Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống tại Việt Nam (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.63 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: KINH TẾ QUỐC TẾ

PHAN VIỆT TUẤN

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số:

Họ và tên:
Giáo viên hướng dẫn:

Hà Nội - 2018


i



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và chất lượng cuộc sống tại Việt Nam” là kết quả của quá trình học tập,
nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc. Các số liệu và kết quả trong luận
văn là đáng tin cậy, được xử lý trung thực và khách quan

Người viết

Phan Việt Tuấn


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
DANH MỤC VIẾT TẮT ..................................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH ............................................................................ v
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU ...................................................................................................... 4
2.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế ................................................................ 4
2.1.1 Khái niệm ............................................................................................... 4
2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế .............................................. 5
2.1.3 Nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia ................. 7
2.1.4 Các mô hình tăng trưởng kinh tế ........................................................... 8
2.2 Lý thuyết về chất lượng cuộc sống .............................................................14
2.2.1 Khái niệm ..............................................................................................14
2.2.2 Tiêu chí phản ánh chất lượng cuộc sống ..............................................17
2.2.3 Các lý thuyết liên quan đến chất lượng cuộc sống ................................23

2.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống ..............25
2.3.1 Công trình nghiên cứu ..........................................................................25
2.3.2 Lược khảo các công trình nghiên cứu ..................................................28
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................29
3.1 Phương pháp nghiên cứu............................................................................29
3.1.1 Quy trình nghiên cứu ............................................................................29
3.1.2 Dữ liệu nghiên cứu................................................................................30
3.1.3 Mô hình nghiên cứu và thang đo ..........................................................30
3.1.4 Phương pháp xử lý số liệu .....................................................................31
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...........................................................34
4.1 Thống kê mô tả ...........................................................................................34
4.2 Phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống
...........................................................................................................................41
4.2.1 Kiểm định nghiệm đơn vị (ADF) ...........................................................41


iii
4.2.2 Kiểm định đồng liên kết Cointegrated Test của Johansen (1991) .........42
4.2.4 Phân tích mô hình VECM .....................................................................45
CHƯƠNG 5 :KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ............................................................55
5.1 Kết luận .......................................................................................................55
5.2 Các kiến nghị ..............................................................................................56
5.2.1 Về phía Nhà nước..................................................................................56
5.2.2 Về phía các doanh nghiệp trong nước...................................................56
5.3 Hạn chế nghiên cứu ....................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................58
PHỤ LỤC .............................................................................................................60


iv


DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

CPI

Customer Price Index

Chỉ số giá tiêu dùng

EG

Economic Growth

Tăng trưởng kinh tế

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước
ngoài

GDP

Gross Domestic Product


Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

Gross National Product

Tổng sản phẩm quốc dân

HDI

Human Development Index

Chỉ số phát triển con
người

QOL

Quality of Life

VN

Chất lượng cuộc sống
Việt Nam

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới


WEF

World Economic Forum

Diễn đàn kinh tế thế giới

WHO

World Health Organization

Tổ chức Y tế thế giới


v

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đo lường biến nghiên cứu ......................................................................31
Bảng 4.1. Bảng dữ liệu sau khi xử lý .....................................................................34
Bảng 4.2. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF ..............................................................42
Bảng 4.3. Kiểm định đồng liên kết .........................................................................43
Bảng 4.4. Xác định độ trễ tối ưu ............................................................................44
Bảng 4.5. Kiểm định Granger causibility ...............................................................45
Bảng 4.6: Kiểm định tự tương quan Portmanteau ...................................................46
Bảng 4.7: Kiểm định tự tương quan LM ................................................................46
Bảng 4.8. Kiểm định phương sai sai số thay đổi .....................................................47
Bảng 4.9. Phân tích mô hình VECM ......................................................................48

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu ..............................................................................29
Hình 4.2. Hàm phản ứng xung mô hình 1...............................................................49
Hình 4.3. Hàm phản ứng xung mô hình 2...............................................................50
Hình 4.4. Hàm phản ứng xung mô hình 3...............................................................51
Hình 4.5. Hàm phản ứng xung mô hình 4...............................................................52



1

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
Việt Nam đang có những bước chuyển mình rõ rệt trong bối cảnh nền
kinh tế tri thức bùng nổ mạnh mẽ và đang dần trở thành một nước công nghiệp
hiện đại. Năm 2017 đánh dấu kỷ lục bằng những con số về tăng trưởng kinh
tế, kim ngạch thương mại, lượng khách du lịch và đầu tư nước ngoài. Tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2017 cao nhất trong 10 năm trở lại đây, đạt
mức 6,81% so với kế hoạch 6,7% do Quốc hội đề ra; GDP đầu người năm
2017 vượt ngưỡng 53,5 triệu đồng/năm (tương đương 2.835 USD, tăng 170
USD so với năm 2016).
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã xếp hạng năng lực cạnh tranh của
Việt Nam nâng lên 5 bậc, đứng thứ 55/137; Ngân hàng Thế giới (WB) xếp
hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng lên 14 bậc, đứng thứ
68/190 các quốc gia, vùng lãnh thổ.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng ghi nhận những con
số ấn tượng, vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,5 tỷ USD (tăng 10,8% so với cùng
kỳ 2016). Tổng mức lưu chuyển hàng hoá XNK vượt mốc 400 tỷ USD.
2017 cũng là năm Việt Nam đón lượt khách du lich thứ 13 triệu, tăng
29% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu từ du lịch ước tính đạt 35,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước.
Hơn một thập niên trôi qua kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh

tế Việt Nam đang tiến vào một chu kỳ tăng trưởng với những cơ hội rộng mở
như TPP và AEC. GDP quốc gia tăng trưởng gần gấp ba về giá trị, từ 75 tỷ
USD (năm 2007) lên 219 tỷ USD (năm 2017). Ông Chris Malone, người đã
có hơn 20 năm kinh nghiệm trong việc cố vấn phát triển kinh tế cho khu vực
Trung Đông và Đông Nam Á cho rằng: “Việt Nam hiện đang ở vị trí 4/149
quốc gia về năng lực chuyển đổi mức độ thịnh vượng kinh tế sang chất lượng
cuộc sống của người dân”. Kết quả này được trích từ nghiên cứu do Bamboo
Capital Group (BCG) thực hiện độc lập, dựa trên kết quả kết quả phân tích


2

của công cụ Đánh giá phát triển kinh tế bền vững (SEDA).
Tuy nhiên bên cạnh đó, chắc chắn vẫn tồn tại không ít những thách thức
sẽ cản trở việc nâng cao chất lượng cuộc sống tại Việt Nam. Bất bình đẳng về
thu nhập ở Việt Nam đang tăng với mọi thước đo. Theo số liệu của Oxfam –
liên minh quốc tế của 17 tổ chức hoạt động tại 94 quốc gia trên toàn thế giới
đi tìm giải pháp cho nghèo đói và bất công đã cho thấy, năm 2014 Việt Nam
có 210 người siêu giàu (tài sản trên 30 triệu USD). Tổng tài sản của 210 người
này vượt ngưỡng 20 tỷ USD, bằng 12% GDP của cả nước. Dự đoán vào năm
2025, con số này sẽ đạt mức 430 người. Điều này chứng tỏ tài sản ngày càng
tích tụ vào một số rất ít người trong xã hội.
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu và Phát triển thành phố Hồ Chí
Minh, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo tại Việt Nam
ngày một gia tăng: năm 2013 là 6,5 lần; 2014 là 6,6 lần; 2015 là 7,37 lần và
2016 là 9,3 lần. Những con số này chắc chắn chưa thể hiện được hết khoảng
cách về thu nhập do hạn chế trong việc thu thập thông tin về nguồn thu của
những cá nhân thuộc tầng lớp “siêu giàu” nhưng nó cũng cho thấy một vấn đề
nhức nhối trong phân bổ thu nhập, dẫn đến sự khác biệt lớn về chất lượng
cuộc sống của người dân.

Từ thực tiễn cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế qua GDP, GNP cao
không luôn đồng nghĩa với việc phát triển kinh tế nhanh, bền vững mà thậm
chí đôi lúc còn phát sinh và làm gia tăng những bất công trong xã hội, dẫn đến
chất lượng cuộc sống của một bộ phận lớn những người dân bị suy giảm.
Đã có nhiều nghiên cứu khoa học cả trong và ngoài nước chỉ ra rằng,
có mối quan hệ tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc
sống. Esterlin và Angelescu Laura (2007) đã sử dụng mô hình chuỗi thời gian
Vecto (VECM) để phân tích chứng minh tăng trưởng kinh tế dẫn đến việc cải
thiện chất lượng cuộc sống; Hae S. Kim (2017) đã có nghiên cứu trong đó xác
định các mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau giữa 222 quốc gia/ vùng lãnh


3

thổ trên toàn thế giới. Một điểm chung các nghiên cứu đều cho thấy, có sự
ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế (GDP, CPI, FDI, tiết kiệm bình quân,
XNK,...) đến chất lượng cuộc sống (bao gồm phát triển con người, mức nghèo,
thất nghiệp, hoà bình/xung đột quốc tế và các thành phần khác).
Phạm Thị Phương Loan (2011) cho rằng ngoài những tác động tích cực
mà nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment –FDI)
mang lại trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thu nhập, chuyển giao công nghệ
thì FDI cũng bộc lộ nhiều mặt trái như gây ô nhiễm môi trường, tranh chấp
nguồn lực với các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy bài viết này muốn xem xét
FDI tác động như thế nào đến kinh tế với chỉ số đại diện là thu nhập bình quân
đầu người và đến xã hội với đại diện là chỉ số phát triển con người (Human
Development Index- HDI). Kết quả cho thấy FDI đóng góp vào sự thay đổi của
HDI thấp hơn so với sự thay đổi của thu nhập bình quân đầu người.
Trên cơ sở muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất
lượng cuộc sống, tác giả muốn đề xuất hướng nghiên cứu sử dụng mô hình
hiệu chỉnh Vecto sai số (VEMC) làm công cụ. Kết cấu của luận văn gồm năm

chương với chương đầu tiên là lời mở đầu; chương hai tác giả trình bày cơ sở
lý thuyết và tổng quan các công trình nghiên cứu; chương ba là phương pháp
nghiên cứu; chương bốn trình bày kết quả nghiên cứu và chương cuối cùng là
kết luận và các kiến nghị, đề xuất.


4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC CÔNG
TRÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
2.1.1 Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế (Economic Growth) là một trong những vấn đề cốt
lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày
càng có hệ thống và hoàn thiện hơn. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã
thừa nhận rằng, tăng trưởng không đồng nghĩa với phát triển, tuy nhiên tăng
trưởng lại là điều kiện cần, điều kiện tiên quyết cho phát triển. Nhận thức đúng
đắn về tăng trưởng kinh tế và ứng dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về
nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng bởi
tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các quốc gia
trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của quốc
gia. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển theo
đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển.
Vậy, tăng trưởng kinh tế được hiểu: là sự gia tăng thu nhập đạt được
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) của một quốc gia
(hoặc địa phương). Sự gia tăng này được biểu hiện ở quy mô và tốc độ. Tăng
trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số
tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều
hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và
phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh

tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản
ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân
trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP Gross Domestic Product) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (Gross National
Product – GNP), được đo lường bởi sự thay đổi trong tỉ lệ phần trăm của


5

GDP/GNP từ năm này đến năm kế tiếp. (Giáo trình “Kinh tế vĩ mô” – ĐH
Ngoại Thương)
2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế, dưới dạng khái quát, là sự gia tăng của tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời gian
nhất định (thường tính cho một năm).
Các chỉ tiêu GDP và GNP thông qua sử dụng thước đo tiền tệ có thể tổng
hợp được kết quả đầu ra hết sức phong phú và đa dạng về chủng loại, mục đích
sử dụng về chất lượng của nền kinh tế. Nhờ đó cung cấp một công cụ hữu hiệu
cho việc đánh giá sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của một quốc gia.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng
hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất trong lãnh
thổ kinh tế của một nước trong một thời kỳ nhất định. Ba phương pháp đo lường
tổng sản phẩm thu nhập trong nước:
Thứ nhất, phương pháp sản xuất còn gọi là phương pháp giá trị gia tăng.
Theo phương pháp này GDP tổng hợp giá trị gia tăng của mọi doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Giá trị gia tăng được tính bằng cách lấy giá trị tổng sản lượng
trừ đi giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ mua ngoài đã được sử dụng hết
trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ hai, phương pháp thu nhập đo lường GDP trên cơ sở thu nhập tạo ra
trong quá trình sản xuất hàng hoá chứ không phải là giá trị của bản thân hàng

hoá.
GDP= w + i + R +Pr +Te
Trong đó: w là thu nhập từ tiền công, tiền lương
i là tiền lãi nhận được từ cho doanh nghiệp vay tiền
R là thuê đất đai, tài sản
Pr là lợi nhuận
Te là thuế gián thu mà chính phủ nhận được


6

Thứ ba, phương pháp chi tiêu sử dụng các thông tin từ luồng chi tiêu để
mua hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Vì tổng giá trị hàng hoá bán ra phải bằng
tổng số tiền được chi ra để mua chúng, nên tổng chi tiêu để mua hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng phải bằng GDP.
GDP= C +I +G +X - M
Trong đó: C là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hoá và dịch vụ
I là tổng đầu tư của khu vực tư nhân
G là chi tiêu của chính phủ về hàng hoá và dịch vụ
X – M là xuất khẩu ròng
Tổng sản phẩm quốc dân đo lường toàn bộ thu nhập hay giá trị sản xuất
mà các công dân của một quốc gia tạo ra trong một thời kỳ nhất định, không kể
trong hay ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
GNP = GDP + thu nhập ròng nhận được từ nước ngoài.
Do vậy, chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng
GNP hoặc GDP của kỳ sau so với kỳ trước, được tính theo công thức:

Trong đó, GNP0, GDP0 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm
quốc nội thời kỳ trước GNP1, GDP1là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản
phẩm quốc nội thời kỳ sau. Do có sự biến động của giá cả (lạm phát) nên người

ta phân định ra GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP và GDP
danh nghĩa là GNP, GDP tính theo giá hiện hành của thời kỳ tính; còn GNP và
GDP thực tế là GNP, GDP tính theo giá cố định của một năm được chọn làm
gốc. Vì vậy, trong thực tế có tăng trưởng kinh tế danh nghĩa (tính theo GNP,
GDP danh nghĩa) và tăng trưởng kinh tế thực tế (tính theo GNP, GDP thực tế).


7

2.1.3 Nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia
Tăng trưởng kinh tế quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố, song có một
số nhân tố cơ bản có tác động trực tiếp đó là các nhân tố:
Thứ nhất, yếu tố vốn: Theo nghĩa rộng vốn được hiểu là toàn bộ của cải
vật chất do con người tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên được sử dụng
vào quá trình sản xuất. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong những yếu tố đầu vào
phục vụ cho quá trình sản xuất. Theo nghĩa này, vốn tồn tại dưới hai hình thức:
vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức vật chất của
quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… Vốn
tài chính là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các loại chứng khoán. Vốn có
vai trò rất quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư
với tăng GDP gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm gia tăng ICOR
(Incremental Capital output Ration). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia theo tỷ lệ tăng
của GDP. Những nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển
với các chỉ số ICOR thấp, thường không quá 3%, có nghĩa là phải tăng vốn đầu
tư 3% để tăng 1% GDP. Vai trò của nhân tố vốn đối với tăng trưởng kinh tế
không chỉ thể hiện ở mức vốn đầu tư mà còn ở hiệu suất sử dụng vốn.
Thứ hai, yếu tố con người: là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền
vững. Tất nhiên, đó là con người có sức khoẻ, có trí tuệ, có kỹ năng cao, có ý
chí và nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp lý. Con người là nhân tố cơ bản
của tăng trưởng kinh tế bền vững bởi vì: tài năng, trí tuệ của con người là yếu

tố quyết định trong nền kinh tế tri thức; con người sáng tạo ra kỹ thuật, công
nghệ và sử dụng kỹ thuật, công nghệ, vốn… để sản xuất. Vì vậy, các quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia phát triển đều xác định mục tiêu phát triển giáo dục –
đào tạo, y tế trong chiến lược phát triển đất nước là để nhằm phát huy nhân tố
con người. Đó chính là sự đầu tư cho phát triển và bền vững.
Thứ ba, khoa học và công nghệ: là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng
kinh tế. Đây là nhân tố cho phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất mở rộng


8

theo chiều sâu. Khoa học và công nghệ tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao,
chất lượng sản phẩm tốt, lao động thặng dư lớn, tạo ra nguồn tích lũy lớn từ nội
bộ nền kinh tế để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay với cuộc cách mạng 4.0 thì khoa học – công nghệ càng
đóng vai trò quan trọng, là lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực tăng trưởng
của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Thứ tư, cơ cấu kinh tế: có vai trò quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Cơ
cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần
kinh tế. Cơ cấu kinh tế hợp lý thể hiện ở chỗ xác định đúng tỷ trọng, vai trò,
thế mạnh của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, từ đó phân bố các
nguồn lực phù hợp (vốn, sức lao động…). Cơ cấu kinh tế hợp lý có tác dụng
phát huy các thế mạnh, các tiềm năng, các yếu tố sản xuất của đất nước có hiệu
quả, là yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thứ năm, thể chế chính trị và trình độ quản lý nhà nước: Đây là một nhân
tố quan trọng và có quan hệ điều phối trực tiếp với các nhân tố khác. Thể chế
chính trị ổn định và tiến bộ cùng với sự quản lý có hiệu quả của nhà nước tạo
điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được
những khuyết


tật của những

kiểu

tăng

trưởng

kinh

tế đã có

trong lịch sử như: gây ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo sâu sắc, sự
phát triển chênh lệch quá lớn giữa các khu vực; đồng thời sử dụng và phát triển
có hiệu quả các nhân tố vốn, con người, khoa học, công nghệ, mở rộng tích lũy,
tiết kiệm và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài (vốn, công nghệ…) để tăng
trưởng kinh tế có hiệu quả.
2.1.4 Các mô hình tăng trưởng kinh tế
2.1.4.1 Lý thuyết tăng trưởng của Adam Smith
Adam Smith (1723-1790) được coi là người sáng lập ra kinh tế học.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các dân tộc”, ông đã trình bày một cách
tương đối hệ thống và đầy đủ nhất những quan điểm về kinh tế học, đó là: học


9

thuyết về “Giá trị lao động”, học thuyết “Bàn tay vô hình”, lý thuyết về phân
phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”…
Trong học thuyết về “Giá trị lao động”, Adam Smith cho rằng: Nguồn
gốc của tăng trưởng kinh tế là lao động, vốn và đất đai; Trong đó, lao động (chứ

không phải đất đai, tiền bạc) được coi là nguồn gốc tạo ra mọi của cải, là nguồn
cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Phát hiện quan trọng của Adam Smith về phân
công lao động và chuyên môn hoá lao động là cơ sở để tăng năng suất lao động
(NSLĐ) và tăng sản lượng (Adam Smith, 1776);
2.1.4.2 Quan niệm tăng trưởng của David Ricardo
David Ricardo (1772 - 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất.
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển, tân cổ điển và trào lưu kinh tế
hiện đại đều có nguồn gốc tinh thần từ các tư tưởng của David Ricardo. Trong
cuốn sách nổi tiếng “Các nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khoá”,
David Ricardo đã trình bày những quan điểm của ông về phát triển kinh tế, đó
là: Lập luận về các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa
chúng; Phân chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập của những nhóm
người này; Quan hệ cung - cầu và vai trò hạn chế của nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế;
Trong lập luận về các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và quan hệ
giữa chúng, David Ricardo cũng coi đất đai, lao động và vốn là những yếu tố
cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Nhưng theo ông, yếu tố quan trọng nhất của
tăng trưởng kinh tế là đất đai, đất đai chính là giới hạn của tăng trưởng. Lập
luận của David Ricardo là: Tăng trưởng là kết quả của tích luỹ, tích luỹ là hàm
của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này
lại phụ thuộc vào nông nghiệp và đất đai. Do đó, đất đai là giới hạn đối với sự
tăng trưởng. (David Ricardo, 1817);
2.1.4.3 Quan niệm tăng trưởng của Karl Marx
Karl Marx (1818-1883) là một nhà kinh tế học, xã hội học, triết học xuất


10

sắc. Ông là người sáng lập ra học thuyết Mác-xit, với học thuyết này, ông đã
làm một cuộc cách mạng trong kinh tế học. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là

bộ “Tư bản”. Những quan điểm cơ bản nhất của Mác về kinh tế học là: học
thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết tích luỹ và tái sản xuất…
Đồng thời, ông cũng nêu những ý kiến mới về các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
sự phát triển kinh tế, các yếu tố tăng trưởng kinh tế, sự phân chia giai cấp trong
xã hội tư bản, chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế;
Khi lập luận về các yếu tố tăng trưởng kinh tế, Karl Marx đã luận giải
rằng: Các yếu tố tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động,
vốn và tiến bộ kỹ thuật, trong đó lao động là yếu tố có vai trò quyết định đối
với tăng trưởng, cũng như đối với lợi nhuận và thu nhập. Chính trong quá trình
nghiên cứu về giá trị đặc biệt của sức lao động và quá trình sản xuất giá trị
thặng dư, Marx đã phát hiện ra điều này. (Karl Marx, 1867);
2.1.4.4 Lý thuyết tăng trưởng của John Mayard Keynes
John Mayard Keynes với cuốn sách “Lý thuyết chung về việc làm, lãi
suất và tiền tệ” (1936) được coi là người tạo ra đột phá lớn trong kinh tế học và
đánh dấu bước tiến mới trong lịch sử kinh tế học. Lý thuyết của Keynes cũng
được coi là cơ sở cho sự ra đời của lý thuyết tăng trưởng hiện đại;
Theo Keynes, có thể đạt tới và duy trì sự cân bằng ở một mức sản lượng
nào đó, không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường ở dưới
mức sản lượng tiềm năng, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người;
Lý thuyết trọng cầu của Keynes lần đầu tiên khẳng định rằng: Chính nhu
cầu (cầu đầu tư và cầu tiêu dùng), chứ không phải cung, là nhân tố quan trọng
quyết định sản lượng, và do đó quyết định tăng trưởng;
Lần đầu tiên, Keynes đã nêu bật vai trò của Chính phủ, thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài chính và tiền tệ) đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Đối lập với trường phái cổ điển cho rằng nền kinh tế có
thể tự vận động để xác lập những cân đối mới, Keynes đã nhấn mạnh vai trò


11


quan trọng của chính phủ trong điều tiết nền kinh tế. Cũng từ đó, lần đầu tiên,
vai trò của khu vực nhà nước trong nền kinh tế được coi trọng;
2.1.4.5 Mô hình tăng trưởng của Harrod - Domar
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 1940, các nhà kinh tế Roy
Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích sự tăng
trưởng. Mô hình này giải thích các yếu tố tăng trưởng, sự giải thích vẫn còn bị
ảnh hưởng của quan điểm trọng cung, tuy nhiên mô hình này đã thể hiện nhiều
ý tưởng của Keynes.
Harrod-Domar đã chỉ ra vai trò của tiết kiệm và đầu tư đối với tăng
trưởng, trong đó đầu tư là động lực cơ bản nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế thì tăng trưởng kinh tế vẫn có thể xảy ra trong
trường hợp không tăng đầu tư. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì
sự gia tăng đầu tư hay tiết kiệm cũng chỉ có thể cho phép đạt đến sự gia tăng
tốc độ tăng trưởng trong ngắn hạn, chứ không thể đạt được trong dài hạn. Mô
hình này, vì vậy, có ý nghĩa cho tăng trưởng trong ngắn hạn và trung hạn hơn
là trong dài hạn.
2.1.4.6 Mô hình tăng trưởng của Solow
Do những nhược điểm của mô hình Harrod-Domar, dựa trên những tư
tưởng của lý thuyết tân cổ điển, năm 1924, Solow đã xây dựng nên mô hình
tăng trưởng mang những ý tưởng mới, được gọi là mô hình tăng trưởng Solow.
Nếu như mô hình của Harrod-Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông
qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng, thì mô hình Solow đã đưa thêm
nhân tố lao động và công nghệ vào phương trình tăng trưởng và ông cũng khẳng
định rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố quyết định đến tăng trưởng, cả ngắn hạn và
dài hạn. Mô hình này cho biết: tiết kiệm, tăng dân số và tiến bộ công nghệ có
ảnh hưởng như thế nào tới mức sản lượng và tốc độ tăng trưởng của một nền
kinh tế theo thời gian;


12


Điểm đột phá nhất của mô hình tăng trưởng của Solow là đã giảm sự
cứng nhắc của mô hình Harrod-Domar bằng cách sử dụng hàm sản xuất có năng
suất giảm dần của các nhân tố sản xuất, trong đó giải định tiền công và hệ số
giữa vốn và sản lượng là có thể điều chỉnh, thay vì bất biến như ở mô hình
Harrod-Domar. Nhờ đó, nền kinh tế có thể điều chỉnh để tiến tới trạng thái cân
bằng và trạng thái này là ổn định.
2.1.4.7 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại (P.A. Samuelson)
Dựa vào lý thuyết của Keynes, chính phủ các nước đã sử dụng chính sách
kinh tế của nhà nước để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức
sản lượng tiềm năng. Nhưng sau một thời gian dài áp dụng lý thuyết này, các
nước có xu hướng quá nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế, do đó hạn chế
mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại mới cho quá
trình tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, một trường phái kinh tế mới ra đời. Các
nhà kinh tế của trường phái này ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp,
trong đó thị trường trực tiếp xác định quan hệ cung-cầu và những quan hệ cơ
bản khác của nền kinh tế, còn nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn
chế những mặt tiêu cực của thị trường. Thực chất của trường phái kinh tế hiện
đại là sự xích lại gần nhau của trường phái tân cổ điển và học thuyết kinh tế của
Keynes.
Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cũng khẳng định vai trò ngày càng tăng
của Nhà nước trong điều tiết kinh tế. Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn


13

hợp hiện đại, Chính phủ có 4 chức năng cơ bản: Thiết lập khuôn khổ pháp luật;
Xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô; Tác động vào việc phân bổ tài
nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế; Thiết lập các chương trình tác động đến
việc phân phối thu nhập. Theo ông, chính phủ cần tạo ra môi trường ổn định để

các doanh nghiệp và các hộ gia đình tiến hành sản xuất và trao đổi sản phẩm
một cách thuận lợi;
2.1.4.8 Lý thuyết tăng trưởng bền vững
Lần đầu tiên, Hội nghị của Liên hiệp quốc về Môi trường đã diễn ra vào
tháng 6 năm 1972 tại Stockholm, Thuỵ Điển. Trong hội nghị này, N.Meadows
đã thay mặt nhóm chuyên gia của Câu lạc bộ Rome trình bày báo cáo có tên
“Các giới hạn tăng trưởng”. Luận điểm chính của Báo cáo là: Nếu thế giới tiếp
tục duy trì mức độ phát triển như hiện tại thì trong thế kỷ 21, loài người sẽ đi
tới giới hạn của sự tăng trưởng và sự sụp đổ là không tránh khỏi. Báo cáo này
lập tức gây tiếng vang lớn trên thế giới và là cơ sở hình thành Chiến lược Phát
triển bền vững tiếp sau này của Liên hiệp quốc;
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã chứng kiến hàng loạt các cuộc khủng
hoảng về kinh tế, xã hội cũng như môi trường. Biến đổi khí hậu khốc liệt, thiếu
hụt tài nguyên trầm trọng…, tất cả những điều đó đã đưa tới một chiến lược
mới trong tăng trưởng của các quốc gia, chiến lược tăng trưởng xanh. Tăng
trưởng xanh chỉ là một phần, chứ không thay thế hoàn toàn tăng trưởng bền
vững. Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) đã gộp những xu
hướng xanh vào trong nền Kinh tế Xanh hoặc Thoả thuận Xanh mới toàn cầu;
Tháng 6 năm 2009, OECD, trong cuộc họp bộ trưởng các nước, đã yêu
cầu xây dựng Chiến lược tăng trưởng Xanh như là động lực quan trọng để phục
hồi nền kinh tế nhanh chóng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008;
Kỳ họp thứ 6 các Bộ trưởng Môi trường của các nước Châu Á - Thái
Bình Dương cuối tháng 9 năm 2010 tại Kazakhstan tái khẳng định: “Tăng
trưởng Xanh là một trong những xu hướng hỗ trợ cho tăng trưởng nhanh, cho


14

việc đạt tới những Mục tiêu Thiên niên kỷ và sự bền vững về Môi trường”. Kỳ
họp này cũng xác định 5 chính sách chủ yếu đề chuyển sang nền kinh tế xanh.

Đó là: Chuyển từ tăng trưởng theo số lượng sang chất lượng; Quốc tế hoá giá
sinh thái; Phát triển cơ sở hạ tầng bền vững; Chuyển việc bảo vệ môi trường
thành cơ hội kinh doanh; Thúc đẩy các hoạt động kinh tế giảm thiểu khí cácbon;
2.1.4.9 Lý thuyết tăng trưởng chất lượng
Theo R. Lucas và J. Stiglitz, chất lượng tăng trưởng biểu hiện ở một số
tiêu chí chính sau:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được những
biến động từ bên ngoài;
+ Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu được thể hiện ở sự đóng góp của
tổng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) cao và không ngừng gia tăng;
+ Tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế;
+ Tăng trưởng phải đi kèm với phát triển môi trường bền vững;
+ Tăng trưởng luôn hỗ trợ cho đổi mới thể chế dân chủ, đến lượt nó thúc
đẩy tăng trưởng ở mức độ cao hơn;
+ Tăng trưởng phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và xoá
đói giảm nghèo.
2.2 Lý thuyết về chất lượng cuộc sống
2.2.1 Khái niệm
Sống là một quá trình làm nảy sinh nhu cầu và thỏa mãn các nhu cầu cá
nhân trong quan hệ với cộng đồng. Sống cũng là quá trình xác lập giá trị sống
và kỹ năng sống. Nhưng mức độ thỏa mãn về lượng và về chất là khác nhau.
Chất lượng cuộc sống là thước đo về phúc lợi vật chất và giá trị tinh thần. Trong
thời đại ngày nay, việc không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho con
người là một nỗ lực của các nhà nước (Chính phủ), xã hội và cả cộng đồng quốc
tế. Thuật ngữ chất lượng cuộc sống được sử dụng trong một loạt các ngữ cảnh


15


bao gồm các lĩnh vực phát triển quốc tế, y tế, sức khỏe và thậm chí là cả về mặt
chính trị.
Chất lượng cuộc sống không nên nhầm lẫn với khái niệm về mức sống,
mà tiêu chí là chủ yếu dựa vào thu nhập (Nadler và Lawler, 1983). Thay vào
đó, chỉ số tiêu chuẩn về chất lượng của cuộc sống bao gồm không chỉ về thu
nhập, sự giàu có và việc làm, mà còn là môi trường xã hội, môi trường sống,
sức khỏe (về thể chất) và tinh thần, giáo dục, giải trí và cuộc sống riêng tư.
Chất lượng cuộc sống cũng không nên nhầm với chất lượng sống, một
khái niệm chỉ về các chỉ số sức khỏe của con người. Ngoài ra chất lượng cuộc
sống thường xuyên liên quan đến những khái niệm trừu tượng và đậm màu sắc
chính trị như tự do, dân chủ, nhân quyền, dân quyền. Ngoài ra nó cũng liên
quan đến chỉ số hạnh phúc, tuy nhiên, vì hạnh phúc là yếu tố mang tính chủ
quan và khó để đo lường, thống kê, người ta không thể cân đong đo đếm được
và không nhất thiết phải là sự giàu có, tăng thu nhập mới là sự hạnh phúc, thoải
mái và mức sống không nên được coi là một thước đo duy nhất
Chất lượng cuộc sống và hạnh phúc hiện tại của con người tùy thuộc vào
mức thu nhập, vào các điều kiện kinh tế và tài chính. Nhưng vấn đề là điều kiện
sống có thoải mái hay không? Điều đó tùy thuộc vào sức khỏe, vào môi trường
xã hội, vào kiến thức của từng người, vào các hoạt động văn hóa, vào thời
gian để giải trí, nói chung là vào rất nhiều yếu tố không thể cân, đong, đo, đếm
bằng tiền bạc. Theo Timossi (2008) và Boonrod (2009), một số tiêu chí khác
có thể phản ánh chất lượng cuộc sống như: HDI, GDP (GDP bình quân đầu
người và hộ gia đình, chỉ số nghèo đói), chỉ số giáo dục (gồm tỷ lệ người biết
chữ, trình độ văn hóa và tay nghề, số người mù chữ, số năm đến trường, cơ sở
hạ tầng cho giáo dục), Chỉ số tuổi thọ (gồm tuổi thọ, sức khỏe, y tế và các dịch
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, cơ sở hạ tầng cho y tế), và một số tiêu chí khác như
chỉ số calo bình quân đầu người - phản ánh tình trạng no đủ và chất lượng bữa
ăn đầu người, điều kiện sử dụng điện sinh hoạt, sử dụng nước sinh hoạt (nước



16

sạch, nước lọc, nước máy, nước ngầm, nước giếng...) là vấn đề cơ bản và cấp
thiết của con người, điều kiện về nhà ở, chỗ ở của con người (bao gồm diện
tích nhà ở và chất lượng nhà ở), ngoài ra còn các công trình công cộng, xã hội
khác như công viên, nhà vệ sinh công cộng, nhà ở xã hội... và các công trình
phúc lợi công cộng khác phục vụ cho cuộc sống vật chất và tinh thần của con
người.
Theo Liên Hiệp Quốc: Có lẽ biện pháp quốc tế được sử dụng phổ biến
nhất để đo lường chất lượng cuộc sống là các chỉ số phát triển con người (HDI),
với các nội dung cơ bản về tuổi thọ, giáo dục và mức sống như là một nỗ lực
để nâng cao cuộc sống có cho các cá nhân trong một xã hội nhất định. HDI
được sử dụng bởi Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc trong Báo cáo
phát triển con người của Liên Hiệp Quốc. Đây là một tiêu chí tổng hợp phản
ánh chất lượng cuộc sống.
Trong khi đó, WHO đã đưa ra tiêu chí chất lượng cuộc sống (Quality of
life-100), mức độ hạnh phúc gồm 100 câu hỏi trắc nghiệm để đo một số tiêu
chí với ba nhóm là:
1) Mức độ sảng khoái về thể chất gồm: Sức khỏe, tinh thần, ăn uống,
ngủ, nghỉ, đi lại (giao thông, vận tải), thuốc men (y tế, chăm sóc sức khỏe);
2) Mức độ sảng khoái về tâm thần: yếu tố tâm lý, yếu tố tâm linh (tín
ngưỡng, tôn giáo);
3) Mức độ sảng khoái về xã hội gồm: các mối quan hệ xã hội, môi trường
sống (bao gồm cả môi trường xã hội: an toàn, an ninh, kinh tế, văn hóa, chính
trị… và môi trường thiên nhiên)
Một cuộc sống có chất luợng, ngoài sự an nhiên không âu lo, còn là cảm
nhận yêu thương, không ân hận oán thù hay bất mãn, không khát khao chiếm
hữu bất cứ một điều gì, và luôn hiểu rằng không có điều gì là bất biến cũng như
tất cả đều tái sinh. Cuộc sống đầy rẫy những đam mê không bao giờ đem lại
cho ta sự an lành. Nhưng cái tâm từ bi, lòng bao dung, sự tha thứ và ước muốn



17

đem lại niềm vui cho người khác lại chính là những hạt mầm hạnh phúc trong
tâm hồn chúng ta. Đừng bao giờ yêu chính bản thân mình nhiều hơn yêu
những người thân quanh mình, khi ấy sẽ nhận ra mình đang sống những ngày
sống thật sự có chất luợng.
2.2.2 Tiêu chí phản ánh chất lượng cuộc sống
2.2.2.1 HDI - một tiêu chí tổng hợp phản ánh chất lượng cuộc sống
Về tiêu chí phản ánh chất lượng cuộc sống cũng có rất nhiều tiêu chí
được đưa ra tuỳ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề. Trong đó, WHO cũng đưa ra
bộ tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống (Quality of life-100) gồm 100 câu
hỏi trắc nghiệm để đo một số tiêu chí với ba nhóm: Mức độ sảng khoái về thể
chất; mức độ sảng khoái về tâm thần; mức độ sảng khoái về xã hội. Còn Liên
Hợp quốc không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng lại sử dụng biện pháp để đo
lường chất lượng cuộc sống là các chỉ số phát triển con người (HDI), với các
nội dung cơ bản về tuổi thọ, giáo dục và mức sống như là một nỗ lực để nâng
cao cuộc sống có cho các cá nhân trong một xã hội nhất định. HDI được sử
dụng bởi Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc trong Báo cáo phát triển
con người của Liên Hiệp Quốc. Chỉ số này bao gồm: Chỉ số giáo dục (gồm tỷ
lệ người biết chữ, trình độ văn hóa và tay nghề, số người mù chữ, số năm đến
trường, cơ sở hạ tầng cho giáo dục); Chỉ số tuổi thọ (gồm tuổi thọ, sức khỏe, y
tế và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, cơ sở hạ tầng cho y tế), và một số
tiêu chí khác như chỉ số calo bình quân đầu người - phản ánh tình trạng no đủ
và chất lượng bữa ăn đầu người, điều kiện sử dụng điện sinh hoạt, sử
dụng nước sinh hoạt (nước sạch, nước lọc, nước máy, nước ngầm, nước
giếng...) là vấn đề cơ bản và cấp thiết của con người, điều kiện về nhà ở, chỗ
ở của con người (bao gồm diện tích nhà ở và chất lượng nhà ở), ngoài ra còn
các công trình công cộng, xã hội khác như công viên, nhà vệ sinh công

cộng, nhà ở xã hội.... và các công trình phúc lợi công cộng khác phục vụ cho


×