Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua môn Đạo Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.23 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 2
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Ngân.
2. Chức vụ: Giáo viên.
3. Đơn vị công tác: Trường Tiểu Học Tân Hà II.
4. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu giáo dục của nước ta đã chuyển sang hình thành và phát triển
những năng lực cần thiết ở người học. Trong đó các kĩ năng là một thành phần
quan trọng để đáp ứng yêu cầu đổi mới dất nước. Học sinh không chỉ cần có kiến
thức mà còn phải biết làm, biết hành động phù hợp trong những tình huống, hoàn
cảnh của cuộc sống. Mục tiêu giáo dục của Việt Nam ở thế kỉ XXI là: học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống.
Để trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù
hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tính
huống và hoạt động hàng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt
quyền, bổn phận của mình phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo
đức.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu
ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động ….Đặc biệt là trong bối
cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu
tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn
cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức
những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống tốt, các em dễ bị lôi
kéo vào những hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng,
dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện
tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian gần đây như:
nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa…. chính là do các em


thiếu kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng
giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp …
Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em
rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc;
giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ
động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
-1-


Để đáp ứng được mọi vấn đề về trên thì ngay từ khi các em bước chân vào
trường mầm non, trường Tiểu học chúng ta cần giáo dục ngay những kĩ năng này,
ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm như sau:
Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn thơ ngây
Vâng kinh nghiệm này đến nay còn nguyên giá trị, luôn luôn đúng và mãi
mãi đúng, việc dạy dỗ uốn nắn hình thành thói quen tốt cho một con người thì
chúng ta phải thường xuyên liên tục, giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu nói
rất nổi tiếng “Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng
người”.
Giáo dục kĩ năng sống là một nội dung quan trọng và thiết thực trong chiến
lược giáo dục toàn diện của một nền giáo dục tiến tiến, mà đạo đức là một môn học
có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, cho
nên tôi mạnh dạn trình bày : “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh
thông qua môn đạo đức lớp 2”.
5. Nội dung giải pháp:
5.1. Khó khăn, thuận lợi và sự cần thiết của giải pháp
Thuận lợi:
Về phía giáo viên.
- Nhà trường đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Bộ phận chuyên môn nhà trường cũng có những biện pháp cụ

thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh từng khối. Đây chính là những định hướng
giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ của mình như: rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lý
với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo
nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn
giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử
văn hóa, bảo bệ môi trường, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ
nạn xã hội.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô
trong nhà trường thường xuyên trao đổi phương pháp dạy học qua các tiết dự giờ,
thao giảng, chuyên đề đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy..
- Cở vật chất và trang tiết bị đầy đủ phục vụ tốt nhất cho quá trình dạy và
học của học sinh và giáo viên. Lớp học đảm bảo ánh sáng, rộng rãi và sạch sẽ đảm
bảo môi trường học tập tốt nhất cho các em.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm và chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ
giúp cho quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh tốt hơn.
Về phía học sinh.
- Học sinh luôn tích cực và chủ động trong học tập. Luôn cố gắng phát huy
những điều mình biết trong học tập.
-2-


- Lứa tuổi của các em đang trong giai đoạn học mà chơi, chơi mà học.
5.1.2 Khó khăn:
Về phía giáo viên:
Bên cạnh những thuận lợi đó thì vẫn luôn tồn tại những khó khăn, vướng
mắc đó là:
- Giáo viên thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành
vi và khả năng tập trung kém. Những học sinh này thường thụ động, không tập
trung nghe cô hướng dẫn, không có khả năng tham gia hoạt động nhóm điều này
làm học sinh không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Cho nên giáo

viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp học sinh có được những kĩ năng
sống cơ bản.
- Giáo viên còn coi nhẹ hoạt động giáo dục đạo đức, chỉ lí thuyết hoặc giảng
qua để dành thời gian cho Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh mà chưa chú trọng hình
thành nhân cách, kĩ năng sống cho các em trong giờ học môn này.
* Về phía học sinh:
- Đối với học sinh lớp 2 phần lớn các em đọc, viết còn chậm, một số học
sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính
tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ chú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít nhưng tính tự ti lại nhiều, thường nóng nổ gây
sự lẫn nhau trước những tình huống đơn giản.
- Đa số các em được bố mẹ chiều chuộng, luôn đáp ứng mọi yêu cầu, đề
nghị của các em. Một số em ít được quan tâm giáo dục từ phía gia đình do bố mẹ
phải đi làm ăn xa, làm lụng vất vả nên các em ở cùng ông bà nội (ngoại). Xã hội
ngày càng phát triển các em được tiếp xúc nhiều với phim ảnh, đồ chơi, trò chơi có
những hành vi bạo lực. Một số em sống trong gia đình có hoàn cảnh đặc, bố mẹ
biệt không hòa thuận, môi trường xung quanh phức tạp.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh chỉ quan tâm chú trọng đến việc dạy con mình biết đọc, biết viết,
biết làm toán, học tiếng anh mà không cần quan tâm đến việc con học được những
kĩ năng gì ở trường. Một số gia đình học sinh chiều chuộng, cung phụng con cái
quá mức khiến trẻ không có khả năng tự phục vụ, hoặc có nhưng còn hạn chế.
Không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có sử dụng các vật dụng đúng
cách hợp vệ sinh hay không ?
Để có những phản ánh đầy đủ về thái độ của học sinh tôi thường theo dõi
học sinh trong lớp qua ý thức học tập, đối xử với bạn bè – thầy cô giáo, những
người xung quanh.
Sau khi nhận lớp tôi tiến hành ôn tập củng cố kiến thức ở đồng bộ các môn,
qua một thời gian tôi phát hiện ra một số em có hành vi, thái độ chưa tốt, tôi tiến

hành khảo sát:
-3-


Muốn biết các em có các cách ứng xử thế nào với các vấn đề diễn ra thực tế
hàng ngày, tôi đưa ra một số tình huống có vấn đề yêu cầu các em đưa ra cách xử
lí:
- Khi đến lớp, thấy lớp bẩn, bàn ghế xếp lộn xộn lúc đó em sẽ làm gì?
- Bà của bạn trong lớp mới bị mất, bạn xin nghỉ học, em sẽ làm gì giúp bạn?
- Trong giờ ra chơi, em chạy nhảy làm vỡ chậu cảnh của lớp học, em sẽ làm
gì?
- Trong lớp có bạn hay ăn trộm vặt, cả lớp không ai biết, chỉ có mình em biết
em sẽ làm gì để giúp bạn bỏ thói xấu ấy?
Trên đường đến trường em nhặt được một cái ví, trong ví có tiền và nhiều
giấy tờ khác. Em sẽ làm gì với cái ví đó?
Kết quả khảo sát như sau:
TSHS

10

Thực hiện tốt hành vi KNS

Chưa thực hiện tốt hành vi KNS

TS

%

TS


%

6

60

4

40

5.1.3 Sự cần thiết của giải pháp:
Để tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Trang bị cho học
sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. trên cở sở đó hình thành
cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi,
thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày.
Với sự nghiệp đào tạo con người đáp ứng yêu cầu xã hội chủ nghĩa, trong
thời đại công nghiệp mới, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nền giáo dục Việt
Nam đào tạo cho thế hệ tương lai của chủ nhân đất nước có những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp, phát triển toàn diện về năng lực.
Kĩ năng sống thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, có thể nói kĩ năng sống
chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi thói quen
tích cực, lành mạnh. Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ
sung, nâng cấp để phù hợp cới sự thay đổi của cuộc sống biến động. Ở học sinh
tiểu học, để giúp các em có tinh thần tự học, sáng tạo và biết vận dụng linh hoạt,
những điều đã học vào thực tiễn. Trong quá trình dạy người giáo viên phải luôn tìm
tòi, sáng tạo ra những phương pháp hay để giúp học sinh học tốt hơn.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ
huynh và dư luận quan tâm bởi đây là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện
nay. Chính vì vậy, mà tính tất yếu phải có giải pháp hợp lý sát thực tiễn và phù hợp

với tình hình thực tế của lớp tôi phụ trách nói riêng và của cả trường nói chung là
rất cần thiết. Qua đó giúp học sinh phát triền kĩ năng sống thông qua môn Đạo Đức
đồng thời tích hợp ở tất cả các môn học, trong các hoạt động ngoài giờ, sinh hoạt
-4-


tập thể, … Vì vậy tôi đã thực hiện giải pháp “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống
cho học sinh thông qua môn đạo đức lớp 2”
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu học sinh lớp 2a4. Trường Tiểu học Tân Hà II.
5.3.Thời gian:
Thực hiện từ tháng 8 đến tháng 2 năm học 2017 – 2018.
5.4. Giải pháp thực hiện:
Kĩ năng sống không thể hình thành chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu
mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Học sinh hình thành kĩ
năng sống như thương lượng, giải quyết vấn đề, . . . thông qua các hoạt động học
tập hoặc các hoạt động tập thể trong nhà trường. Về cơ bản tôi đã áp dụng một số
giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nhận thức tầm quan trọng về dạy học sinh kĩ năng sống:
- Kĩ năng sống là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu, nội dung, chương
trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên, thông qua các loại hình hoạt động, các mối
quan hệ nhiều mặt, nhằm giúp người học chuyển hóa một cách tự giác, tích cực tri
thức thành niềm tin, kiến thức thành hành động, tạo cơ hội cho học sinh trải
nghiệm tri thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong môi trường
an toàn, thân thiện có định hướng giáo dục.
- Qua đây giúp học sinh sống một cách an toàn, khỏe mạnh, có khả năng
thích ứng với biến đổi của cuộc sống hàng ngày. Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực
tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội, hình thành tình cảm chân
thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước, có thái độ đúng
đắn với các hiện tượng tự nhiên và xã hội.

- Với lứa tuổi của học sinh tiểu học những kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải
học như : sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò khả năng thấu hiểu và
giao tiếp.
- Khi đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc dạy trẻ kĩ năng sống thì
phụ huynh phối kết hợp giáo viên để có những biện pháp giáo dục các em hình
thành thói quen tốt về kĩ năng sống ngay từ nhỏ.
- Muốn giáo dục học sinh được tốt, thì việc đầu tiên là tìm hiểu rõ về học
sinh, đặc biệt là những học sinh cá biệt:
+ Tìm hiểu về gia đình: Gia đình có hòa thuận hay không, gia đình thiếu
quan tâm không hay có thể bị bạn bè, kẻ xấu rủ rê….Hoặc trẻ có những đức tính
xấu mà gia đình chưa giáo dục được, …
+ Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh
nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng hình thức trách phạt, giáo viên
cần gần gũi các em, tâm sự, chia sẻ với các em trong vai trò là một người bạn lớn
và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Gắn trách nhiệm cho các
-5-


em bằng cách giao cho các em một chức vụ trong lớp để từng bước điều chỉnh
mình.
Đối với học sinh chậm, chưa hoàn thành :
+ Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có
thể về nhà các em phải giúp việc gia đình nên không có thời gian học tập vì phải
làm nhiều việc hoặc không được sự quan tâm, nhắc nhở của ông bà, bố mẹ, để cho
các em thoải mái vui chơi, xem ti vi, chơi game, ... Giao hẳn việc học tập cho giáo
viên và nhà trường. Do vậy, những em đó mất gốc về kiến thức nên cảm thấy chán
nản, không muốn cố gắng học tập.
+ Giáo viên cần lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng này bằng những việc cụ
thể như sau:
+ Tranh thủ thời gia trên lớp để giáo dục các em, từ việc nhỏ nhất như là kĩ

năng chào, hỏi, xin phép ......
+ Thăm gia đình học sinh, gặp gỡ cha mẹ các em để trao đổi về tình hình
học tập cũng như sự tiến bộ của con em và chia sẻ kinh nghiệm hướng dẫn, quản lí
con em học ở nhà để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Phải yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với các em.Tránh có thái
độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè.
Dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải hiểu tâm lí lứa tuổi, lưu ý
dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, khen chê đúng
lúc và phối hợp với phụ huynh và các tổ chức giáo dục khác để giáo dục các em và
đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
Giải pháp 2: Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh:
Đây là việc rất quan trọng để giáo viên bắt đầu công tác giáo dục học sinh.
Muốn học sinh làm được, học được thì giáo viên phải tìm hiểu kĩ hoàn cảnh của
từng học sinh, từ đó có những phương pháp giáo dục cho phù hợp.
Tìm hiểu học sinh qua giáo viên chủ nhiệm của năm trước, qua học bạ của
học sinh và đến thăm gia đình học sinh. Thăm gia đình học sinh, gặp gỡ cha mẹ
các em để trao đổi về tình hình học tập cũng như sự tiến bộ của con em và chia sẻ
kinh nghiệm hướng dẫn, quản lí con em học ở nhà để phụ huynh giúp đỡ thêm việc
rèn kĩ năng sống ở nhà cho các em.
Với những học sinh nghèo không thể mua nổi sách, vở…để đi học, từ đầu
năm học, tôi đã báo với nhà trường mượn bộ sách, liên hệ với Ban đại diện cha mẹ
học sinh để giúp đỡ cho các em có được vở khi đi học.
Ví dụ: lớp Tôi có em Hoàng, em Vũ thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tôi đã
mạnh dạn đề nghị nhà trường cho mượn sách để học. Đầu năm học nhà trường
được các nhà tài trợ học bổng, dành cho học sinh nghèo nhân ngày khai giảng, lớp
tôi cũng may mắn hai em này nhận được, đây là món quà tinh thần và vật chất nho
nhỏ phần nào giúp các em vượt qua khó khăn vươn lên trong học tập.
Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
-6-



Tìm hiểu về gia đình: Gia đình có hòa thuận hay không, gia đình thiếu quan
tâm không hay có thể bị bạn bè, kẻ xấu rủ rê….Hoặc trẻ có những đức tính xấu mà
gia đình chưa giáo dục được, …
Ví dụ: Trường hợp của em An lớp tôi, giáo viên đã vào nhà để tìm hiểu hoàn
cảnh của em. Hoàn cảnh rất đặc biệt so với các em của cả lớp. Bố là người gốc
Hoa và hiện tại cũng về Trung Quốc để làm ăn. Nhà còn lại ba mẹ con, em của An
học lớp lá bên Mẫu giáo Tân Hà điểm trường Phúc Tân. Mẹ thì không quan tâm
đến con cái, việc học của con là giao phó cho giáo viên. Em An ít nói, rất trầm tính,
khi hỏi bất kì một vấn đề gì đó em trả lời rất nhỏ, thậm chí không trả lời.
Việc giáo dục em giáo viên cần dùng nhiều phương pháp tác động tình cảm,
nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng
hình thức trách phạt, giáo viên gần gũi em, tâm sự, chia sẻ với em trong vai trò là
một người bạn lớn và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Gắn
trách nhiệm cho em bằng cách giao cho em một chức vụ trong lớp để từng bước
điều chỉnh mình.
Đối với học sinh chậm, chưa hoàn thành :
Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có
thể về nhà các em phải giúp việc gia đình nên không có thời gian học tập vì phải
làm nhiều việc hoặc không được sự quan tâm, nhắc nhở của ông bà, bố mẹ, để cho
các em thoải mái vui chơi, xem ti vi, chơi game, ... Giao hẳn việc học tập cho giáo
viên và nhà trường. Do vậy, những em đó mất gốc về kiến thức nên cảm thấy chán
nản, không muốn cố gắng học tập.
Ví dụ: trong lớp có em Hải, em rất chậm và hầu như chưa hoàn thành bất kì
một nhiệm vụ nào do giáo viên giao cho. Qua tìm hiểu thì tôi biết hoàn cảnh của
em cũng khá đặc biệt so với em An. Gia đình em gồm 7 người : Ông, bà, bố, mẹ,
chị gái học lớp 3, em trai mới sinh được 8 tháng. Người chủ trong gia đình lại là
mẹ của Hải, vì bố Hải không biết chữ, không biết tính toán. Với một mình mẹ
cáng đáng công việc trong gia đình cũng ít có thời gian quan tâm đến em. Hải học
không nhớ và rất chậm, em đọc trước quên sau, nhưng lại ham chơi không hề để ý

đến việc học hành. Do vậy, Hải đã mất gốc về kiến thức nên cảm thấy chán nản,
không muốn cố gắng học tập. Thường xuyên không mang đồ dùng học tập. Thậm
chí những kĩ năng chào hỏi mượn đồ dùng đơn giản cũng không nói được. Ví dụ “
Bạn ơi, tớ quên không mang bút, bạn cho tớ mượn”. Giáo viên phải dạy cho từng
từ để nói,.....
Vì những trường hợp điển hình như Tôi vừa nêu cho nên tôi đã lập kế hoạch
giúp đỡ đối tượng này bằng những việc cụ thể như sau:
Tranh thủ thời gian giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu chưa rõ
vào những thời gian ngoài giờ lên lớp, 15 phút đầu giờ, giờ ra chơi và ngay cả khi
cả lớp đang làm bài tập, ... .
Khi hỏi bài các em này, cần đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó và những
câu gợi mở để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú học tập và củng cố
-7-


niềm tin ở các em. Lên lớp phải thường xuyên kiểm tra bài để giúp các em chăm
chỉ học tập hơn.
Cần phát huy học tập đôi bạn cùng tiến hay sẻ chia trong nhóm để tạo cơ
hội cho các em thể hiện mình và học hỏi bạn, để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh
yếu kém tiến bộ; xếp chỗ ngồi hợp lí: Em hoàn thành tốt ngồi gần em chưa hoàn
thành để giúp bạn cùng tiến. Từ đó rèn cho các em tính mạnh dạn, khả năng điều
khiển nhóm, tự tin trình bày ý kiến trước đám đông.
Phải yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với các em.Tránh có thái
độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè.
Tùy thuộc vào đối tượng học sinh mà bản thân giáo viên phải hiểu tâm lí
lứa tuổi, lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời,
khen chê đúng lúc và phối hợp với phụ huynh và các tổ chức giáo dục khác để giáo
dục các em và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục kĩ năng sống là thiết yếu.
Giải pháp 3: Tạo môi trường giáo dục kĩ năng sống trong giờ học môn
Đaọ đức:

Dạy Đạo đức theo hướng lồng ghép giáo dục kĩ năng sống:
Khả năng giáo dục kĩ năng sống của môn đạo đức không nhũng thể hiện ở
nội dung môn học mà còn được thể hiện ở các phương pháp dạy học đặc trưng của
môn học. Để các chuẩn mực đạo đức, xã hội trở thành tình cảm, thái độ, niềm tin,
hành vi và thói quen của học sinh, phương pháp dạy học môn đạo đức đã được đổi
mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tăng
cường việc liên hệ thực tế, trải nghiệm, rèn luyện, thực hành.
Qua đó học sinh được thực hiện các hoạt động học tập, phong phú, đa dạng
như: kể chuyện theo tranh, quan sát tranh, băng hình và tiểu phẩm, phân tích
trường hợp điển hình, xử lý tình huống, liên hệ, tự liên hệ, chơi trò chơi học tập,
đóng vai, xây dựng và thực hiện những dự án nhỏ, múa hát đọc thơ, vẽ tranh, tô
màu tranh.... Vì vậy trong quá trình dạy học, tôi luôn chú ý tới việc lồng ghép giáo
dục các em kỹ năng sống nhằm bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em. Tuy
nhiên với thời gian 40 phút cho một tiết học việc giáo dục các kĩ năng sống cho các
em rất hạn chế, cho nên tôi thường đưa vào các tiết sinh hoạt tập thể, giáo dục
ngoài giờ, hoặc 15 phút đầu giờ,.....
Ví dụ: Sau khi học sinh học bài
Bài 8: Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng.
Cho học sinh xem một đoạn video quay về ảnh ô nhiễm môi trường tại khu
vực dốc tám trăm đường đi Tân Hà, do đoàn thanh niên xã Tân Văn thực hiện. Sau
khi học sinh xem video xong, giáo viên đặt ra một số câu hỏi để học sinh suy nghĩ
cùng trả lời.
Rác ở đâu mà lại có thành từng bao, từng đống ven đường?
Hàng ngày chúng ta có xả rác ra môi trường không?
Chúng ta phải làm gì để bảo vệ môi trường?
-8-


Bảo vệ môi trường là việc của ai?
Em sẽ làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh em?

Trong quá trình học sinh trả lời các câu hỏi, tôi tổ chức cho các em nhận xét,
bổ sung và phát triển sự sáng tạo theo mỗi cá nhân. Việc làm này giúp học sinh
hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, thói quen giải quyết tình huống.
Các phương pháp và kĩ thuật dạy học môn Đạo đức rất đa dạng, bao gồm
nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm và theo dự án,
nghiên cứu trường hợp điển hình, giải quyết vấn đề, đóng vai, trò chơi, động não,
hỏi chuyên gia, hỏi và trả lời, khăn trải bàn, phòng tranh,....
Thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, học
sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm, rèn luyện nhiều kĩ năng sống
cần thiết, phù hợp với lứa tuổi như: kĩ năng hợp tác, kĩ năng đảm nhận trách
nhiệm, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giao tiếp, ứng xử
với người khác, kĩ năng thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, kĩ năng trình bày suy nghĩ,
ý tưởng, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng quản lí thời gian.
Dạy lồng ghép kĩ năng sống dựa vào chương trình học:
Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với người khác (nói lời yêu cầu, đề nghị, bày tỏ sự
cảm thông và chia sẻ; tiếp khách khi đến nhà, ứng xử khi đen nhà người khác, khi
gặp đám tang, khi gọi và nhận điện thoại,...). Kĩ năng xác định giá trị (có tình cảm
và niềm tin vào các chuẩn mực hành vi đạo đức đã học). Kĩ năng ra quyết định và
giải quyết vấn đề (bước đầu biết lựa chọn và thực hiện cách ứng xử phù hợp đối
với một số tình huống đạo đức đơn giản, phổ biến trong cuộc sống hằng ngày). Kĩ
năng tư duy phê phán (biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, hành động lời nói, việc
làm, các hiện tượng trong đời sống hằng ngày và đối chiếu với các chuẩn mựcđạo
đức đã học). Kĩ năng từ chối (biết cách từ chối khi bị rủ rê, lôi kéo làm những điều
sai trái). Kĩ năng hợp tác (biết hợp tác với bạn bè thực hiện các hoạt động học tập
theo nhóm, hoạt động tập thể, hoạt động cộng đồng). Kĩ năng tìm kiếm và xử lí
thông tin về các vấn đề, hiện tượng trong đời sống thực tiễn có liên quan đến các
chuẩn mực đạo đức, pháp luật đã học. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm (biết nhận và
thực hiện trách nhiệm của bản thân). Kĩ năng thể hiện sự tự tin....
Các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, nếu dạy tốt các chủ đề,
chủ điểm sẽ giúp học sinh bồi dưỡng tốt nhuần nhuyễn các kĩ năng sống. Hình

thành cách ứng xử linh hoạt cho các em trong cuộc sống.
Ví dụ: Rèn kĩ năng cụ thể trong những bài sau:
Kĩ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc hướng dẫn học sinh sắp xếp thời
gian biểu học lí. Bài 1: Học tập, sinh hoạt đúng giờ. Kĩ năng quản lí thời gian để
học tập, sinh hoạt đúng giờ, ra quyết định và giải quyết vấn đề thực hiện học tập, tư
duy phê phán, đánh giá hành vi sinh hoạt, học tập đúng giờ, chưa đúng giờ.
Kĩ năng học và tự học rèn cho học sinh khả năng tự học thông qua bài 1 và
bài 5. Bài 1: Học tập, sinh hoạt đúng giờ. Bài 5: Chăm chỉ học tập. Kĩ năng quản lí
thời gian học tập của bản thân.
-9-


Kĩ năng giao tiếp và ứng xử, rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử
phù hợp qua các bài: bài 2. Biết nhận lỗi và sửa lỗi; Bài 6. Quan tâm giúp đỡ bạn ;
Bài 9: Trả của rơi; Bài 10; Biết nói lời yêu cầu, đề nghị; Bài 11: Lịch sự khi nhận
và gọi điện thoại ; Bài 12: Lịch sự khi đến nhà người khác;
Kĩ năng giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và
vệ sinh cá nhân, giữ gìn môi trường, bảo vệ môi trường Bài 3: Gọn gàng, ngăn nắp;
Bài 4: Chăm làm việc nhà; Bài 7: Giữ gìn trường lớp sạch đẹp; Bài 8: Giữ trật tự,
vệ sinh nơi công cộng; Bài 14: Bảo vệ loài vật có ích.
Kĩ năng tư duy sáng tạo, làm việc đồng đội sẽ được dạy lồng ghép ở tất cả
các bài học.
Từ đó giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp với trong mối quan hệ với
bản thân, với người khác, với công việc, với quê hương, đất nước và với môi
trường tự nhiên để trở thành con ngoan trong gia đình, học sinh tích cực của nhà
trường và công dân tốt của xã hội.
Giải pháp 4: Cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo
viên cần dạy học sinh:
Kĩ năng thể hiện sự tự tin: Đây là kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú
tâm phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của học sinh. Tự tin là có niềm tin vào bản

thân, tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và
tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy mình có nghị lực để hoàn thành các
nhiệm vụ.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn
hơn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình; quyết đoán trong việc ra quyết định và
giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó suy nghĩ
tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp,
thương lượng, ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm.
Học sinh tiểu học cần được giáo dục kĩ năng này để các em có thể tự tin vào
khả năng của bản thân; mạnh dạn bày tỏ nhu cầu, mong muốn của bản thân; mạnh
dạn trình bày và bảo vệ ý kiến của bản thân trong nhóm, trước lớp; xung phong
nhận những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân; chủ động, mạnh dạn
trong giới thiệu, làm quen, trò chuyện với bạn bè, khách của gia đình và khách đến
thăm trường.
Ví dụ: Sau khi dạy bài “Gọn gàng, ngăn nắp”.
Do trường chúng ta học theo mô hình VNEN nên trong tủ của góc học tập
có nhiều đồ dùng trong tủ. Giáo viên yêu cầu học sinh nào có khả năng tự sắp xếp
lại tủ đồ dùng học tập của lớp cho gọn gàng, ngăn nắp theo chủ đề của từng góc tủ.
Khi đó sẽ có một số em học sinh nhút nhát, thụ động, không tự tin vào khả năng
của mình để làm, giáo viên có thể dùng một số câu gợi ý để các em có thể mạnh
dạn để sắp xếp, như là: các em cứ làm đi, cô sẽ hướng dẫn thêm; hoặc sẽ có bạn
khác hỗ trợ thêm nếu em làm chưa được; giáo viên luôn khích lệ bằng cách cho các
nhóm vỗ tay, hoặc cổ vũ tinh thần bằng cách “ cố lên”; “gần đúng rồi”; “bạn rất
- 10 -


giỏi”..... Từ đó tạo thêm niềm tin vào bản thân để giúp những em này mạnh dạn
hơn khi giải quyết vấn đề.
Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động của nhóm, tôn trọng những quyết
định chung, những điều đã cam kết. Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và

cảm thông, chia sẻ với các thành viên khác trong nhóm, biết lắng nghe, tôn trọng
quan điểm của mọi người trong nhóm.
Học sinh tiểu học cần rèn luyện kĩ năng hợp tác với bạn bè trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ học tập hoặc các nhiệm vụ chung khác của nhóm, của lớp.
Đồng thời các em cũng cần rèn luyện kĩ năng hợp tác với ông bà, cha mẹ, anh chị
em khi cùng nhau giải quyết những công việc chung của gia đình.
Ở trường chúng ta thực hiện dạy học theo mô hình VNEN, nên kĩ năng hợp
tác được vận dụng trong tất cả các tiết học nói chung và môn đạo đức nói riêng.
Đây cũng là ưu điểm rất lớn để học sinh chúng ta được trao đổi, hợp tác, chia sẻ
cùng các bạn trong nhóm, các bạn trong lớp. Hình thành thói quen tốt cho học sinh
giúp các em khi lớn lên sẽ có kĩ năng hợp tác tốt, đó là một yêu cầu quan trọng đối
với người công dân trong một xã hội hiện đại: Mỗi người đều có một điểm mạnh
và hạn chế riêng; sự hợp tác trong công việc giúp mọi người hỗ trợ bổ sung cho
nhau tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất vượt qua mọi khó khăn trong
công việc cũng như trong cuộc sống.
Ví dụ: Trong bài “Học tập, sinh hoạt đúng giờ”
Giáo viên tổ chức trò chơi “ai nhanh? ai đúng?”. Yêu cầu phân loại ích lợi
và tác hại của học tập sinh hoạt đúng giờ. Giáo viên chia lớp thành hai đội lựa chọn
các câu ghi trên băng giấy và xếp vào cột phù hợp, trong thời gian 2 phút . Đội nào
gắn nhanh, gắn đúng sẽ là đội thắng cuộc.
Nội dung gợi ý trên băng giấy (1 câu/ 1 băng giấy) như sau:
- Tiếp thu bài trên lớp tốt hơn.
- Không bị mệt mỏi.
- Đảm bảo đủ thời gian tự học.
- Tinh thần sảng khoái.
- Cở thể khỏe mạnh.
- Kết quả học tập tiến bộ.
- Đầu óc căng thẳng, mệt mỏi.
- Không đủ thời gian ôn bài.
- Ảnh hưởng đến công việc chung.

- Tiết kiệm được thời gian.
- Có hại cho sức khỏe.
Sau khi hết thời gian làm bài giáo viên cùng học sinh kiểm tra lại kết quả
của 2 đội và chốt lại cách sắp xếp đúng như sau:
- 11 -


Lợi ích của học tập, sinh hoạt đúng giờ Tác hại của học tập, sinh hoạt không
đúng giờ.
Tiếp thu bài trên lớp tốt hơn

Đầu óc căng thẳng, miệt mỏi

Đảm bảo đủ thời gian tự học

Không đủ thời gian ôn bài

Kết quả học tập tiến bộ

Ảnh hưởng đến công việc chung

Không bị mệt mỏi

Có hại cho sức khỏe.

Đầu óc sảng khoái
Cơ thể khỏe mạnh
Tiết kiệm được thời gian
Giáo viên sẽ yêu cầu cả lớp tuyên dương đội thắng cuộc. Để hoàn thành
được yêu cầu mà đề bài đưa ra thì các bạn trong đội phải có tính đoàn kết, tích cực

hợp tác thì mới hoàn thành được bài làm.
Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao
được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng và phương pháp khác
nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em.
Kĩ năng giao tiếp: là khả năng có thể trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan
điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc của bản thân dưới hình thức nói, viết hoặc sử
dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp và văn hóa; đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác ngay
cả khi bất đồng quan điểm.
Người có kĩ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những
người khác, có cách ứng xử phù hợp khi cùng làm việc, quan tâm đến vấn đề mọi
người quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách
chính đáng, giống như ông cha đã dạy:
“Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Hoặc là câu:
“ Chim khôn hót tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”
Thông qua đây giáo viên ví von, truyền đạt các kĩ năng sống học sinh, vì thế
mà học sinh có thói quen giao tiếp cởi mở, vui vẻ và tôn trọng người khác ngay từ
khi còn nhỏ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Lịch sự khi đến nhà người khác”
- 12 -


Hoạt động 4. Đóng vai thể hiện cách ứng xử trong tình huống. Giáo viên
chia lớp thành 4 nhóm giao cho mỗi nhóm đóng vai một trong các tình huống.
Tình huống 1. Em sang nhà bạn chơi và thấy bạn có một bộ đồ chơi điện tử
mà em rất thích.

Tình huống 2. Em sang nhà bạn chơi mới biết bà của bạn đang ốm mệt.
Tình huống 3. Em sang nhà bạn chơi thấy nhà bạn đang có khách.
Tình huống 4. Em đang chơi với bạn thì đến giờ nhà bạn ăn cơm.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận, đóng vai và nhận xét sau mỗi tình
huống đóng vai. Theo gợi ý.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy trong tình huống đó?
- Em có nhận xét gì về cách ứng xử của bạn trong tình huống đó?
- Bạn nào có nhận xét thể bổ sung cho bạn không?
- Cả lớp cùng tuyên dương bạn?
Sau đó giáo viên chốt lại cách ứng xử cần thiết trong mỗi tình huống như
sau:
Tình huống 1: Em cần hỏi mượn, nếu chủ nhà đồng ý mới được lấy ra chơi
và phải giữ gìn cẩn thận, chơi xong phải cất gọn gàng.
Tình huống 2: Em cần giữ trật tự để bà nghỉ ngơi hoặc đi về chờ lúc khác
sang chơi.
Tình huống 3: Nếu bạn có phòng riêng, em có thể vào chơi cùng bạn nhưng
không đùa nghịch làm ồn ào. Hoặc em nên về để lúc khác sang chơi.
Tình huống 4: Đến giờ nhà bạn ăn cơm, em nên xin phép đi về, lúc khác
sang chơi.
Qua đây giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự khi đến
nhà người khác; kĩ năng thể hiện sự tự tin, tự trọng khi đến chơi nhà người
khác ......
Ngoài ra giáo viên cần dạy cho học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống
qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính rự lập như: biết tự rửa tay
sạch sẽ trước khi ăn, không nên ăn quà vặt, chỉ ăn uống tại bàn ăn biết cách sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn
gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết mời mọi người trước
khi ăn, biết tự phục vụ trước và sau khi ăn, không làm ảnh hưởng đến người xung
quanh.
Giải pháp 5: Hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua giờ dạy

các môn học khác:
Giáo viên phải định hướng cho học sinh có những hành vi đúng trong học
tập, sinh hoạt cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Cần tích cực đổi mới phương
- 13 -


pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh, cần phải
biết khai thác phát huy năng lực, tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh.
Giúp các em phát triển đều các các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức,
tình cảm xã hội và thẩm mĩ. Phát huy tính tích cực, giúp các em hứng thú, chủ
động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng mới.... các nội dung
chuyển tải đến cho các em một cách nhẹ nhàng, sinh động thông qua các hoạt
động, hình thức học tập rất phong phú và đa dạng như: sắm vai đóng tiểu phẩm,
theo nhóm, cá nhân, ứng xử, xử lí tình huống, trinh bày ý kiến, quan điểm.....
Ví dụ 1: Sau khi học bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim” trong phân
môn tập đọc bài lớp 2, Giáo viên phát phiếu học tập yêu cầu học sinh làm việc
theo nội dung sau:
PHIẾU HỌC TẬP
1. Năm học lớp 1 vừa qua, em đã học tập như thế nào? (Khoanh tròn vào chữ cái
trước câu trả lời của em).
a. Rất chăm chỉ, rất cố gắng.
b. Chăm chỉ nhưng đôi lúc còn mải chơi, thiếu cố gắng.
c. Chưa thật chăm chỉ, nhiều lúc còn mải chơi.
d. Rất lười, không thích học bài.
2. Câu chuyện “Có công mài sắt, có ngày nên kim” khuyên em cần có đức tính
gì trong học tập?
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh, yêu cầu các em làm trong khoảng
thời gian là 3 phút sau đó thu bài để chấm điểm. Qua hoạt động này giáo viên kết

hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực như: Động não, trình bày một phút, trải
nghiệm, thảo luận nhóm, chia sẻ thông tin, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích
cực.
Tôi luôn kết hợp hài hòa giữa việc trang bị tri thức với bồi dưỡng tình cảm,
nhân cách giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như là tự nhận thức về bản thân
(hiểu về mình, biết tự đánh giá ưu, khuyết điểm của mình để tự điều chỉnh). Lắng
nghe tích cực.
Trong tiết Tập làm văn, Tôi sử dụng kết hợp các phương pháp: đóng vai, trải
nghiệm, thảo luận nhóm, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực. Cho nên, khi
tổ chức tiết Tập làm văn tôi luôn hết sức chú ý tới hoạt động chung của cả lớp học
để có thể tạo ra môi trường kĩ năng sống tích cực. Khi học sinh trả lời câu hỏi, tôi
yêu cầu các học sinh khác và bản thân mình luôn nghiêm túc chú ý lắng nghe, giúp
các em thấy mình được tôn trọng, được quan tâm. Luôn đưa ra lời động viên chân
- 14 -


thành, một lời khuyến khích kịp thời, một ánh mắt trìu mến, một cái gật nhẹ nhàng
tỏ ý hài lòng.... đây là động lực rất lớn giúp cho học sinh mạnh dạn và sáng tạo hơn
trong lúc thực hành kĩ năng giao tiếp, cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe
người khác, hợp tác, trình bày ý tưởng.
Ví dụ 2: Trong phân môn Tập làm văn : “Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể
ngắn theo câu hỏi” . Giáo viên sẽ nêu yêu cầu đề bài, các em sẽ luyện nói một số
câu trong giao tiếp với bạn bè; tập trả lời câu hỏi nói về thầy (cô giáo) lớp 1, sau đó
viết thành một đoạn văn 4-5 câu về thầy (cô giáo).
Giáo viên yêu cầu học sinh xác định được yêu cầu của bài tập, hướng dẫn trả
lời mẫu từng câu hỏi trước lớp; nhận xét, rút kinh nghiệm. Sau đó đến phần viết
văn yêu cầu học sinh đọc đoạn văn đã viết trước lớp, học sinh nhận xét, giáo viên
góp ý và rút ra kinh nghiệm chung để học sinh dùng từ, đặt câu đúng và hay.
Muốn cho học sinh phát triển tốt được kĩ năng sống: giao tiếp, ra quyết định,
giải quyết vấn đề, phương pháp tốt nhất là tạo ra môi trường kĩ năng sống tốt. Vì

thế trong dạy học tôi luôn chú trọng điểm này và trên thực tế giảng dạy, tôi đã thực
hiện vấn đề này như sau:
Ví dụ 3: Trong tiết kể chuyện bài “Chiếc bút mực”, Giáo viên đưa ra các
hình thức kể như: Kể từng đoạn câu chuyện theo tranh; Kể chuyện bằng dựng hoạt
cảnh; Kể chuyện theo hiểu ý nghĩa câu chuyện.
Khi các em kể chuyện trước lớp, tôi luôn yêu cầu các bạn nhận xét về sự
sáng tạo (trong nội dung, trong cách thể hiện của cử chỉ, điệu bộ, giọng kể....). Từ
đó giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước, yếu tố gây cười .... Thể
hiện nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp, nâng tính
kịch tính câu chuyện lên cao.
Việc lồng ghép giáo dục các kĩ năng sống trong phân môn Tự nhiên và xã
hội, sẽ góp phần không chỉ khắc sâu thêm các kiến thức của môn học mà còn hình
thành thái độ và hành vi tích cực, phù hợp, cần thiết giúp học sinh có thể ứng xử có
hiệu quả các tình huống thực tế trong cuộc sống.
Ví dụ 4: Sau khi học xong chủ đề về “ Con người và sức khỏe” trong phân
môn Tự nhiên và xã hội, chủ đề đều xoay quanh mối quan hệ giữa con người và
sức khỏe. Tôi cho các em trao đổi và chia sẻ các vấn đề như sau: Vì sao chúng ta
vận động được? Chúng ta phải làm gì để xương và cơ phát triển tốt? Thức ăn được
tiêu hóa như thế nào? Ăn, uống thế nào để cơ thể khỏe mạnh? Vì sao chúng ta phải
ăn uống sạch sẽ?
Bằng việc đưa ra các câu hỏi, yêu cầu học sinh suy nghĩ đưa ra kĩ năng ra
quyết định: nên hay không nên; Kĩ năng nhận thức ra vấn đề, trách nhiệm, suy
nghĩ, ý tưởng, tự phục vụ, tự bảo vệ bản thân, quản lí thời gian một cách khoa
học, ... Tôi luôn sử dụng kết hợp các đồ dùng trực quan : tranh ảnh, mô hình,
video..... để thu hút, tạo sự hấp dẫn và hứng thú học tập cho các em.
Giải pháp 6: Làm tốt công tác chủ nhiệm và công tác phối hợp với phụ
huynh học sinh:
- 15 -



Sau khi nhận lớp, giáo viên phải tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh, phải
xem trước hồ sơ của từng học sinh và trong năm học trước để nắm được học lực,
hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều những học sinh có học
lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình, yếu. Sau khi
xếp chỗ ngồi xong giáo viên lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ
môn tiện theo dõi. Cách sắp xếp chỗ ngồi như vậy các em học khá giỏi sẽ giúp giáo
viên kèm cặp được những học sinh yếu. Giáo viên cần phát động các phong trào
như: “Đôi bạn cùng tiến”, “ Vòng tay bè bạn”, ... Tuyên dương và khen thưởng
những em giúp bạn vượt yếu trong học tập.
Sau khi sắp xếp chỗ ngồi, giáo viên tiến hành cho học sinh học nội quy lớp
học để các em thực hiện đúng các quy định của lớp và thực hiện một cách nghiêm
túc. Giáo viên phát cho mỗi em một thời gian biểu rõ ràng, giờ nào việc ấy (Nhắc
các em dán vào góc học tập của mình). Giúp các em hình thành thói quen làm việc
khoa học, cũng là cách giúp cha mẹ các em quản lí tốt các em ở nhà.
Việc xây dựng một ban tự quản của lớp vững vàng có uy tín với các bạn,
mạnh dạn nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc được giao. Trong buổi sinh hoạt
lớp đầu tiên, với tinh thần dân chủ các em tự giới thiệu đề cử, biểu quyết để bầu
ban tự quản của lớp, các trưởng ban. Sau đó giáo viên giao nhiệm vụ phù hợp với
năng lực và sở trường của từng em.
Là học sinh lớp 2 các em mới bắt đầu làm quen với phương pháp học mới
VNEN, nên đa số các em còn bỡ ngỡ lúng túng, giáo viên phải chỉ từng bước làm
việc của từng ban. Giáo viên giữ vai trò là người đóng vai các trưởng ban để làm
vệc, cho các em tập theo, phải mất một thời gian khá dài thì tôi mới đào tạo được
các em cách làm nhiệm vụ của mình.
Để lớp học có phong trào học tập tốt thì ban tự quản phải thực hiện và điều
hành tốt công việc của mình. Giáo viên luôn theo dõi kiểm tra và điều chỉnh các
hoạt động để các hoạt động hoàn thành như kế hoạch. Cho nên, sau một giai đoạn
cần có tổng kết, đánh giá, phát huy ưu điểm, rút kinh nghiệm. Cần tuyên dương,
khen thưởng tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực, thiếu cố
gắng.

Do lớp học có ít học sinh cho nên ngay từ đầu năm tôi đã đến thăm từng gia
đình học sinh, để năm bắt đầy đủ thông tin về học sinh. Trao đổi với phụ phụ
huynh về hướng phối hợp giáo dục kiến thức cũng như kĩ năng sống cho các em
nhằm tạo sự hiểu biết, cảm thông giữa giáo viên và phụ huynh học sinh.Thống nhất
với phụ huynh một số biện pháp giúp các em học tập cũng như vui chơi giải trí.
Vì học sinh lớp 2 còn nhỏ nên các em còn ham chơi ít tập trung vào học, cho
nên nhờ phụ huynh thường xuyên quan tâm nhắc nhở các em thực hiện nhiệm vụ
học tập, tránh trường hợp chê bai, cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả
năng của các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân
của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo cũng không nên nói
nững lời không hay đối với các em. Không dọa nạt vì đó là sự việc hoàn toàn có
hại không giúp cho các hành vi của các em được tốt hơn. Không nên nhồi nhét
lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của bộ não.
- 16 -


Nhờ phụ huynh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các em thực hiện nghiêm
túc thời gian biểu; kiểm tra sách vở, vở bài tập, đồ dùng học tập trước khi đến lớp
góp phần giúp các em học tốt hơn.
Thông qua sổ liên lạc hàng tháng hoặc điện thoại trực tiếp cho phụ huynh để
họ nắm bắt được tình hình học tập, các kĩ năng sống trên lớp đồng thời giáo viên
cũng nắm bắt được những biểu hiện hành vi tích cực hoặc tiêu cực của các em từ
phía phụ huynh để từ đó uốn nắn các em kịp thời.
Qua mỗi kì họp phụ huynh học sinh, giáo viên cần báo cáo cho phụ huynh
đầy đủ quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng em cũng như điểm số kiểm tra cuối
học kì, nhận xét xếp loại từng môn và so sanh với thời điểm trước đó.
Cùng với việc sắp xếp chỗ ngồi hợp lí; tổ chức học tập, giáo viên đọc, quán
triệt nội quy lớp, lớp tôi đã đi vào nề nếp, kỉ luật tốt. Đến bây giờ, chất lượng và kĩ
năng sống lớp tôi đã tiến bộ nhiều so với đầu năm, hứa hẹn năm học này sẽ đạt
được nhiều thành tích cao.

Giải pháp 7: Tạo bầu không khí học tập tích cực:
Trong giờ học cũng như các tiết sinh hoạt tập thể , tôi luôn tạo ra không khí
phấn khởi, dân chủ nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của các em trong bài
học cũng như tính cách của các em nhất là những em yếu kém, nhút nhát hay mặc
cảm thông qua các trò chơi.
Ví dụ: Dạy bài “ Bảo vệ loài vật có ích”. Tôi chuyển yêu cầu ở HĐ 1 thành
trò chơi xếp tranh với việc làm có ích của con vật. Trò chơi có tên là tìm lợi ích
của con vật đối với con người. Dán chữ đúng với tranh con vật. Chuẩn bị tranh và
chữ, Tranh con vật gồm: con bò, con ngựa, con voi, con chó, con cá heo, con mèo,
con ong. Chữ ghi ích lợi: kéo gỗ, kéo xe, cho sữa, bắt chuột, cho mật ong, cứu
người chết đuối, giữ nhà. Lớp chia thành hai đội. Thời gian chơi là 5 phút. Đội nào
dán đúng dán nhanh sẽ thắng. Sau đó giáo viên đưa bảng phụ, tranh con vật, chữ
ghi ích lợi con vật cho hai nhóm. Khi học sinh đã sẵn sàng giáo viên hô bắt đầu,
học sinh sẽ nhanh chóng tập trung vào để hoàn thành trò chơi. Các em rất hăng say,
thích thú để dán tranh. Kết quả đúng giáo viên tuyên dương và yêu cầu học sinh
đọc lại lợi ích của từng con vật. Qua đây chúng ta thấy con vật mang lại những lợi
ích gì cho con người? các em sẽ làm gì để bảo vệ chúng?.
Ví dụ 2. Khi dạy bài “ Chăm làm việc nhà” ở HĐ3 tôi biến hoạt động này
thành trò chơi bông hoa bí ẩn. Đố bạn nêu cách làm các công việc này? Hình
thức là dùng những bông hoa phía sau bông hoa ghi tên các công việc ở nhà như là
phơi đồ, tưới hoa, cho gà ăn, nhặt rau, rửa ly, lau bàn ghế. Ai bốc được câu nào trả
lời đúng sẽ được cả lớp thưởng một tràng pháo tay. Phơi đồ phải dùng móc để phơi
hoặc phơi lên dây......
Sau khi được chơi học sinh rất tự tin chia sẻ trước lớp học. Học sinh rèn
được kĩ năng diễn đạt, chia sẻ, nói lên suy nghĩ của mình. Lớp học trở lên sôi nổi,
tạo bầu không khí thân thiện giũa thầy cô và học sinh, giữa học sinh với học sinh.
5.4.1. Tính mới của giải pháp:
- 17 -



Dạy đạo đức theo hướng giáo dục kĩ năng sống là khó đối với lớp 2, vì học
sinh còn nhỏ. Song tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp để học sinh có kĩ năng sống tốt
hơn ngày từ nhỏ. Để làm được điều nay yêu cầu giáo viên phải tập huấn đổi mới
phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với lứa tuổi. Đó là các phương pháp giảng
giải, nêu gương, tác động, thuyết phục, khích lệ, ... Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ
giữa lý thuyết với thực hành, học đi đôi với hành lới nói đi đôi với việc làm của
giáo viên và học sinh. Để giáo dục học sinh được tốt các kiến thức lẫn kĩ năng sống
thì việc phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội rất quan trọng.
Bên cạnh đó người giáo viên cần phải năng động, sáng tạo. Biết lắng nghe,
quan sát các nhóm làm việc. Khi các nhóm gặp khó khăn thì giáo viên phải kịp thời
hỗ trợ để các em hoàn thành bài tập đúng tiến độ.
5.4.2. Khả năng áp dụng:
Giải pháp này được áp dụng rộng rãi trong các môn học. Đặc biệt nhà
trường dạy học theo mô hình VNEN , tạo cho học sinh tính mạnh dạn – tự tin chia
sẻ những điều mình biết với bạn với cô giáo.
Dễ vận dung, không chỉ trong lớp của tôi mà trong toàn trường, áp dụng
được cho tất cả các đối tượng học sinh, ngay từ đầu năm học và xuyên suốt quá
trình học tập.
5.4.3. Kết quả thực hiện:
Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn đạo đức
lớp 2 đã góp phần giúp giáo viên có những định hướng cơ bản, những việc cần
chuẩn bị để tích hợp dạy giáo dục kĩ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng không
tính áp đặt hay hình thức. Học sinh có ý thức hơn trong việc tự trang bị cho mình
những kĩ năng sống cơ bản, gần gũi để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt
động của lứa tuổi.
Đa số các em có tiến bộ nhiều, có ý thức học tập, thực hiện tốt các nội quy
của nhà trường như đi học chuyên cần, đúng giờ, nghỉ học có xin phép, Tập trung
nhanh chóng, nghiêm túc việc xếp hàng ra vào lớp. Các em biết lễ phép với thầy cô
giáo, ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi. Học sinh làm rất tốt khi có khách đến lớp,
biết nói lời cảm ơn, lời xin lỗi đúng lúc, biết tự quản trong những phút truy bài đầu

giờ.
Các em bước đầu thực hiện được quy tắc an toàn giao thông khi đi bộ từ nhà
đến trường. Qua các tiết sinh hoạt lớp, sinh hoạt ngoại khóa tôi thấy các em đã
mạnh dạn, tự tin hơn nhất là ban tự quản của lớp, các em biết giúp đỡ, tương trợ
những bạn gặp khó khăn trong lớp.
Sau một thời gian thử nghiệm và áp dụng các phương pháp trên, học sinh
trong lớp tôi đã có nhiều chuyển biến như: Tình trạng nói tục, chửi thề không còn,
các em biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt động, không còn hiện tượng
ăn quà vặt, vệ sinh cá nhân sạch sẽ, gọn gàng,.... kết quả tôi thu được như sau:
- 18 -


TSHS

10

Thực hiện tốt hành vi KNS

Chưa thực hiện tốt hành vi KNS

TS

%

TS

%

10


100

0

0

6. Bài học kinh nghiệm:
Công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là một công việc và
trách nhiệm của mỗi giáo viên, của nhà trường, gia đình và của xã hội. Giáo viên
phải thường xuyên phối hợp, trao đổi với phụ huynh để tìm ra biện pháp và nắm
bắt kịp thời những điểm còn yếu của học sinh giúp các em học và rèn kĩ năng sống
tốt hơn. Phối hợp với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, mới mong giáo dục
các em một cách toàn diện.
Để tạo cho các em có một cảm giác thoải mái trong học tập và rèn các kĩ
năng thì không thể thiếu được tác động của môi trường xung quanh như trường,
lớp, bầu không khí học tập thân thiện gần gũi với học sinh. Quy cách bàn ghế,
trang trí lớp học,... Đây cũng là nhân tố giúp các em hợp tác trong nhóm, theo cặp,
cá nhân, hoạt động cả lớp tốt hơn tạo thêm cơ hội cho các em được mở rộng các kĩ
năng sống.
Luôn động viên khuyến khích các em tiến bộ dù là rất nhỏ nhất là học sinh
chưa hoàn thành, giáo viên luôn động viên, khen kịp thời đó chính là động lực lớn
giúp các em phấn chấn tinh thần học tập.
Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng trong việc giáo dục và rèn
kĩ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp
nhằm phát huy tính chủ động của học sinh, sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ,
cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp.
7. Kết luận:
Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy rằng, giáo dục kĩ năng sống là nhằm
trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ
sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại

bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ quan hệ, các tình
huống và hoạt động hằng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt
quyền, bổn phận của mình; phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo
đức.
Với khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” được treo ở tất cả các bậc học
trong các nhà trường, vì thế việc giáo dục kĩ năng sống không thể hình thành trong
“ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ - thay
đổi hành vi. Chúng ta có thể tác động lên bất kì một mắt xích nào trong chu trình
trên để thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc
hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Để làm tốt được việc giáo dục các em đòi hỏi mỗi giáo viên luôn luôn tự học
trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp
- 19 -


giáo dục để cho phù hợp với thời đại. Trong các tiết học giáo viên cần phải đi sâu,
đi sát từng đối tượng học sinh, biết vận dụng nhiều hình thức dạy học, có kế hoạch
giảng dạy ngay từ đầu năm học, tiến hành các giờ dạy có hiệu quả. Đặc biệt trong
cách đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh, giáo viên phải đảm bảo tính
khách quan, vô tư công bằng, tạo niềm tin tuyệt đối của các em với thầy, cô giáo.
Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn
đạo đức lớp 2 lớp tôi. Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những sai sót.
Vậy tôi mong các đồng nghiệp, Ban lãnh đạo góp ý thêm để giải pháp của tôi được
hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tân Hà, ngày 9 tháng 03 năm 2018
Ý kiến lãnh đạo đơn vị

Người thực hiện


Nguyễn Thị Kim Ngân

- 20 -



×