Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Luận văn tốt nghiệp : Một số giải pháp nhằm tằng cường quản lý chi NSNN cho GD THPT ở tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.24 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta với hơn 4000 năm lịch sử, ngay từ buổi đầu dựng nước,
ông cha ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực. Điều đó thể
hiện qua câu nói nổi tiếng được lưu lại tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trường
Đại học đầu tiên của nước ta: “ Hiền tài là nguyên khí của đất nước, nguyên
khí có sức mạnh thì đất nước mới vững, vì vậy không có vị vua nào là không
quan tâm chăm lo đến hiền tài của đất nước”. Sau này, Bác Hồ vị lãnh tụ của
chúng ta đã khẳng định: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Qua đây khẳng định được tầm quan trọng của giáo dục đào tạo.
Thực vậy, chỉ khi có con người với đủ tài và đức mới là tài sản quý nhất của
mỗi quốc gia trong mọi thời đại.
Chúng ta đang bước sang nhưng năm đầu của TK 21, mong muốn của
toàn Đảng , toàn dân ta là “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Trước mắt là sớm hoàn thành
CNH-HĐH đất nước, trong công cuộc này đòi hỏi cần có: “ Con người phát
triển cao về trí tụê, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức là đông lực của xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội”. Chính vì thế nguồn lực con người luôn được coi trọng
và quyết định nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia . Bởi
vậy những năm gần đây chúng ta đã coi “ GD là quốc sách” Đảng và nhà
nước ta mở rộng thực hiện “ xã hội hoáGD”.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cùng với sự phát
triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật đòi hỏi phải có những con người có
trình độ hiểu biết, thực sự dám nghĩ, dám làm. Đó là kết quả của một nền
giáo dục toàn diện. Những năm gần đây tỷ trọng khá cao trong cơ cấu chi
NSNN. Trên thực tế sự nghiệp GD đã đạt được những thành tích đáng kể,
xong bên cạnh đó cũng còn những mặt hạn chế , trong đó đáng chú ý là hiệu
quả sử dụng nguồn lực từ NSNN còn thấp.

SV: Chu Hải Đôn


Lớp: K39 – 01.02


Để khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN đòi hỏi
phải xây dựng những biện pháp quản lý chặt chẽ , hiệu quả và phù hợp với
tình hình KT-XH đất nước . Đặc biệt là riêng đối với Lạng sơn một tỉnh miền
núi còn nhiều khó khăn, thì việc chi và quản lý chi cho GD là một vấn đề cần
quan tâm.
Do điều kiện hạn chế không thể nghiên cứu được toàn bộ vấn đề chi và
quản lý NSNN Cho GD -ĐT trong cả nước. Nên em đã chọn đề tài: Một số
giải pháp nhằm tang cường quản lý chi NSNN cho GD THPT ở tỉnh LS trong
thời gian tới

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


CHƯƠNG 1
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ CHI NGÂN
SÁCH CHO GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1- Khái niệm, vị trí và vai trò của chi ngân sách nhà nước cho giáo dục
Trung học phổ thông
1.1.1- Khái niêm chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung học phổ
thông:
NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ
thể KT - XH trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử
dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước chuyển dịch một bộ phận thu nhập
bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước
chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thụ hưởng nhằm thực hiện các

chức năng, nhiệm vụ của mình.
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhăm đảm bảo
thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
* Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục THPT là sự thể hiện quan hệ phân
phối dưới hình thức giá trị được thực hiện từ quỹ NSNN theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu, nhằm duy trì, phát triển hệ thống giáo
dục THPT theo những định hướng chung của Nhà nước.
1.1.2- Vị trí và vai trò của chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung học
phổ thông;
Chi ngân sách cho nhà nước cho giáo dục THPT chiếm mot vị tri rất
quan trọng trong cơ cấu chi ngân sách của nhà nước vì giáo duc THPT đóng
một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước:
Giáo dục là nền tảng văn hoá của một quốc gia, là nguồn sức mạnh
trong tương lai của một dân tộc, là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn vậy, mỗi quốc gia
phải thực hiện tốt nhiệm vụ cơ bản là nâng cao hiệu quả sự nghiệp giáo dục.
Ở nước ta từ thời phong kiến các vị vua đã quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, quan tâm đến hiền tài của đất nước vì hiền tài là nguyên khí của đất
nước. Giáo dục càng quan tâm sâu rộng hơn khi đất nước ta bước vào thời kỳ
mới, khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Nhân ngày khai trường
đầu tiên của một nứơc Việt Nam độc lập, Bác Hồ đã gửi thư nhắn nhủ học
sinh cả nước cố gắng học tập để rạng danh đất nước, con người Việt Nam:
"Non sông Việt Nam có được trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam
có được sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một

phần lớn ở công học tập của các cháu".
Trong thời đại ngày nay, thời đại của CNH - HĐH, giáo dục có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Quốc gia nào càng có
nền giáo dục hiện đại và phát triển thì đồng nghĩa với việc quốc gia đó có tầng
lớp trí đông đảo , tạo điều kiện thuận lợi để tiến sâu vào nền khoa học kỹ
thuật đang phát triển của thế giới, không ngừng đưa nền kinh tế phát triển.
Đánh giá sự tiến bộ về văn hoá xã hội và sự phát triển kinh tế của một quốc
gia, ngày nay người ta không chỉ căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế mà
còn dựa trên ba chỉ tiêu cơ bản là: Thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và
trình độ giáo dục.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, cùng với sự
phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có những con người
có trình độ hiểu biết, thực sự dám nghĩ, dám làm. Đó là kết quả của một nền
giáo dục toàn diện.
Tuy nhiên, để Giáo dục - Đào tạo có tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế xã hội không phải chỉ dừng lại ở mức duy trì hệ thống giáo dục
mà phải xây dựng được chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục ngang
tầm với những nhiệm vụ đặt ra. Bởi vì hệ thống giáo dục nước ta về cơ bản có
tính logic. Giai đoạn đào tạo sau là sự kế thừa và nâng cao kiến thức giai đoạn

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


đào tạo trước đó. Điều nay có nghĩa là mỗi giai đoạn đào tạo đều đóng vai trò
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục trung
học phổ thông (THPT) không năm ngoài ngoại lệ đó.
Sự nghiệp giáo dục phổ thông là cả quá trình kéo dài 12 năm, bao gồm
3 cấp là tiểu học, phổ thông cơ sở và THPT. Như vậy giáo dục THPT là giai

đoạn cuối cùng của giáo dục phổ thông là giai đoạn không thể thiếu được để
đưa con người từ giáo dục sang đào tạo. Nếu không qua giáo dục THPT thì cả
quá trình giáo dục phổ thông bị bỏ dở, gây lãng phí cho Nhà nước. Bởi vì,
phạm vi ngân sách nhà nươc (NSNN) rất rộng, đa dạng liên quan đến nhiều
lĩnh vực khác nhau, nếu phân bổ NSNN nhiều cho lĩnh vực giáo dục thì sẽ
làm giảm cơ hội đầu tư vào lĩnh vực khác. Hơn nữa, số lượng người được đào
tạo đại học hoặc được đào tạo nghề phụ thuộc vào số học sinh tốt nghiệp
THPT. Còn chất lượng nguồn lao động lại phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng
quá trình đào tạo. Vì thế, nếu không qua giáo dục THPT sẽ không tạo ra
nguồn nhân lực có trí tuệ, có tay nghề, có trình độ cho đất nứơc. Lẽ dĩ nhiên,
với sự đổi mới công nghệ, sự xuất hiện những công nghệ mới tự động hoá, sử
dụng ít lao động nhưng đòi hỏi lao động phải có trình độ cao thì họ sẽ bị loại
ra khỏi dây chuyền sản xuất, trở thành gánh nặng xã hội cho đất nước nếu
không qua đào tạo. Ngược lại nếu qua đào tạo chu đáo, đầy đủ thì họ sẽ trở
thành nguồn nhân lực lành nghề có tác động trự tiếp đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Có thể nói, giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục THPT nói riêng
luôn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình hình thành
và hoàn thành nhân cách con người, trong quá trình đào tạo nguồn lao động
cho đất nước. Vì thế đầu tư giáo dục cũng có nghĩa là đầu tư phát triển kinh tế
xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp GD nói chung, GD
THPT nói riêng, với phương châm " GD là quốc sách hàng đầu" và GD được
coi là chìa khoá để mở cánh cửa tri thức, đặc biệt trong thời đại KH-KT phát

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02



triển như vũ bão ngày nay thì không thể không quan tâm tới nền GD nước
nhà. GD là sự nghiệp của toàn dân, mọi người trong cộng đồng đều phải có
trách nhiệm với nền GD. Trong những năm gần đây chúng ta đã huy động
được nhiều nguồn vốn để đầu tư cho sự nghiệp GD, ngành GD đã dành được
sự quan tâm rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp
GD cũng rất đa dạng bao gồm các nguồn vốn sau:
+ Nguồn vốn từ NSNN
+ Nguồn vốn đóng góp, bao gồm: tiền học phí của học sinh do nhân
dân đóng góp, tiền do nhân dân đóng góp để xây dựng trường lớp, mua trang
thiết bị, đồ dùng học tập.
+ Nguồn vốn tài trợ, bao gồm: Tiền đóng góp ủng hộ của các cá nhân,
tổ chức, các doanh nghiệp trong và ngoài nước; Tiền viện trợ của các tổ chức
phi Chính Phủ và các Chính Phủ nước ngoài; Các khoản được biếu tặng cho
các trường bằng hiện vật như: sách giáo khoa, máy vi tính, mô hình giảng
dạy... của các tổ chức đoàn thể.
Mặc dù GD, cũng như GD THPT được sự quan tâm rất lớn của cả cộng
đồng, tất cả các thành phần kinh tế, mọi công dân trong xã hội. Xong trên
thực tế trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho GD THPT thì nguồn vốn từ
NSNN luôn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn nhất và ổn định nhất trong
tất cả các nguồn vốn đầu tư cho cho GD THPT. Do vậy quy mô và chất lưọng
của GD THPT phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn từ NSNN. Vai trò của nó
được thể hiện cụ thể :
Trước hết: NSNN là nguồn tài chính cơ bản và ổn định để duy trì sự
phát triển của hệ thống GD, GD THPT theo đúng đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà Nước. Đảng và Nhà Nước ta coi GD là quốc sách hàng đầu và
cần phải đầu tư xứng đáng với vai trò to lớn của GD. Những năm gần đây
chúng ta đã đẩy mạnh xã hội hoá GD nhưng xét đến tỷ trọng của các nguồn
vốn trong tổng số vốn đầu tư cho GD thì nguồn vốn ngoài ngân sách chỉ
chiếm một tỷ trọng nhỏ. Trong khi đó hệ thống trường công lập còn rất lớn,


SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


vấn đề xã hội hoá đa dạng các loại hình trường lớp chưa thật sự phổ biến, việc
thu hút các nguồn lực khác cho GD ccòn rất khó khăn. Đó là lý do tại sao
nguồn NSNN phải đảm đương phần lớn trách nhiệm đầu tư vốn cho GD, cìn
các nguồn khác chỉ mang tính chất hỗ trợ, bổ xung cho sự phát triển của GD.
NSNN là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống cho đội ngũ cán bộ, giáo
viên và là nguồn kinh phí chủ yếu để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cũng như
mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy...
Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư từ NSNN cho sự nghiệp GD sẽ tạo điều
kiện ban đầu để khuyến khích các tầng lớp nhân dân, các cơ quan đoàn thể,
các tổ chức KT-XH... đóng góp xây dựng trường học, tăng cường cơ sở vật
chất để phục vụ công tác giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, góp
phần thực hiện mục tiêu xã hội hoá GD.
Thứ ba: Chi NSNN giúp điều phối cơ cấu toàn ngành. Nhà nước có thể
định hướng, sắp xếp lại cơ cấu các lớp học, mạng lưới các trường học, điều
chỉnh sự phát triển đồng đều giữa các vùng đồng bằng, trung du, miền núi và
hải đảo thông qua cơ cấu và nội dung chi NSNN. Cần tăng cường, phát triển ở
khu vực nào, cấp GD nào thì Nhà Nước sẽ tăng cường đầu tư ở cấp đó, khu
vực đó. Sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách GD ở tất cả các vùng, nâng cao
trình độ dân trí cho toàn thể nhân dân.
Tóm lại NSNN luôn chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số các nguồn vốn
đầu tư cho phát triển giáo dục. NSNN vững mạnh kết hợp với chủ trương phát
triển giáo dục đúng đắn sẽ thúc đẩy sự phát triển của cả hệ thống và ngược lại.
1.2- Chi ngân sách cho giáo dục Trung học phổ thông:
1.2.1- Nội dung chi ngân sách cho giáo dục Trung học phổ thông:
Nội dung chi sự nghiệp giáo dục THPT gắn chặt với nhiệm vụ và cơ

chế quản lý tài chính của sự nghiệp giáo dục THPT trong mỗi giai đoạn lịch
sử.

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Dựa vào mục lục NSNN, dựa vào những đặc điểm hoạt động của ngành
giáo dục - đào tạo, nội dung chi NSNN cho giáo dục THPT đựơc chia thành 4
nhóm.
* Chi cho con người.
Đây là một khoản chi lớn nó bao gồm về chi lương, phụ cấp lương,
BHXH, phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ công nhân viên của nhà trường.
Khoản chi này là khoản chi cho con người, do vậy nó giúp cho người lao
động bù đắp được sức lực đã bỏ ra và đảm bảo cho quá trình tái sản xuất sức
lao động của họ, tạo điều kiện cho quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra một
cách bình thường.
Trong giáo dục chi cho con người chủ yếu là chi kinh phí cho giáo viên,
cán bộ công nhân viên ngành giáo dục. Khoản chi này hàng năm được xác
định dựa vào số giáo viên, cán bộ công nhân viên dự kiến có mặt kỳ kế hoạch.
Cụ thể số chi có được thể hiện qua công thức:

n

ccn =  (mcni x Scni)
i=1
Trong đó:
Ccn: Số chi kinh phí giáo viên kế hoạch.
Mcni: Mức chi bình quân 1 giáo viên dự kiến kế hoạch.

Scni: Số giáo viên bình quân dự kiến có mặt trong năm kế hoạc.
(Mcn: thường đựơc xác định dựa vào mức chi thực tế của kỳ báo cáo, có
tính đến những thay đổi của nhà nước có thể xảy ra về mức lương, phụ cấp và
một số khoản khác).
Scni = (Số giáo viên có mặt cuối năm báo cáo) + (Số giáo viên dự kiến
tăng bình quân năm kế hoạch) - (Số giáo viên dự kiến giảm bình quân năm kế
hoạch).

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Số giáo viên dự kiến (Số giáo viên dự kiến tuyển dụng) x Số tháng làm việc
Tăng BQ năm KH =
12
Số giáo viên dự kiến (Số giáo viên dự kiến tuyển dụng) x Số tháng làm việc
=
Giảm BQ năm KH
12
* Chi phí quản lý hành chính:
Đây là khoản chi mang tính chất tiêu dùng tuy nó không lớn nhưng
khoản chi này mang lại lợi ích cho việc quản lý hoạt động bình thường gồm:
Công tác phí, hội nghị phí, công vụ phí, khoản chi này đối với ngành giáo dục
được xác định qua công thức:

n

cql =  (mqli x Scni)
i=1

Trong đó:
CQl: Số chi quản lý hành chính kỳ kế hoạch.
MQL: Mức chi quản lý hành chính BQ 1 giáo viên dự kiến kỳ KH.
SCni: Số giáo viên BQ dự kiến có mặt trong năm kế hoạch.
* Chi cho nghiệp vụ chuyên môn:
Bao gồm các khoản chi mua sắm sách giáo khoa, đồ thí nghiệm, các
mô hình, đồ dùng cho hoạt động giảng dạy như: Phấn viết, bảng đen, thước
kẻ… Đây là khoản chi có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục vì vậy
cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng.
* Chi mua sắm sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ.
Đây là khoản chi không diễn ra thường xuyên hàng ngày, hàng tháng,
do vậy khi có nhu cầu thì khoản chi thường rất lớn. Khoản chi này thường
diễn ra hàng năm do trong quá trình sử dụng bàn ghế, bảng, trường lớp xuống

SV: Chu Hải Đôn

cms =  (ngi x Ti)

Lớp: K39 – 01.02


cấp, hỏng hóc, vì vậy cần có một khoản kinh phí đảm bảo cho việc tu bổ xây
dựng mới, nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. Mức chi cho công tác
sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ được thiết lập dựa trên tình hình tài sản, khả
năng tài chính và khâu dự tính mức chi cho mua sắm, sửa chửa lớn và xây
dựng nhỏ. Cụ thể:
n
i=1
Trong đó:
CMS: Số chi mua sắm sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của NSNN dự kiến

kỳ kế hoạch.
NGi: Nguyên giá tài sản cố định hiện có của ngành.
Ti: Tỷ lệ phần trăm được áp dụng để xác định kinh phí dự kiến chi cho
mua sắm sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của ngành.
Các nhóm chi kể trên phát sinh thường xuyên và tương đối ổn định nên
các định mức chi được xây dựng khá khoa học và có tính thực tiễn. Ngoài
những nội dung chi kể trên, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục còn có những
khoản chi ngoài định mức, đó là những khoản chi cho các chương trình mục
tiêu quốc gia mà NSTƯ cấp phát kinh phí uỷ quyền cho Sở Tài Chính.
Nhũng khoản chi này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện
nhưng phát sinh không thường xuyên nên việc quản lý các khoản này tương
đối phức tạp,dễ gây lãng phí, thất thoát.
1.2.2- Đặc điểm chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung học phổ
thông:
Trong nhóm các khoản chi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực văn - xã
thì chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục chiếm tỷ trọng lớn, chi NSNN cho sự
nghiệp giáo dục là một trong những khoản chi thường xuyên vì vậy nó mang
đầy đủ đặc điểm của chi thường xuyên:

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Thứ nhất, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi cơ bản có
tình ổn định khá rõ nét.
Tính ổn định ở đây được hiểu theo nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào,
giai đoạn phát triển nào của lịch sử thì Nhà nước cũng luôn phải chăm lo cho
sự nghiệp Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và trình độ
khoa học kỹ thuật cho mọi người.

Thứ hai, xét theo cơ cấu chi NSNN ở từng niên độ và mục đích sử dụng
cuối cùng của vốn cấp phát thì chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục THPT mang
tính chất tiêu dùng xã hội.
Kết quả của hoạt động giáo dục không tạo ra của cải vật chất tuy nhiên
nó có mục đích đầu tư cho con người, tạo ra được những con người có đủ
năng lực làm việc và trình độ để tiếp thu, ứng dụng va sáng chế ra những phát
minh mới, luôn tự hoàn thiện bản thân. Vì thế cũng có thể coi chi cho GD ĐT mang tính chất tích luỹ đặc biệt.
Thứ ba, phần lớn các khoản chi NSNN cho giáo dục THPT mang tính
chất không hoàn trả trực tiếp.
Tính không hoàn trả trực tiếp thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu
với mức độ và số lượng của các địa chỉ cụ thể nêu đều được hoàn lại dưới
hình thức chi NSNN cho giáo dục THPT. Các khoản cấp phát từ NSNN cho
các trường không phải lo hoàn trả mà coi như một khoản tài trợ hay bao cấp
của Nhà nước.
Thứ tư, chi NSNN cho giáo dục THPT là khoản chi mang tính chất tích
luỹ đặc biệt.
Xét theo từng niên độ của việc cấp phát NSNN thì chi NSNN cho sự
nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dụcTHPT nói riêng là khoản chi
mang tính chất tiêu dùng xã hội, không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã
hội ở mỗi năm đó. Nhưng xét về tác dụng lâu dài, chi NSNN cho giáo dục nói
chung và giáo dụcTHPT nói riêng lại là khoản chi có tính tích luỹ đặc biệt.
Bởi vì khoản chi này là nhân tố quyết định đến việc làm, tăng trưởng nền kinh

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


tế trong tương lai. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật trở
thành yếu tố trực tiếp cua sản xuất, mọi của cải làm ra, tỷ lệ chất xám chứa

đựng trong giá trị của chúng ngày càng lớn. Có được khoa học, có được chất
xám là nhờ đầu tư tiền của cho hoạt động giáo dục - đào tạo.
Ngoài những đặc điểm trên chi NSNN cho giáo dục THPT còn có một
số các đặc điểm khác như chi NSNN cho giáo dục THPT gắn với quyền lực
Nhà nước, chi NSNN cho giáo dục THPT vừa mang tính ngang giá lại vừa
mang tính chất không ngang giá…
1.3.- Quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục Trung học phổ thông:
Quản lý chi NSNN là việc làm cần thiết gắn với việc chi NSNN nhằm
đảm bảo các khoản chi NSNN được thực hiện đúng với mục đích sử dụng và
đạt hiệu quả cao.
Nội dung quản lý NSNN cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung và
sự nghiệp giáo dục THPT nói riêng bao gồm 3 khâu:
- Lập dự toán.
- Chấp hành dự toán.
- Quyết toán chi NSNN
1..3.1- Lập dự toán chi NSNN cho giáo dục Trung học phổ thông:
Do tính phức tạp của chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục THPT, đòi hỏi
dự tính các khoản chi trong quá trình lập dự toán, mọi khoản chi phải được bố
trí trong dự toán và dự toán phải được cơ quan quyền lực nhà nứơc xét duyệt.
Lập dự toán chi NSNN cho giáo dục THPT, dựa vào các căn cứ sau:
Thứ nhất: Dựa vào định hướng phát triển KT - XH trung hạn và dài hạn
và hàng năm của các nước. Những chỉ tiêu, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển
giáo dục THPT.
Thứ hai: Dựa vào khả năng nguồn kinh phí để đáp ứng được nhiệm vụ
được giao và nội dung hoạt động của sự nghiệp giáo dục THPT.

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02



Thứ ba: Dựa vào các loại tiêu chuẩn định mức, các chính sách, chế độ
của nhà nước liên quan đến hoạt động giáo dục THPT.
Thứ tư: Căn cứ vào quy mô giáo dục, số giáo viên, cán bộ, số học sinh.
Cơ quan tài chính giao số kiểm tra cho các đơn vị giáo dục. Căn cứ vào
dự toán sơ bộ và thu chi NSNN kỳ kế hoạch, cơ quan tài chính xác định mức
chi tổng hợp dự kiến phân bổ cho mỗi đối tượng và trên cơ sở đó hướng dẫn
các đơn vị này lập dự toán kinh phí.
Dựa vào số kiểm tra và các văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí,
các đơn vị dự toán cơ sở tiến hành lập dự toán kinh phí của đơn vị mình. Căn
cứ vào dự toán chi thường xuyên được cơ quan quyền lực Nhà Nước xét
duyệt, cơ quan tài chính sau khi xem xét lại cho phù hợp sẽ chính thức phân
bổ dự toán chi thường xuyên cho mỗi đơn vị cơ sở. Dự toán ngân sách của
các đơn vị phải phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
1.3.2- Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung
họcphổ thông:
Tổ chức chấp hành kế hoạch chi là khâu thứ hai của chu trình quản lý
chi NSNN cho giáo dục THPT. Thời gian tổ chức chấp hành ở nước ta tính từ
ngày 1/1 - 31/12 dương lịch. Trong qúa trình tổ chức chấp hành dự toán chi
NSNN cho giáo dục THPT phải dựa trên các căn cứ sau:
Thứ nhất: Dựa vào chỉ tiêu trong dự toán đã được duyệt.
Thứ hai: Dựa vào mức chi đã được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự
toán.
Thứ ba: Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi
cho giáo dục THPT trong mỗi thời kỳ. Thứ tư dựa vào chính sách, chế độ chi
NSNN cho giáo dục THPT hiện hành.
Hình thức cấp phát:
Đối với sự nghiệp giáo dục THPT cấp phát theo hình thức hạn mức
kinh phí. Căn cứ vào dự toán điều hành ngân sách quý, Sở Tài chính thông


SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


báo hạn mức chi cho các trường THPT, đồng gửi KBNN nơi giao dịch để
làm cơ sở kiểm soát, thanh toán và chi trả. Hạn mức chi ngân sách quý (Có
chi ra tháng) được phân phối là hạn mức cao nhất mà các trường phổ thông
được chi cho quý đó. Hạn mức chi ngân sách nếu sử dụng không hết thì được
chuyển sang tháng sau, quý sau nhưng đến ngày 31/12 vẫn không hết thì xoá
bỏ.
Trình tự chấp hành dự toán chi NSNN cho giáo dục THPT.
Căn cứ dự toán ngân sách được giao, các trường THPT lập dự toán chi
hàng quý gửi Sở Tài Chính xét duyệt kinh phí. Sở Tài chính tiến hành thẩm
tra dự toán ngân sách giáo dục nếu thâý phù hợp thì xét duyệt và ra thông báo
gửi cho các đơn vị , đồng thời gửi KBNN nơi giao dịch.
Căn cứ vào hạn mức chi được phân phối, Hiệu trưởng các trường THPT
ra lệnh chuẩn chi kèm theo hồ sơ gửi KBNN nơi giao dịch.
KBNN nơi giao dịch căn cứ vào hạn mức chi được Sở Tài chính phân
phối cho các trường, kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán và lệnh
chuẩn chi của Hiệu trưởng trường THPT thực hiện việc cấp phát, thanh toán.
1.3.3- Quyết toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dụcTrung họcphổ
thông:
Quyết toán là khâu công việc cuối cùng trong quy trình quản lý chi
NSNN cho giáo dục THPT. Đây là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại số
liệu đã được phản ánh sau một kỳ hạch toán và tình hình chấp hành dự toán
chi nhằm phân tích đánh giá kết quả thực hiện dự toán chi để rút ra kinh
nghiệm, bài học cần thiết cho việc thực hiện chi và quản lý chi ở kỳ sau.
Nội dung:

- Kiểm tra việc chấp hành định mức chi. Cụ thể kiểm tra tính hiện thực
của định mức chi và tính hợp pháp của các khoản chi so với định mức.
- Kiểm tra xác định đối tượng thụ hưởng. Cụ thể kiểm tra cách tính toán
của các trường THPT và kiểm tra tính hợp pháp của chứng từ, hồ sơ thanh

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


toán, lệnh chuẩn chi của Hiệu trưởng các trường THPT so với chính sách chế
độ quy định.
Trình tự quyết toán chi NSNN cho giáo dục THPT:
Hết kỳ kế toán 31/12 các trường THPT tiến hành khoá sổ sách và đối
chiếu với KBNN nơi giao dịch, sau đó lập báo cáo quyết toán năm gửi Sở Tài
chính xét duyệt báo cáo của các trường THPT, đồng thời tổng hợp lập quyết
toán ngân sách của ngành giáo dục trình UBND và HĐND tỉnh phê duyệt.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở TỈNH LẠNG SƠN TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1.Vài nét về đặc điểm tự nhiên, Kinh tế -Xã hội tỉnh Lạng Sơn:
Lạng Sơn là một tỉnh , vùng cao biên giới ở phía Bắc của tổ quốc. Lạng
Sơn có diện tích tự nhiên 8.325 km2, chiếm 2,5% diện tích cả nước. Lạng Sơn
có 10 huyện và 1 thành phố trong đó có 135/226 xã phường là xã vùng cao,
trong đó có 50 xã là xã thuộc vùng III chiếm 35,6% nên còn gặp khó khăn
trong công tác giáo dục ở các vùng xâu, vùng xa. Lạng Sơn với dân số
786.456 người, trong đó dân tộc Nùng chiếm khoảng 43,8%, dân tộc Tày
chiếm khoảng 35,9%, dân tộc Kinh chiếm khoảng 15,3% còn lại 5% là các

dân tộc khác như : Dao, Sán Chay, Hoa ,Mông ,Thái, Mường...Địa bàn Lạng
Sơn tương đối phức tạp đồi núi chập trùng hiểm trở tuy nhiên giao thông đi lại
tương đối dễ dàng, nằm ở vị trí có các trục đường quốc lộ 1A, 1B, 4A , 4B và
3B nối liền với các tỉnh phía Bắc nên thuận lợi cho việc buôn bán , trao đổi
hàng hoá không chỉ trong nội vùng, liên vùng mà còn là một thị trường trung
chuyển giữa nước ta với Trung Quốc, Châu á Thái Bình Dương, các nước

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


SNG và Đông Âu. Tuy nhiên giao thông liên huyện còn rất khó khăn, đặc biệt
giao thông giữa các xã vùng sâu, vùng cao.
Khí hậu Lạng Sơn là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, nhiệt độ trung
bình từ 20-22 c so với cả nước nhiệt độ ở Lạng Sơn nhiệt độ thấp hơn từ 1-3
C
Trong vài năm trở lại đây kinh tế Lạng Sơn tương đối phát triển qua kế
hoạch phát triển KT-XH năm 1996-2000 tỉnh đã đạt được những kết quả sau:
Tổng sản phẩm quốc nội(GNP) bình quân tăng 9,25% là mức tăng
trưởng khá cao so với mức tăng trưởng bình quân của cả nước, trong đó tốc
độ tăng trưởng bình quân của ngành Nông ,Lâm nghiệp là 5,4%; Công nghiệp
và xây dựng tăng 18,09%; Dịch vụ tăng 13,7%;
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tương đối tích cực, giá trị ngành
Nông, Lâm nghiệp tăng khá, song tỷ trọng giảm từ 62,1% năm 1995 xuống
còn 42% vào năm 2002. tỷ trọng ngành Công nghiệp và Xây Dựng tăng từ
9% lên 13,7%; các ngành Dịch vụ tăng từ 28,89% lên 37,2%.Công
nghiệp,tiểu thủ công nghiệp trong những năm qua đã phát triển đúng hướng
và có tốc độ tăng trưởng cao. Giá trị ngành Công nghiệp bình quân hàng năm
tăng21,5% cao hơn mức tăng chung của cả nước. Một số cơ sở sản xuất công

nghiệp đã quan tâm đầu tư phát triển chiếu sâu, đổi mới thiết bị công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm,ổn định sản xuất và kinh doanh hiêu quả như:
Nhà máy Xi măng, xí nghiệp gạch Hợp Thành , công ty Cơ khí cơ điện...
Các ngành Dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng, hoạt động thương mại
sôi động ở khu vực đô thị, khu vưc cửa khẩu biên giới. Tỉnh đã quan tâm xây
dựng các chợ, cửa hàng thương mại ở Thành Phố,thị trấn, môt số trung tâm
cụm xã.Tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng bình quân 16,02%/năm. Doanh
thu từ du lịch tăng 11,7%/năm. Có sự chuyển biến tích cực trong phát huy nội
lực cho đầu tư phát triển, nâng cao năng lực sản xuất, kết cấu hạ tầng tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển KT-XH . Tổng số vốn đầu tư phát triển trên địa bàn

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Tỉnh giai đoạn 1996-2000 là 3.565 tỷ đồng,gấp 4 lần so với thời kỳ 19911995.
Thu NSNN trên địa bàn tỉnh bình quân hàng năm tăng vân tăng trưởng
đều, do vậy có thêm điều kiện để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Quan hệ
sản xuất mới được củng cố hoàn thiện, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có
bước phát triển. Các doanh nghiệp Nhà nước được củng cố, sắp xếp lại với sự
hỗ trợ của Nhà Nước về vốn, tín dụng,hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nên đang từng
bước phát triển bền vững. Trong 5 năm qua đã chuyển đổi 22 hợp tác xã,
thành lập mới gần 30 hợp tác xã kiểu mới, kinh tế tư nhân ngày càng được mở
rộng và phát triển. Năn 2004 nền kinh tế Lạng Sơn có nhiều bứơc tiến rõ rệt
kinh tế phát triển ổn định, đặc biệt là ngành du lịch đã thu hút đựơc số lượng
du khách đến đông là do tỉnh Lạng Sơn có một chiến lược văn hoá du lịch
một cách hợp lý
2.2.Thực trạng giáo dục Trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn:

Nhận thức được tầm quan trọng của giao dục trong sự nghiệp đổi mới
mọi mặt nền KT-XH Lạng Sơn, mặc dù còn rất nhiều khó khăn xong được sự
quan tâm của Bộ Giáo Dục và Đào tạo, sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, HĐND và
UBND tỉnh, sự phối hợp giữa các Ban,Ngành, Đoàn thể và Nhân dân trong
tỉnh, đặc biệt sự cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý,giáo viên và học sinh, sự
nghiệp giáo dục đào tạo THPT tỉnh Lạng Sơn đã không ngừng phát triển về cả
quy mô lẫn chất lượng.
Mạng lưới trường lớp được mở rộng, các loại hình đào tạo đã được đa
dạng hoá, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Năm học 2001-2002 có 20
trường THPT (trong đó có 18 trường quốc lập ,1 trường bán công, 1trường
dân lập) và 331 lớp học (trong đó có 241 học sinh bán công trên tổng số 4 lớp
và334 học sinh thuộc trường dân lập) đến năm học 2002-2003 có 21 trường
THPT ,số trường THPT quốc lập tăng thêm 1 trường, tổng số hoc sinh
thuộc khối THPT cũng tăng lên là 20111 học sinh, tăng 5137 học sinh so với

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


năm học 2001-2002. Đến năm học 2003 - 2004 số học sinh PTTH đã tăng lên
đáng do một số trường mở rộng thêm quy mô và lớp học, cụ thể số lớp học ở
trường quốc lập tăng thêm 35 lớp so với năm 2002-2003, số lớp học ở trường
dân lập tăng thêm 04 lớp, do vậy số học sing cũng tăng theo theo, dự đoán số
học sinh THPT trong 5 năm trở lại đây mỗi năm tăng trung bình 1800 em
tương ứng với tỷ lệ 16%/năm. Có thể khái quát sự gia tăng về số trường lớp
qua bảng sau:

SV: Chu Hải Đôn


Lớp: K39 – 01.02


Bảng 1: Thống kê trường, lớp, số học sinh THPT
Năm học
2001-2002
2002-2003
Tổng số trường quốc lập
18
19
+Tổng số lớp quốc lập
361
425
+Tổng số học sinh quốc lập
16467
19469
Tổng số trường bán công
1
1
+Tổng số lớp bán công
4
6
+Tổng số học sinh bán công
241
217
Tổng số trường dân lập
1
1
+Tổng số lớp dân lập
7

10
+Tổng số học sinh dân lập
334
425
(Nguồn: Sở Giáo dục-Đào Tạo)

2003 -2004
19
460
20765
1
6
223
1
14
524

Bên cạnh việc tăng lên về số lượng học sinh, số lượng cán bộ giáo
viên cũng tăng lên về số lượng và chất lượng, cụ thể năm 2002-2003 co 641
giáo viên THPT đã tăng hơn năm 2001-2002 là 324 giáo viên. Công tác giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật, công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ đối với giáo viên luôn được coi trọng.Giáo viên toàn tỉnh
phần lớn đã được đào tạo tạm chuẩn theo quy định, một bộ phận đang được
đào tạo ở trình độ cao hơn. Nhiều giáo viên được công nhân là giáo viên dạy
giỏi, có thành tích xuất sắc, tận tuỵ với nghề.
Đi đôi với việc phát triển về quy mô, chất lượng giáo dục THPT cũng
ngày càng được nâng cao. Năm học vừa qua tỷ lệ học sinh xếp loại đạo đức
khá, tốt chiếm hơn 80% ở tất cả các trường, tỷ lệ học sinh yếu kém đã giảm
bớt đi. Tỷ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm ít đi, ít số học sinh bị kỷ luật
buộc thôi học. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp ngay càng cao, trong những năm gần

đây trung bình gần 90%, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường Cao đẳng ,đại
học ngày càng tăng lên:

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Bảng 2. Tỷ lệ xếp loại học lực của học sinh THPT.
Đơn vị tính: %
Năm học
Ngành học
+ Học lực giỏi
+ Học lực khá
+ Học lực TB
+ Học lực yếu
+ Học lực kém
+ Tỷ lệ lưu ban
+ Tỷ lệ tốt nghiệp
+ Hiệu quả đào tạo

2001 - 2002

2002 - 2003

0,89
22,81
69,63
6,67
0,01

0,61
90,75
88,1
(Nguồn Sở giáo dục Lạng Sơn)

2003- 2004

0,71
21,56
70,64
7,04
0,02
0,3
85,1
79,49

0,8
22,1
69,6
7,47
0,03
0,4
87
83

Số học sinh giỏi được công nhận ngày càng tăng về số lượng và chất
lượng. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã đi vào chiều sâu. Nhiều kỳ thi học
sinh giỏi các khối lớp và quốc gia đã được tổ chức.
Bảng 3: Kết quả thi Học sinh giỏi khối THPT năm 2003-2004
Bậc học cấp


Tổng

thi
I. Cấp tỉnh
- THPT
- Lớp 10
- Lớp 11
- Lớp 12
II. Cấp Quốc

số giải

Giải nhất

540
145
191
204
35

1
0
1
0
0

Trong đó
Giải nhì Giải ba
45

5
24
16
1

Ghi
Giải K.K

181
54
55
72
13

chú

313
86
111
116
21

gia Lớp 12
.
(Nguồn: Sở giáo dục-Đào tạo Lạng Sơn)
Thành tích học sinh giỏi tăng lên đã khẳng định chất lượng giáo dục
mũi nhọn đang từng bước phát triển vững chắc. Có được những biến đổi tích
cực trên là nhờ vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính chủ động, sáng tạo năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh và việc
đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, giáo viên trong các trường THPT


SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Bên cạnh những mặt đạt được thì giáo dục THPT còn có những mặt
hạn chế sau: Chất lượng giáo dục chưa đồng đều ở các vùng miền, nhất là
vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh cần được quan tâm chú trọng nhiều hơn; cơ
sở vật chất trường học một số nơi còn thiếu nhiều, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng giảng dậy và học tập. Số đầu sách còn hạn chế. Số máy vi tính
hiện có là gần 200 máy nhưng phần lớn đã quá cũ, lại phân phối không đêu ở
các trường THPT trên địa bàn toàn Tỉnh….
Công tác xã hội hoá giáo dục còn có nhiều hạn chế, đó là nhận thức
về công tác này có lúc, có nơi còn nhiều phiến diện, đơn giản, ví dụ như quan
niệm xã hội hoá là huy động xã hội đóng góp tiền xây dựng trường lớp, đóng
góp học phí. Nếu chỉ như vậy là thu hẹp hoat động, làm lệch lạc mục tiêu cơ
bản, lớn lao của xã hội hoá giáo dục hoặc coi xã hội hoá chỉ là một giai pháp
tình thế, cần phải khắc phục ngay trong mỗi cán bộ, giáo viên và người dân.
Tệ nạn ma tuý đang thâm nhập vào một số trường THPT gây băn khoăn
lo lắng trong nhân dân. Hiện tượng thiếu nghiêm túc trong thi cử, vi phạm
quy chế tuyển sinh, đặt ra những khoản thu không hợp lý đối với học sinh vẫn
còn tồn tại, hoạt động dậy thêm, học thêm ở một số trường chưa được quản
lý chặt chẽ.
2.3. Thực trạng đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung học
phổ thông ở Lạng Sơn :
2.3.1. Tổng quan về chi ngân sách nhà nước cho giáo dục Trung học
phổ thông:
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đường lối phát triển
kinh tế của nước ta đã có sự chuyển biến cơ bản, từ nền kinh tế kế hoạch hoá

tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
Nước theo định hướng XHCN. Đổi mới đương lối kinh tế đã có tác động
mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống KT-XH nói chung và sự nghiệp GD nói
riêng. Trong những năm gần đây nền kinh tế Lạng Sơn đã có những chuyển
biến cơ bản, từng bước thích ứng với nền kinh tế thị trường. Sự phát triển đa
dạng của các loại hình kinh tế trong nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải có sự phối

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ ổn định
và phát triển kinh tế. Công tác quản lý NSNN ở Lạng Sơn trong những năm
qua đã đạt được những thành tích đáng phấn khởi, kế hoạch thu, chi NSNN
nhiều năm liền đã hoàn thành và hoàn thành vượt kế hoạch, điều đó tạo điều
kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế của tất cả các ngành, các lĩnh vực, thúc đẩy
đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự ổn định chính trị và trật tự
an toàn xã hội, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Bảng 4: Tình hình thu- chi Ngân Sách tinh Lạng Sơn.
Đơn vị: triệu đồng
STT
1
2

Chỉ tiêu
Thu NSNN
Chi NSNN

2002

2003
2004
1.044.000
652.000
895.000
1.034.269
550.570
984.322
(Nguồn: phòng quản lý Ngân Sách-Sở Tài Chính)

Nhìn vào bảng trên ta thấy số thu, chi NSNN hằng năm vẫn tăng lên
đáng kể năm 2004 số thu tăng lên so với năm 2003là 243.000 triệu đồng, Số
thu ngân sách tăng lên phản ánh được sự phát triển kinh tế của Tỉnh và điều
đó cũng chứng tỏ các chính sách quản lý tài chính đang áp dụng là phù hợp
với điều kiện thực tế của Tỉnh, các biện pháp nhằm huy động các nguồn thu
được thực hiện khá hiệu quả. Tương ứng với sự tăng lên của thu NSNN thì
chi NSNN cũng tăng lên năm 2004 tăng so với năm 2003 là 433.752 triệu
đồng. Do nguồn thu tăng lên nên đã góp phần điều chỉnh một số khoản chi
mang tíng trọng điểm, nhằm tạo ra sự hài hoà cho các đối tượng chi để phát
triển một cách toàn diện về tất cả các mặt trong đó có các khoản chi ngân sách
cho sự nghiệp GD của Tỉnh đặc biệt là chi cho giáo dục PTTH.
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Tỉnh, Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND
Tỉnh đã quan tâm đến sự phát triển sự nghiệp GD của Tỉnh , thể hiện trong
việc cố gắng nhanh chóng cụ thể hoá các Nghị quyết, Quyết định của Đảng và
Nhà Nước trên địa bàn, các kế hoạch trung hạn , dài hạn, kế hoạch hàng năm,
có chiến lược cụ thể hoá để đưa sự nghiêp GD của Tỉnh có những bước
chuyển biến mới. Trong điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn, nhưng tỷ lệ

SV: Chu Hải Đôn


Lớp: K39 – 01.02


chi ngân sách Tỉnh cho GD và GD THPT không ngừng tăng lên trong các
năm qua.
Bảng 5: Chi NSNN, chi cho sự nghiệp GD, và chi cho GD THPT.
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2002
2003
Tổng chi NSNN
1.034.269
727.056
Chi TX
544.665
520.431
Chi cho GD-ĐT
212.580
262.342
Chi cho GD THPT
14.991
16.895
Ta thấy chi NSNN cho GD THPT trong những năm qua tăng khá nhanh
. cụ thể năm 2003 so với năm 2002 tăng 1.904 triệu đồng và năm 2003 chi
cho GD THPT chiếm 6,44% trong tổng số chi cho GD-ĐT, năm 2002 con số
nay là 7,05% và chi NSNN cho GD năm 2003 chiếm hơn 30% trong tổng số
chi, năm 2002 là 20,6 % .Điều này cho thấy trong nhưng năm qua Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Lạng Sơn dã tăng cường đầu tư quan tâm tới GD. Nhưng vấn
đề đặt ra là mức đầu tư gia tăng , hiệu quả đầu tư tới đâu? Mỗi cấp học trong
đó có cấp THPT đầu tư được bao nhiêu và đầu tư như vậy có phù hợp với yêu

cầu phát triển KT-XH không? Để trả lời cho câu hỏi đó ta đi xem xét đánh giá
cụ thể từng nội dung chi chi NSNN cho GD THPT.
2.3.2. Đánh giá cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo
dục Trung học phổ thông:
Nhìn chung, các khoản chi thường xuyên cho sự nghiệp GD THPT đã phát
huy được hiệu quả ở một mức độ nhất định, thể hiện ở những thành tựu to lớn
mà GD THPT đạt được trong những năm qua. Các khoản chi cho GD THPT
bao gồm 4 nhóm sau:
+ Nhóm chi cho con người ( chi CN)
+Nhóm chi Quản lý hành chính ( chi QLHC)
+ Nhóm chi Nghiệp vụ chuyên môn ( chi NVCM)
+ Nhóm chi mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ (chi MS)

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


Mỗi nhóm chi ảnh hưởng tới tổng số chi NSNN cho GD THPT ở mỗi
thời kỳ khác nhau. Trong mỗi nhóm chi lại có từng đối tượng riêng biệt để
tính toán, xây dựng định mức cụ thể, nên yêu cầu cách thức quản lý cũng rát
khác nhau. Để phan tích một cách cụ thể và sâu sắc hơn ta đi phân tiach tình
hình thực hiện các nhóm chi đó trong chi NSNN cho GD THPT ở tỉnh Lạng
Sơn thời gian qua. Từ đó thấy được khoản chi nào hợp lý và khoản chi nào
bất hợp lý để có biện pháp quản lý phù hợp, phát huy hiệu quả của việc sử
dụng NSNN là cao nhất.
Trước hết ta xem xét phân tích bảng số liệu sau:
Bảng 6: Cơ cấu chi NSNN cho GD THPT ở tỉnh Lang Sơn:
Đơn vị : triệu đồng
Năm

2002
Chỉ tiêu
Tổng chi
Chi CN
Chi NVCM
Chi QLHC
Chi MS

Số
tuyệt
đối
14.991
11.248
1.366
1.339
938

Tỷ
trọng
100%
75
10
9
6

Năm
2003
Số
tuyêt
đối

16.895
12.894
1.520
1.461
1.028

So sánh

Tỷ
trọng

Số tuyệt
đối

Số tương
đối(%)

100%
76
9
9
6

1.904
1.646
154
122
90

127

146
111
109
110

Nhìn vào bảng trên ta thấy tổng số chi cho GD THPT năm 2003 tăng
so với năm 2002 là 1.904 triêu đồng, tương ứng với 127% ; trong đó đặc biệt
chú ý là chi CN và chi cho NVCM đã tăng lên tương ứng là 1.646 và 154
triêụ đồng, trong đó nhóm chi cho QLHC cũng tăng 112 triệu đồng điều này
chứng tỏ chinh sách quản lý tài chính ở các đơn vị này vẫn còn phải tích cực
cải cách hành chính để giảm bớt khoản chi này. nhưng trong bảng trên thì cơ
cấu chi vẫn chưa thật sự hợp lý, nhóm chi cho con người qua các năm đã tăng,
nhưng xét về tỷ trọng trong cơ cấu chi của từng năm thì còn thấp do đó cần
phải tăng chi cho con người để đảm bảo chất lượng dạy và học, Bên canh đó
cần tăng cường đầu tư cho nghiệp vụ chuyên môn và mức chi cho mua sắm
sửa chữa , nâng cao thiết bị phục vụ công tác giảng dạy. Bên cạnh đó nhóm

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


chi QLHC còn cao năm 2002 còn sắp sỷ bằng với tỷ trọng chi cho NVCM,
trong nhưng năm tới cần triệt để tiết kiệm cá khoản chi QLHC.
Đây là số liệu tổng hợp về cơ cấu chi cho GD THPT, để nắm bắt được
thấu đáo thực trạng chi và quản lý chi từng nhóm cụ thể ta đi sâu phân tích
từng nhóm cụ thể:
Nhóm chi cho con người:
Chi lương là khoản chi lớn nhất trong cơ cấu chi thường xuyên cho sự
nghiệp GD THPT , thực tế chiếm tới hơn 70% tổng số chi NSNN cho GD

THPT . Nội dung của khoản chi này bao gồm : Tiền lương, tiền công, phụ
cấp lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, các khoản đóng góp khác. Nhóm chi
này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đội ngũ giáo viên, học sinh mà họ là
những người quyết định đến chất lượng GD. Do vậy để nâng cao chất lượng
GD thì trước hết phải nâng cao đời sống của giáo viên, đảm bảo cho họ cuộc
sống ổn định cả về vật chất lẫn tinh thần , từ đó họ sẽ chuyên tâm công tác,
đem hết khả năng tâm huyết của mình ra để truyền thụ kiến thức cho học sinh
Để biết được cụ thể tình hình chi NSNN cho con người ta đi phân tích
số liệu trong bảng sau:

SV: Chu Hải Đôn

Lớp: K39 – 01.02


×