỉnh mang tính mềm mỏng hơn và
thiên về tính nghiệp vụ cũng hướng tới mục đích chính là đảm bảo an toàn của hệ
thống tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng. Chẳng hạn, vận
dụng nguyên tắc an toàn tín dụng, các khản vốn được huy động ngắn hạn chỉ được
dùng để cung cấp tín dụng ngắn hạn, điều 45 Luật Các tổ chức tín dụng quy định chỉ
có tổ chức tín dụng là ngân hàng mới có quyền huy động các nguồn vốn ngắn hạn
này. Ngoài một số rất ít các quy định mang tính hành chính mệnh lệnh này, để quản lí
phương thức sử dụng các nguồn vốn này, nhà nước ta sử dụng các phương pháp mềm

dẻo và linh hoạt hơn phù hợp với xu thế phát triển của các nghiệp vụ tài chính trên thế
giới. một trong những ví dụ điển hình đó chính là các quy định về bảo hiểm tiền gửi
hay các quy định về dự trữ bắt buộc (các vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phấn
sau).

1.2.2 Khái niệm về huy động vốn của ngân hàng thương mại
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt
động ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản
có giá nhắm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi
tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật
được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các ngân hàng
13


thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không
có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận.
Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo
ngược, ngân hàng là người phải trả phí và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của
nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay
. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ, ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng
gửi tiền. Nếu trước đây, ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay,
hầu hết tất cả các ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền
gửi này và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng,
phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong
những hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng
thương mại.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển
của các ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có
những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như

không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được
sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu
khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.
Khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt động của các ngân
hàng thương mại có thể nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường hợp có
sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ
biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất
của các ngân hàng thương mại, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất,
cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.
Một cách không chính thức, dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp
cận với riêng khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng
hơn khái niệm được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất.
Cách tiếp cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành
kinh tế, tài chính ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các
nguồn vốn. Chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi

14


vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành
vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2 - một bộ phận của nguồn vốn tự có
-của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, khi nhắc đến nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại,
một số tài liệu chuyên ngành đôi lúc cũng có cách tiếp cận hẹp hơn.
+ Khi đề cập đến các hình thức của ngiệp vụ huy động vốn thường chỉ bao gồm:
Hình thức tiền gửi thanh toán, hình thức tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, các
hình thức tiền gửi đặc biệt khác . Có thể xem đây là một cách tiếp cận thiên về tính
kinh tế và mang nặng tính nghiệp vụ nhưng thiết nghĩ đôi lúc có khả năng gây tâm lí
thiên lệch đối với các chủ thể tiếp nhận. Vẫn biết rằng khi tiếp cận từ khía cạnh này,

đang cố nhấn mạnh tính lợi nhuận trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Có
nghĩa rằng, nếu loại trừ các hình thức khác trong việc đảm bảo nguồn vốn, đảm bảo
khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại, vô hình chung đã bỏ qua một
trong những kênh quan trọng nhất trong việc đảm bảo sự hoạt động bình thường, an
toàn của các ngân hàng.
Trong các giáo trình Luật Ngân hàng cũng như các văn bản luật hiện nay đều chưa
đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này nhưng thông qua các quy định của pháp
luật cũng cho ta phần nào hình dung mọt cách chính xác nhất nội hàm của khái niệm
này. Cụ thể, tại chương 3 mục 1 Luật các Tổ chức tín dụng quy định 4 hình thức của
hoạt động huy động vốn:
1.

Nhận tiền gửi

2.

Phát hành giấy tờ có giá

3.

Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng

4.

Vay vốn của ngân hàng nhà nước

Đối với khái niệm này, chúng ta tiếp cận dưới các khía cạnh sau:
_Thứ nhất, về mặt chủ thể:
Vấn đề này đã được xác định khá cụ thể ngay trong tên của khái niệm, ở đây hành
động này đựơc giới hạn ở các chủ thể là các ngân hàng thương mại. Vậy căn cứ vào

khía cạnh này ta có thể khẳng định hoạt động huy động vốn nhằm tạo lập nguồn vốn

15


điều lệ trong giai đoạn hình thành ngân hàng thương mại không thuộc nội hàm khái
niệm này. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh này, không thể loại trừ tất cả các hoạt động liên
quan đến việc tạo lập nguồn vốn tự có của các ngân hàng, nguồn vốn này cấu thành từ
rất nhiều thành phần và có thể được hình thành qua nhiều giai đoạn, những nguồn vốn
được tạo lập sau khi hình thành ngân hàng thương mại (chẳng hạn nguồn vốn cấp 2)
thì không thể bị loại trừ.
_Thứ hai, về đối tượng chiụ tác động:
Vấn đề này không có quá nhiều sự tranh cãi, đó chính là nguồn vốn – tiền tệ, bởi
vì đó chính là công cụ hoạt động, là “hàng hóa”, là “phương tiện” kinh doanh của
ngân hàng thương mại, cũng giống như máy móc đối với các công xưởng. Tuy nhiên,
vấn đề ở đây chính là trước đến nay chưa từng sự phân định trong thành phần các
nguồn vốn này với mục đích xây dựng một khái niệm hoàn thiện về hoạt động huy
động vốn của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng đầu tiên vẫn là một doanh nghiệp, nhưng là một doanh nghiệp có đối
tượng kinh doanh là tiền tệ. Cũng giống như mọi doanh nghiệp thông thường khác, nó
luôn có một nguồn vốn thuộc sở hứu tự thân nó làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của
mình. Đây là nguồn vốn của doanh nghiệp, đối với ngân hàng là nguồn vốn tự có, nó
là nguồn vốn theo đúng nghĩa của nó đối với hoạt động của một doanh nghiệp và khi
này, thuật ngữ nguồn vốn đồng nghĩa với tài sản của doanh nghiệp.
Tuy nhiên thuật ngữ nguồn vốn được để cập ở đây đối với các ngân hàng thương
mại trong trường hợp này nên được hiểu dưới một khía cạnh hoàn toàn khác, nó
không phải là nguồn vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh. Ngân hàng là một
loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nếu nguồn vốn như được nói ở trên nguồn tiền mà
chủ doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư vào kinh doanh thì nguồn vốn của ngân hàng ở đây
là “hàng hóa” của ngân hàng thương mại, ngân hàng như một người cung ứng dịch

vụ, cụ thể hơn, nó giống như một đại lí, lấy “hàng hóa” – tức nguồn tiền từ nơi này
(nơi thừa tiền) để cung ứng cho nơi có nhu cầu.
Tuy không có một sự hoạch toán rõ ràng giữa nguồn vốn của tự có và nguồn vốn
này trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nhưng trên thực tế có thể nhận
thấy vai trò đó được thể hiện khá rõ ràng. Nguồn vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm

16


5% - 10% nguồn vốn của ngân hàng thương mại và chủ yếu dùng vào việc mua tài
sản cố định làm cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lập các quỹ dự trữ và vai
trò chính yếu của nó là như vật làm tin, tạo lập niềm tin cho sự tồn tại bền vững của
nó.
Tóm lại, Khái niệm nguồn vốn được đề cập trong nội hàm khái niệm này là theo
nghĩa thứ hai, tức như là một “hàng hóa” của riêng các tổ chức tín dụng nói chung và
các ngân hàng thương mại nói riêng. Lúc này, hoạt động huy động vốn của các ngân
hàng thương mại có thể được hình dung một cách dễ hiểu hơn là hoạt động “tìm kiếm
các nguồn hàng” cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Việc khẳng định lại khái niệm sẽ cho ta thấy rõ vì sao huy động vốn lại được xem
như một loại nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, cũng giống như các loại hình kinh
doanh khác cũng có những nghiệp vụ riêng của mình phục vụ riêng cho hoạt động
kinh doanh. Hiểu rõ khái niệm nguồn vốn trong hoạt động huy động vốn giúp ta tiến
thêm một bước trong việc xác định khái niệm, bản chất của hoạt động huy động vốn
của các ngân hàng thương mại. Có thể khẳng định, một hoạt động chỉ có thể được
xem là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại khi nhằm mục đích thu
hút, tìm kiếm, gia tăng nguồn vốn không thuộc sở hứu của ngân hàng
_ Thứ ba, về khía cạnh khách thể của hành vi :
Một cách trực tiếp hơn, đó chính là mục đích, cái mà chủ thể thực hiện hành vi
muốn đạt được. Mục đích chính của kinh doanh là lợi nhuận, vai trò của nguồn vốn
ngân hàng – tư bản cũng là lợi nhuận. Vì vậy, loại hình doanh nghiệp đặc biệt này –

các ngân hàng thương mại cũng hoạt động vì mục tiêu chính là lợi nhuận, và chính vì
vậy, các hoạt động “tìm kiếm nguồn hàng”, cụ thể là hoạt động huy động vốn cũng
xuất phát vì mục tiêu lợi nhuận, đây vẫn luôn là mục tiêu tiên quyết.
Tuy nhiên, không những chịu ràng buộc bởi các quy định của pháp luật, ràng buộc
ở bản thân vai trò mà nó nắm giữ, mà còn vì sự tốn tại của chính nó, khác biệt với các
loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động của nó còn hướng đến mục tiêu quan trọng
không kém chính là sự an toàn, cụ thể ở đây là đảm bảo khả năng thanh toán, đây là
yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng thương mại và cả các đối
tượng khác hoạt động trong cùng lĩnh vực.

17


Như được đề cập ở trên, một số quan điểm, khi đề cập đến nghiệp vụ huy động
vốn chỉ đề cập đến các nghiệp vụ mà mang lại hiệu quả kinh tế còn các hoạt động huy
động vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo tỉ lệ an toàn tín dụng của các
ngân hàng thường không được đề cập. Thiết nghĩ, các nghiệp vụ huy động vốn này
(vay trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung ương,…) tuy không trực tiếp
mang lại lợi nhuận nhưng thực sự nó cũng đảm bảo nguồn tiền thanh toán cho các
ngân hàng, đảm bảo cho sự hoạt động bình thường và thông suốt của nó.
Về đặc tính, nguồn tiền này cũng được các ngân hàng sử dụng như một công cụ,
một hàng hóa phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Sự khác biệt về chủ thể
(cho vay) và vai trò mang tính tức thời của nó không làm thay đổi bản chất của một
nguồn vốn tín dụng. Căn cứ vào tiêu chí này, có thể khẳng định việc xếp các hoạt
động huy động vốn khá đặc trưng như: vay vốn của ngân hàng nhà nước , vay vốn của
các tổ chức tín dụng khác vào nhóm các hoat động huy động vốn của tổ chức tín dụng
là hợp lí. Thông qua một số những phân tích trên chúng ta chỉ cố xây dựng một số các
tiêu chí nhằm xác định một hoạt động có được xem là hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại hay không. Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên bản chất
của hoạt động, hoàn toàn không căn cứ trên những thể hiện cụ thể của hành vi. Chính

vì vậy, với sự phát triển của thị trường tài chính ngày càng đa dạng và phong phú như
hiện nay, dù các hình thức thể hiện nó đa dạng, thay đổi nhanh chóng đến mức nào,
vẫn có thể vận dụng làm căn cứ để xác định.
Có thể tạm thời đưa ra định nghĩa như sau: “ Hoạt động huy động vốn của các
ngân hàng thương mại là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm
nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định pháp luật ”.

18


1.2.3 Các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Các hình thức huy động vốn cụ thể của ngân hàng thương mại :

1.2.3.1 Huy động tiền gửi:
_ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này (gửi tiền
để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ LC
hay dịch vụ nhờ thu). Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi,
gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
* Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá
nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi trả
của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản thu bằng tiền
của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu,
với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ ( bằng 0) Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn
định với cá nhân còn đối với doanh nghiệp rất ổn định.
Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt
các dịch vụ trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm
cho mức dư tiền gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện
cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng

đến khả năng thanh toán của ngân hàng.
_ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân
hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền trước thời
hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn
khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền
gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh
toán, thường có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
Khi gửi tiền vào NHTM theo tài khoản gửi có kỳ hạn, điều ngân hàng
cần biết trước tiên là gửi với thời gian bao lâu. Thông thường định kỳ có thể
19


là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc hơn nữa. Tại Việt Nam, các khoản
tiền gửi có kỳ hạn thường nằm trong khoảng 6 tháng đến 24 tháng. Nguyên nhân
vì các doanh nghiệp nước ta hầu hết thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ với số
vốn không lớn và tốc độ quay vòng vốn khá nhanh. Do vậy, họ khó có thể gửi
với kỳ hạn dài. Hơn nữa nếu gửi tiền có kỳ hạn càng dài mặc dù được hưởng lãi
suất cao hơn nhưng khi có nhu cầu rút tiền đột xuất thì khoản lãi suất mà ngân
hàng trả sẽ rất thấp, do phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế
hoạch của ngân hàng.
_ Tiền gửi tiết kiệm:
Là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để được
hưởng lãi, hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Là loại tiết kiệm
người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra,
đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Ở Việt Nam, hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và
rút ra bất cứ lúc nào.

+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất
định. Tuy nhiên, nếu khách hàng có nhu cầu rút trước hạn cũng có thể được đáp ứng
nhưng phải chịu lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn,
người tham gia ngoài việc được trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục
đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Chúng có
cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát hành séc.

1.2.3.2 Đi vay
Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn từ ngân hàng trung ương, các ngân
hàng thương mại hoặc các trung gian tài chính khác và vay từ công chúng, dưới các
hình thức:
20


_ Phát hành chứng từ có giá.
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có
giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ hơn 12
tháng
* Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn
* Tính lỏng cao
* Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ thông qua
tổng giám đốc)
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn hơn 12
tháng
* Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn
* Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán

* Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng
+ Chứng chỉ tiền gửi
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự
chấp thuận của NHNN, hình thức huy động vốn này các NHTM phải trả lãi suất cao
hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và chủ yếu trong
hoạt động kinh doanh của các NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn
(khoảng 80%). Các NHTM phải tôn trọng về mức vốn huy động theo quy định của
pháp luật.
_ Vay ngân hàng trung ương
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ thanh toán...), NHTM thường vay
ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc
tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết
khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu
này đến tái chiết khấu tại NHNN.

21


NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; tuỳ thuộc chính
sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và
kiểm soát nhất định.
Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có
chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với
mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Còn trong điều
kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Một điều cho thấy, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù
NHTW áp dụng mức lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế nào

đi nữa thì NHTW vẫn phải cho các NHTM vay khi NHTM bị kẹt thanh toán để
tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng xảy ra và thực hiện tốt chức
năng là “là người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.
Đứng về phía NHTM, vay tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào
những khi NHTW hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền tệ nới
lỏng để kích thích đầu tư.
Trong trường hợp khi NHTM đến vay giữa lúc NHTW đang thắt chặt cung
ứng để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những
khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW, các NHTM chỉ miễn cưỡng vay
trong những tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh.
Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tổng tài sản nợ. Tùy
vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà NHTW có thể hạ hoặc nâng lãi suất
chiết khấu. Song dù sao đây cũng là nguồn cuối cùng đối với hoạt động vốn
của các NHTM
_ Vay các TCTD khác :
Đó là nguồn các NHTM vay lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng thực
chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự hợp tác đôi
bên cùng có lợi. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn

22


lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Như vậy nguồn vay mượn từ các TCTD khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và
chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp sẽ bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ NHNN

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của

NHTM
Nhân tố khách quan:
_Hành lang pháp lý:
Kinh doanh ngân hàng là một ngành chịu sự quản lý chặt chẽ của pháp luật và các
cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động của ngân hàng được quản lý chặt chẽ
bởi các quy định pháp luật và chịu sự điều chỉnh bởi nhiều bộ luật như luật dân sự,
luật NHTW, các quy định của chính phủ...Do đó, hoạt động huy động vốn cũng chịu
sự ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài
chính, tín dụng…
Ví dụ điển hình trong thời gian gần đây là thông tư 13 của NHNN Việt Nam ban
hành đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thu hút vốn cũng chất lượng nguồn vốn
của ngân hàng. Ngày 20/05/1010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chính thức ban
hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của TCTD.
Thông tư này sẽ có hiệu lực từ 01/10/2010. Lộ trình thực hiện các quy định của thông
tư này đồng thời với quá trình tăng vốn lên 3000 tỷ đồng đang tạo ra những khó khăn
nhất định cho các NHTM
Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động (Đáng chú ý vốn huy động theo
quy định mới này sẽ không còn bao gồm: Vốn tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn
tự có của NHTM, vốn đầu tư của tổ chức)Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy
động trong đó nguồn vốn để cung ứng tín dụng tín dụng không bao gồm tiền gửi
không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của NHTM, đầu tư của tổ chức sẽ càng làm giảm
23


khả năng mở rộng tín dụng. Chưa tính đến việc các khoản này chiếm khoảng 15% vốn
huy động, khiến cho quy định này thực chất đã giảm tỷ lệ cho vay so với vốn huy
động tổng thể xuống còn khoảng 60-65%, mà chỉ nói đến quy định tỷ lệ cho vay
không vượt quá 80% vốn huy động, thì riêng điều này đã tạo thêm một cái khóa nữa
cho ngân hàng trong nỗ lực tăng trưởng tín dụng

Cùng lúc với việc thực hiện thông tư 13/TT-NHNN, các ngân hàng lại bị điều
chỉnh bởi quy định chỉ được huy động trên thị trường 2 tối đa 20% số vốn huy động
thị trường 1. Các Ngân hàng buộc phải tăng huy động từ dân nếu muốn tăng vay trên
thị trường 2, điều này khiến các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt trong việc lấy thị
phần và nguồn huy động từ các chi nhánh mới.
Do đó, lãi suất vẫn chưa thể hạ nhiệt trong khi cung vốn tín dụng từ NHTM lại
đang bị hạn chế. Khó khăn cho việc tăng khả năng tạo tiền
Quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động là quy định chưa có
thông lệ trên thế giới. Có thể chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt trong các
giai đoạn mất an toàn. Quy định này làm giảm khả năng tạo tiền và số nhân tiền tệ của
hệ thống ngân hàng, vì một khoản tiền lớn huy động được sẽ không dành để cho vay
mà có thể nằm “chết” tại các NHTM.
Đồng thời làm giảm hiệu quả can thiệp giảm lãi suất của NHNN qua thị trường
mở, cho vay liên ngân hàng theo định hướng của NHNN. Thực chất, sự cạnh tranh
tăng lãi suất tiết kiệm vẫn lấn át định hướng giảm của lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng và OMO nên sự hạ nhiệt chưa truyền tải tới lãi suất tín dụng doanh nghiệp. Vì
vậy, mặt bằng lãi suất chưa thể hạ ngay và khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng
thương mại đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng bị hạn chế.
_Yếu tố kinh tế:
Sự thay đổi của các yếu tố kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình
quân đầu người, chính sách tiết kiệm, đầu tư của chính phủ…đều ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng thu hút vốn của NHTM.
Ví dụ như:

24


+ Trong thời gian dài từ quý 2 đến đầu quý 3 năm 2008, để kìm hãm lạm phát gia
tăng NHNN VN phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, hút tiền trong nền kinh tế
về nên toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản và đang phải vay

mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao trên thị trường liên
ngân hàng liên tục tăng vọt trên 20%, 25% rồi “treo” ở mốc 43%/năm. Lúc này do
ảnh hưởng từ yếu tố nền kinh tế mà đảy các NHTM vào tình trạng khó khăn trong huy
động vốn, từ đó tạo nên cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM để thu hút vốn.
+ Trước tình hình đó,từ cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà
nước phải bắt đầu triển khai loạt chính sách hỗ trợ,và thực hiện nới lỏng dần chính
sách tiền tệ, bơm thêm tiền ra ngoài nền kinh tế trông qua việc tái chiết khấu và cho
vay cầm cố các trái phiếu chính phủ với lãi suất thấp để giúp đỡ các NHTM trong
việc thu hút nguồn vốn. Do vậy mà đã giải quyết được nhu cầu vốn của các NHTM và
hạ nhiệt cuộc chạy đua lãi suất.
+ Những tháng đầu năm 2009, khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ đã thể hiện
những tác động rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam thì Chính phủ buộc phải đưa ra chính
sách khuyến khích đầu tư, thực hiện gói hỗ trợ 1 tỷ USD để kích thích nền kinh tế
phát triển và thoát khỏi vòng xoáy suy thoái thông qua việc hỗ trợ lãi suất, miễn,
giảm, giãn thời hạn nộp thuế, ưu đãi, khích thích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất…
Khi đó hoạt động đầu tư được khuyến khích nên việc huy động vốn từ trong nền kinh
tế của các NTHM trở lên khan hiếm và khó khăn hơn
+ Khi Chính phủ ra quyết định tăng lương cho người lao động …làm tăng tiết
kiệm và đầu tư nên sẽ thuận lợi cho NHTM trong việc thu hút vốn từ nền kinh tế tăng
trong khi NHTM sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn.
_Yếu tố chính trị
Một quốc gia có tình hình chính trị ổn định, an toàn sẽ tạo sự an tâm cho người
dân làm ăn sinh sống, do đó không phải tích lũy, dự trữ tiền nhiều cho những trường
hợp đặc biệt . Nhờ vậy mà NHTM có khả nănng huy động được nhiều vốn hơn. Trái
lại, với một quốc gia tình hình chính trị bất ổn như Thái lan, Campuchia… sẽ gây tâm
lý hoang mang lo sợ cho người dân, do vậy họ sẽ tích trữ nhiều của cải, tiền bạc bên

25



×