Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Luận văn về Phá sản Doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.12 KB, 67 trang )

Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phá sản là một hiện tượng kinh tế bình thường, khách quan, phát sinh khi các doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Phá sản
hiện nay không chỉ là việc chấm dứt hoạt động, thu hồi toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
và thanh toán cho các chủ nợ theo một thứ tự nhất định. Phá sản còn một khía cạnh đáng
lưu ý là tạo cơ hội cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thỏa thuận với các chủ nợ, tái cấu
trúc lại doanh nghiệp và lên kế hoạch trả nợ hợp lý để trở lại hoạt động bình thường. Việc
giải quyết hậu quả của quá trình đó là tất yếu, là nhiệm vụ của bất kỳ quốc gia nào nhằm
đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể tham gia kinh doanh,
đảm bảo vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, trải qua quá trình dài của lịch sử phát triển kinh tế, bên cạnh những yếu
tố tích cực là thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân thì nền kinh tế cũng xảy ra nhiều biến động, thăng trầm và khủng hoảng. Hậu
quả của sự khủng hoảng kinh tế thường kéo theo sự phá sản hàng loạt của các doanh
nghiệp. Để giải quyết hậu quả của hoạt động bị kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh
toán, giữa chủ nợ và người mắc nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết
khác nhau, hoặc là tự giải quyết, hoặc là với sự giúp đỡ của một cá nhân hoặc tập thể nào
đó. Tuy nhiên, đôi khi các phương thức giải quyết tự phát không hiệu quả, từ đó phát sinh
nhu cầu có những quy định pháp luật và sự can thiệp cần thiết để điều chỉnh, giải quyết
hiện tượng phá sản một cách hiệu quả hơn, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội đồng thời bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan: chủ nợ, người mắc nợ và đặc
biệt là người lao động.
Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, nhu cầu xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng luôn được các quốc
gia quan tâm, chú ý. Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, việc các doanh
nghiệp lớn ngày càng phát triển, đồng thời các doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỡ, bị loại
khỏi thị trường kinh doanh là quy luật tất yếu. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, đáp ứng các yêu cầu của việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết quốc tế đa
phương, song phương của Việt Nam với các nước, ngay từ buổi đầu của công cuộc đổi


mới nền kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến
việc xây dựng, sửa đổi pháp luật, theo đó pháp luật phá sản cũng không là ngoại lệ.
Mặc dù vậy, việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp là vấn đề hết
sức phức tạp. Hàng năm, theo thống kê của tòa án thì số lượng các vụ phá sản được tòa
1


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
án thụ lý giải quyết rất ít. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong
đó có nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã
hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.
Vì vậy để hiểu rõ hơn tôi chọn “Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm hiểu những quy định của pháp luật
về thủ tục phá sản để làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời
gian qua. Trên cơ sở đó phát hiện những tồn tại, hạn chế cũng như các yếu tố khác làm
ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Từ đó, đề tài cũng đưa ra
những kiến nghị nhằm tháo gỡ vướng mắc, nâng cao hiệu quả giải quyết phá sản, nhằm
hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh.
3. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung phân tích các trình tự thủ tục phá sản doanh nghiệp theo quy
định của Luật Phá sản 2014. Bên cạnh đó, những quy định về trình tự, thủ tục phá sản
doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2004 cũng được tìm hiểu để so sánh, đối chiếu với các
quy định hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: Sưu tầm và
phân tích tài liệu; tổng hợp so sánh; thống kê trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã theo từng thời kỳ so với văn bản hiện hành.
5. Bố cục đề tài

Luận văn “Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” có
bố cục như sau:
Lời nói đầu;
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung của pháp luật phá sản tại Việt Nam;
- Chương 2: Những quy định của pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp tại Việt
Nam;
- Chương 3: Thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nước ta và một số kiến
nghị góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp.
Kết luận;
Phụ lục;
Tài liệu tham khảo.
2


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN TẠI VIỆT NAM
1. 1. Khái quát chung về phá sản
3


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
1.1.1 Khái niệm phá sản
“Phá sản” hay “vỡ nợ” là tình trạng xảy ra khá phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, đặc biệt khi các doanh nghiệp gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, sự khan hiếm
nguồn vốn hay sự quản lý tài chính lỏng lẻo.
Ở góc độ kinh tế: phá sản là tình trạng mất cân đối giữa thu và chi tại một doanh
nghiệp hay một công ty mà biểu hiện rõ rệt nhất ở sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả

năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Ở Châu Âu: khi nói về khái niệm phá sản, người ta thường dùng thuật ngữ
“Bankruptcy” hoặc “Banqueroute”1. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng La Mã “Banca
Rotta”, có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy.”
Theo từ điển tiếng Việt: phá sản là lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và
thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán
hết tài sản mà vẫn không đủ trả nợ 2.
Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật phá sản 2014: Phá sản là tình trạng của
doanh nghiệp khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật phá sản 2014: Doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong
thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Từ những phân tích nêu trên có thể nói thủ tục phá sản là tập hợp những quy định
về trình tự, thủ tục, cách thức do cơ quan nhà nước ban hành để doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán tiến hành yêu cầu Tòa án nnhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.
1.1.2 Các tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường
Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay có thể dẫn
đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia
vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và rộng, số lượng bạn
hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các
doanh nghiệp bạn hàng theo “hiệu ứng domino” - phá sản dây chuyền.
Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định về
mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc làm ngày
càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí các tội phạm.

1

Khuất Thu Huyền, “Phá sản và pháp luật phá sản tại Việt Nam” – Chuyên đề khoa học xét xử, Viện Khoa học Xét
xử, Tòa án nhân dân tối cao, 2010.
2

“Phá sản” theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, năm 2003, tr.762.

4


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng nền
kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị.
Như vậy, xét ở ba mặt trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực
cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản
cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất
quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ
tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản…
1.1.3 Phân biệt giải thể và phá sản
Xét về mặt hiện tượng thì phá sản và giải thể doanh nghiệp có thể đều đưa đến một
hậu quả pháp lý là chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho
các chủ nợ, giải quyết các nghĩa vụ tài chính với của doanh nghiệp với nhà nước và
những người có liên quan.
Tuy nhiên, xét về mặt bản chất phá sản và giải thể có sự khác biệt rất rõ rệt như
sau:
Về quy định trong luật: Giải thể quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014, còn phá
sản quy định trong Luật Phá sản 2014.
Về lý do phá sản hoặc giải thể: Nếu như giải thể có nhiều lý do như mục tiêu kinh
doanh đạt được hoặc không mong muốn kéo dài hay không muốn tiếp tục hoạt động kinh
doanh; hoặc hết hoạt động đầu tư, kinh doanh theo giấy phép hay bị thu hồi giấy phép
thành lập và hoạt động do vi phạm pháp luật thì phá sản chỉ có một lý do duy nhất là mất
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Về thẩm quyền giải quyết: Nếu giải thể chính do chủ doanh nghiệp hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (chẳng hạn: cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập) thì
phá sản do cơ quan duy nhất có quyền quyết định đó là Tòa án.
Về thủ tục tiến hành: Giải thể là một thủ tục hành chính bởi chủ doanh nghiệp tự
quyết định việc giải thể hoặc theo quyết định, phê duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền còn phá sản là một thủ tục tư pháp có tính tố tụng cao: chủ nợ gửi đơn lên tòa án
xin giải quyết phá sản doanh nghiệp và tuyên bố doanh nghiệp phá sản.
Về xử lý quan hệ tài sản: Khi giải thể chủ doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp trực
tiếp thanh toán tài sản, giải quyết nghĩa vụ tài chính với các bên liên quan còn phá sản thì
5


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp được thực hiện
thông qua một cơ quan trung gian sau khi có quyết định tuyên bố phá sản.
Về hậu quả pháp lý: Nếu như giải thể bao giờ cũng dẫn đến việc chấm dứt hoạt
động và bị xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh thì việc phá sản có nhiều trường hợp xảy
ra như doanh nghiệp bị chấm dứt hoạt động, xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh hoặc có
thể tái cơ cấu, thay đổi chủ sở hữu và vẫn tiếp tục hoạt động.
Về quy định của pháp luật đối với người quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp: Đối
với trường hợp doanh nghiệp bị tòa án tuyên bố phá sản thì những người giữ chức vụ
lãnh đạo trong các doanh nghiệp nhà nước không được đảm đương các chức vụ lãnh đạo
tại các doanh nghiệp nhà nước nào kể từ ngày doanh nghiệp nhà nước mà họ quản lý bị
phá sản. Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có thể bị cấm
thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 03 năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản. Trong khi đó thì chủ doanh nghiệp chấm dứt do giải thể được toàn quyền thực hiện
các hoạt động đầu tư, kinh doanh trở lại bằng việc thành lập các doanh nghiệp mới mà
không bị hạn chế gì.
1.2 Khái quát chung về thủ tục phá sản
1.2.1 Khái niệm

Giống như các thực thể sống, doanh nghiệp cũng có các giai đoạn ra đời, phát
triển, suy vong, và chấm dứt hoạt động. Trong quãng đời của mình, doanh nghiệp có
nguy cơ bị Toà án tuyên bố phá sản bất cứ khi nào lâm vào tình trạng phá sản.
Thủ tục là những quy định, quy ước về trình tự, cách thức tiến hành để làm tốt một
việc gì đó. Ví dụ: Để đăng ký kết hôn thì thủ tục tiến hành thì cả hai cùng phải đến Uỷ
ban nhân dân phường, xã, thị trấn của một trong hai bên nam hoặc nữ; nếu là nơi cư trú
của người nữ thì người nữ chỉ cần mang theo sổ hộ khẩu và giấy chứng minh nhân dân
còn người nam khác xã không có hộ khẩu tại đó thì phải trình thêm giấy xác nhận độc
thân của địa phương nơi mình cư trú.
Thuật ngữ “Phá sản” thường được sử dụng để chỉ những doanh nghiệp bị lâm vào
tình trạng hỗn loạn về tài chính và mất khả năng thanh toán các khoản nợ. Có nhiều mức
độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến
những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh
doanh.
Từ những phân tích nêu trên có thể nói thủ tục phá sản là tập hợp những quy định
về trình tự, thủ tục, cách thức do cơ quan nhà nước ban hành để doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán tiến hành yêu cầu Tòa án nnhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản
6


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
1.2.2 Đặc điểm của thủ tục phá sản
Về bản chất, phá sản hay vỡ nợ xuất phát từ tình trạng mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn phải trả của con nợ có liên quan. Do đó, nó tạo nên nghĩa vụ của
con nợ và quyền (truy đòi nợ) của các chủ nợ. Để giải quyết tình trạng này, giữa chủ nợ
và con nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết khác nhau: hoặc là tự giải
quyết thông qua thương lượng, đàm phán, hoặc là với sự giúp đỡ của một cá nhân hoặc
tập thể nào đó, đôi khi là chính quyền địa phương nơi con nợ cư trú hay nơi con nợ tiến
hành các hoạt động kinh doanh. Quá trình giải quyết “phá sản”, đảm bảo nghĩa vụ của
chủ nợ và “giải thoát” trách nhiệm cho con nợ yêu cầu phải có sự can thiệp của pháp luật

để hài hòa lợi ích của cả hai. Thủ tục phá sản có một số đặc điểm nhất định sau:
Thứ nhất: Thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Bởi vì các chủ nợ của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, không
tự xé lẻ ra để đòi nợ riêng. Họ cùng tham gia vào nhóm chung để tiến hành đòi nợ hay
đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là hội nghị chủ nợ. Ngoài ra, khi giải quyết vấn đề phá
sản của doanh nghiệp, thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó được bán thanh lý, đưa vào
quỹ chung và trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định mà Luật Phá sản quy
định. Do vậy, trong bất cứ trường hợp nào, phá sản cũng là một thủ tục mang tính tập thể
cao.
Thứ hai: Thủ tục phá sản không chỉ nhắm đến mục đích đòi nợ mà còn chú trọng đến
việc giúp đỡ để con nợ có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Xu hướng chung của pháp luật
phá sản là chú trọng giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:
- Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Vì
nếu doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản thì quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
nợ mới không bị đe dọa, môi trường đầu tư, kinh doanh của nhà nước vì thế mà cũng
được cải thiện.
- Thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản để bù đắp các khoản nợ.
Thứ ba: Kết thúc thủ tục phá sản thường là sự chấm dứt tồn tại của một chủ thể
kinh doanh. Phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, theo đó các chủ nợ và người có
quyền, nghĩa vụ liên quan tiến hành thủ tục tố tụng tư pháp để yêu cầu tòa án can thiệp
nhằm thu hồi các khoản nợ của mình. Có những trường hợp doanh nghiệp phục hồi các
hoạt động kinh doanh một cách thành công nhưng nhìn chung hậu quả pháp lý của phá
sản là các doanh nghiệp liên quan bị chấm dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
đó bị thanh lý để trả cho các chủ nợ. Trong trường hợp này, phá sản có ý nghĩa khá tiêu
cực.
7


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Thứ tư: thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá phức

tạp. Điều này thể hiện ở việc tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải quyết phá
sản, từ ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của các doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, xử
lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp…Do tính chất đặc biệt phức tạp của mình, tố
tụng phá sản đòi hỏi phải có luật riêng và luôn là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.
1.3 Khái quát chung về pháp luật phá sản
1.3.1 Khái niệm
Hệ thống pháp luật Việt Nam: là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc,
định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau,
được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các
văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức,
thủ tục nhất định3.
Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy phạm pháp luật nhằm hướng
đến việc giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản, trong đó Luật phá sản đóng vai
trò trung tâm vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc của thủ tục giải quyết một
vụ phá sản.
Luật phá sản 2014 quy định về trình tự, thủ tục nộp đơn, thụ lý và mở thủ tục phá
sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản trong quá trình giải quyết
phá sản; thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định
tuyên bố phá sản; áp dụng đối với doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật4.
1.3.2 Vai trò của pháp luật phá sản
Thứ nhất: Là công cụ bảo vệ một cách có hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ nợ.
Vì trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh
nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ thông
qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khở kiện ra tòa án. Tuy
nhiên việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng nhiều khi không giải quyết một cách thỏa
đáng quyền lợi hợp pháp của các nhà kinh doanh. Do đó, thủ tục phá sản là một cơ chế
đòi nợ đặc biệt để các chủ nợ có thể sử dụng đòi nợ. Tính ưu việt của cơ chế này là việc

đòi nợ được bảo đảm bằng việc tòa án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ và
3
4

https: //vi.wikipedia.org/wiki/Hệ-thống-pháp-luật-Việt-Nam;
Điều 1, 2 Luật phá sản 2014;

8


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Đều này được thể hiện
qua hàng loạt các quy định liên quan đến quyền của chủ nợ như: quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, quyền khiếu nại, quyền đại diện, quyền đề xuất phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh....
Thứ hai: Bảo vệ lợi ích của con nợ, tạo cơ hội để con nợ rút khỏi thị trường một
cách trật tự.
Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Mặt khác, một
doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội mà trước
hết là đối với lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình
trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết không phải là việc
tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó cho các chủ nợ mà là tìm
mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này.
Thứ ba: Góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao động.
Chính vì phá sản mà người lao động phải mất việc làm, lâm vào tình trạng thất
nghiệp. Do vậy muốn bảo vê người lao động trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp
không bị phá sản. Cơ chế phục hồi doanh nghiệp là thực hiện chủ trương này vì trên thực
tế cứu được doanh nghiệp là cứu được người lao động. Nhưng khi người lao động làm
việc mà không được trả lương trong một thời gian dài thì họ có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản để được giải quyết quyền lợi.

Thứ tư: Góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít tài để thanh toán nợ thì
việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều rất có thể xảy ra. nếu cứ để
các các chủ nợ “mạnh ai nấy làm”, tùy nghi “xiết nợ” một cách vô tổ chức thì trật tự, an
toàn xã hội sẽ không được bảo đảm. Vì vậy, căn cứ vào pháp luật phá sản tòa án sẽ thay
mặt nhà nước đứng ra giải quyết một cách công bằng, khách quan xung đột về lợi ích
giữa các chủ nợ và con nợ và điều đó sẽ góp phần đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội.
Thứ năm: Góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoat động sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Pháp luật phá sản là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh phải năng động,
sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng khi hành nghề.
- Pháp luật phá sản là cơ sở pháp lý để xóa bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém
hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư.
1.3.3 Sự hình thành pháp luật phá sản
9


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
1.3.3.1 Sự hình thành pháp luật phá sản một số nước trên thế giới
Về tên gọi: Văn bản pháp luật điều chỉnh các thủ tục phá sản và giải quyết mối
quan hệ chủ nợ - con nợ được gọi thông dụng nhất là Luật Phá sản.
Tuy nhiên, ở mỗi nước khác nhau lại có cách gọi tên khác nhau: ở Nam Tư đã có
Luật cưỡng chế hoà giải phá sản (năm 1905); ở Anh có Luật mất khả năng thanh toán,
Luật đình chỉ giám đốc công ty (năm 1986); ở Hàn Quốc có Luật tổ chức lại công ty…
Thời trung cổ: các quốc gia Châu Âu đã ban hành những văn bản pháp luật phá
sản đầu tiên5. Lúc đầu, phạm vi áp dụng của những luật này chỉ giới hạn trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại, nhưng dần dần đã được đưa vào áp dụng ở nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, và cho đến nay, pháp luật về phá sản đã điều chỉnh cả các quan
hệ kinh doanh của cả các pháp nhân, cá nhân, thậm chí những trường hợp phá sản do tiêu
dùng.

Trong một thời gian dài, việc phá sản chỉ đi liền với việc thanh toán tài sản của
con nợ cho người chủ nợ. Sau khi nền thương mại của người La Mã sụp đổ, thủ tục thanh
toán tài sản bị lãng quên. Người vỡ nợ bị tống giam và đối xử như tội phạm hình sự, một
hiện tượng kéo dài nhiều năm và chỉ chấm dứt vào đầu thế kỷ 19 theo hệ thống pháp luật
Anh – Mỹ.
Tại Châu Âu: cho đến những năm đầu của thế kỷ 20, vỡ nợ vẫn được pháp luật
nhiều nước Châu Âu xem như dạng tội phạm, có thể bị tù giam và bị cưỡng bức trả nợ.
Tuy nhiên theo thời gian, các quốc gia Châu Âu đã dần xây dựng luật phá sản theo hướng
giải quyết thấu đáo các khoản nợ mà con nợ phá sản để lại, kết hợp hài hòa quyền lợi của
chủ nợ - con nợ dù cán cân vẫn nghiêng chủ yếu về các chủ nợ.
Ở Hoa Kỳ: luật phá sản đầu tiên được ban hành năm 1800 với các quy định
“hướng vào chủ nợ” và do vậy nhiều trường hợp con nợ còn bị xem là tội phạm 6. Năm
1841, Mỹ ban hành thêm Luật mất năng lực trả nợ, luật này cho phép con nợ có thể đề
xuất việc phá sản lên tòa để được bảo hộ, miễn trách nhiệm do phá sản gây ra. Năm
1874, Luật phá sản sửa đổi của Hoa Kỳ được thông qua đã chuyển sang mục tiêu
“hướng vào con nợ” với quy định thêm về thủ tục hòa giải. Năm 1898 Hoa Kỳ thông
qua Luật phá sản Liên bang, quy định về chế độ người quản lý tài sản nhằm giám sát
quá trình tiến hành tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phá sản. Năm
1938 Hoa Kỳ lại tiếp tục sửa đổi, bổ sung chi tiết các nội dung về thủ tục phục hồi
(được quy định ở chương 10 và chương 11 Luật phá sản Liên bang). Năm 1978, Mỹ
5

Chuyên đế khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật Phá sản - Tập 1. Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao và Nhà
xuất bản Tư pháp, 2010 - Phan Thị Thu Hà - Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao;
6
TS Phạm Duy Nghĩa - Khoa Luật, ĐHQG “Đi tìm triết lý của luật phá sản” Bài tham luận tại hội thảo lấy ý kiến về
Luật phá sản DN (sửa đổi) - tổ chức ngày 20/11/2003 tại VCCI.

10



Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
thông qua Luật phá sản sửa đổi với hai chương rất nổi tiếng là chương 7 (về thủ tục
thanh toán) và chương 11 (thủ tục phục hồi), được nhiều học giả đánh giá là “cuộc cách
mạng thứ hai” đối với luật phá sản. Sau đó, Luật phá sản của Hoa Kỳ được sửa đổi, bổ
sung qua các năm 1984, 1994, 1998, 2001, 2003 và 2005. Hiện nay, khái niệm về phá
sản của Mỹ và các quy định ở hai chương 7 và chương 11, đặc biệt ở chương 11 của
Luật phá sản Hoa Kỳ được nhiều nước học tập kinh nghiệm khi xây dựng luật phá sản
của mình, ví dụ như các quy định trong Luật “tái tạo công ty” của Nhật; quy định về
“chế độ tái cơ cấu” trong Luật phá sản doanh nghiệp của Trung Quốc, Đài Loan…
1.3.3.2 Sự hình thành pháp luật phá sản ở Việt Nam
Trong cả 02 bộ cổ luật nổi tiếng của Việt Nam là Hồng Đức và Gia Long, các chế
định về “bắt nợ” bao gồm cả việc bắt giữ đồ đạc, của cải và thậm chí người mắc nợ được
quy định khá rõ ràng.
- Luật Gia Long quy định: chủ nợ có thể cầm tù người mắc nợ để cưỡng bách trả
nợ (Nếu số nợ dưới 30 lạng bạc). Trường hợp này, thời gian giam giữ là một năm. Nếu
quá một năm mà quả thực con nỡ vẫn mất khả năng thanh toán, họ sẽ không bị đòi nợ
nữa nhưng bị đánh trượng tùy thuộc vào số nợ nhiều hay ít. Nếu số nợ trên 30 lạng bạc và
sau khi bị giam giữ trên một năm mà con nợ vẫn mất khả năng thanh toán, chủ nợ có thể
tâu lên nhà vua để nhà vua tùy nghi quyết định.
- Về chế định thanh toán tài sản: Điều 592 Bộ luật Hồng Đức quy định “nếu
người mắc nợ là quan từ cửu phẩm trở lên, mắc nợ quá nhiều mà không có đủ tài sản trả
hết các khoản nợ, được quyền tâu xin thanh toán tài sản, chia cho các chủ nợ tùy theo số
nợ nhiều hay ít…Người mắc nợ không được giấu diếm tài sản, trái luật bị phạt 80 trượng.
Chủ nợ nào tìm được tài sản dấu được phép xin lấy đủ nợ.”
Cũng như các nước thuộc địa khác, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật thực dân. Những quy định về khánh tận, thanh toán tư pháp phá sản cũng
đã có trong Bộ luật Thương mại Sài Gòn 7. Hai đạo luật điều chỉnh phá sản đã được ban
hành tại Việt Nam trước đây là Luật Phá sản trong Luật Thương mại Trung phần tại miền
Trung Việt Nam ngày 02/06/1942 và Luật Phá sản trong Luật Thương mại miền Nam

Việt Nam năm 19738.
Tuy nhiên, sau năm 1975, trong khoảng trên dưới 10 năm, Việt Nam không chủ
trương thực hiện nền kinh tế cạnh tranh nhiều thành phần nên khái niệm về phá sản hầu
7

PGS.TS Dương Đăng Huệ - Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế Bộ Tư pháp, Báo cáo phúc trình đề tài: “Đánh giá thực
trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản DN và các quy định pháp luật khác có
liên quan”; năm 2002, tr.3 - 6.
8

11


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
như không xuất hiện. Trong thời kỳ này, đất nước gặp nhiều thách thức: vừa mới bước
chân khỏi vũng lầy chiến tranh, lại phải đối mặt với cấm vận, thiếu thốn hàng hóa, nền
kinh tế tự cung tự cấp và thói quan liêu, bao cấp đã làm đất nước rơi vào cuộc khủng
hoảng khá trầm trọng và toàn diện. Phải đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện đổi mới
nền kinh tế - xã hội và bước đầu tiếp nhận nền kinh tế hàng hóa cạnh tranh, với sự xuất
hiện của nhiều thành phần sở hữu. Mặc dù vậy, phải đến đầu những năm 1990, các chế
định pháp lý về doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh bao gồm cả các chế định về phá sản
mới được được hình thành một cách cơ bản.
* Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), khi nước ta chuyển từ nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì các
doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau (nhà nước, tư nhân, có vốn đầu
tư nước ngoài…) mới được thành lập và cạnh tranh bình đẳng. Trong quá trình hoạt động
của các doanh nghiệp, bắt đầu xuất hiện hiện tượng cạnh tranh, đào thải, chọn lọc tự
nhiên để dẫn đến một tất yếu khách quan: các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua
lỗ, mất khả năng thanh toán buộc phải giải thể hoặc phá sản, các doanh nghiệp làm ăn tốt

tiếp tục phát triển.
Trước tình trạng đó, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 được hình thành là một
xu hướng tất yếu. Đây là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên của Việt Nam sau năm 1975
điều chỉnh toàn bộ các vấn đề liên quan đến phá sản của các doanh nghiệp. Luật phá sản
doanh nghiệp được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực từ ngày
01/07/1994, bao gồm 6 chương, 52 điều.
* Luật phá sản năm 2004
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 còn bất cập, không phù hợp với thực tế
khách quan. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, tòa án
nhân dân tối cao đã được giao trọng trách chủ trì soạn thảo một bộ luật mới thay thế cho
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Ngày 15/06/2004 Quốc hội đã thông qua Luật phá
sản năm 2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày
15/10/2004. Luật phá sản năm 2004 bao gồm 9 chương và 95 điều, quy định và giải quyết
hầu hết các vấn đề liên quan đến giải thể doanh nghiệp.
Sau gần 10 năm được áp dụng, có thể nói Luật phá sản năm 2004 đã thể hiện được
vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
Việt Nam trong việc thể chế hóa chính sách kinh tế của nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ
12


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự, góp phần tái phân phối tài sản; thúc đẩy sự
lưu thông vốn trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động và các chủ nợ9.
* Luật phá sản năm 2014
Sau khi Luật phá sản năm 2004 được ban hành, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; trong đó tại Mục 3 Phần II về
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh có nhận định: “Xác

định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế
bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu,...Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do
kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
Tạo cơ sở pháp luật để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát
triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và góp
phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam
kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu
tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên
giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng,
phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp luật về phá
sản”.
Bên cạnh đó, ngày 19/02/2013, Thủ tướng ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg
phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013- 2020,
trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm các nội dung trên.
Triển khai tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 nêu trên và các
văn bản có liên quan, đồng thời nhận thức được những hạn chế, bất cập của thực tiễn thi
hành Luật phá sản năm 2004, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị và được Quốc hội quyết
định đưa Dự án Luật phá sản (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm
kỳ Quốc hội khoá XIII (2011-2016).
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội XIII, Luật phá sản năm 2014 đã chính thức được
thông qua ngày 19/06/2014, bao gồm 9 chương, 133 điều và sẽ có hiệu lực thi hành kể từ
9

Báo cáo tổng kết thi hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004 số 55/BC-TANDTC của TAND tối cao, ngày
23/09/2013.


13


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
ngày 01/01/2015 đồng thời thay thế cho Luật phá sản năm 2004.
So với Luật phá sản năm 2004, Luật này được đánh giá là có những sửa đổi khá
căn bản và toàn diện. Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể: Tiêu chí xác định doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản tài viên, về thẩm quyền giải quyết phá
sản của Tòa án, về thủ tục thương lượng trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản…

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Phá sản không phải là một thủ tục “tự động”, tức là nó sẽ đương nhiên xảy ra khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Trái lại,
phá sản là một thủ tục “có điều kiện”, tức là chỉ được xem xét giải quyết trên cơ sở có
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đã phá sản
về mặt thực tế nhưng lại chưa được coi là phá sản về mặt pháp lý do không có yêu cầu
tuyên bố phá sản. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản, dù thực tế
cho thấy họ có khả năng khôi phục tình trạng kinh doanh, nhưng các chủ nợ quá thiếu
kiên nhẫn mà nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản ngay khi họ không được thanh toán các
khoản nợ.
2.1 Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
2.1.1 Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo quy định tại Điều 5 Luật phá sản 2014 thì những chủ thể sau có quyền nộp
đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp:
14



Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh
nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi
chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết
thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến
hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong
thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công
ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ
phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ công
ty quy định.
- Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành
viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác
xã, liên hiệp hợp tácxã mất khả năng thanh toán.
Tuy nhiên Luật phá sản năm 2014 cũng quy định một số cá nhân phải có “nghĩa
vụ” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn đó là:
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ
tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chủ sở
hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán.
Theo đó, doanh nghiệp được cho là mất khả năng thanh toán “khi không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn ba tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”,
trong khi đó phá sản là “tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị tòa án

nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
Như vậy, chỉ khi tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán mới được coi là ở trong tình trạng phá sản. Hơn nữa, pháp luật đã quy
định một giai đoạn chờ là 03 tháng kể từ ngày khoản nợ liên quan đến hạn, qua đó tạo
thêm cơ hội để doanh nghiệp thanh toán nợ.
15


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Việc có tình trạng mất khả năng thanh toán là cơ sở để chủ nợ, người lao động,
người đại diện theo pháp luật hay người quản lý của doanh nghiệp, cổ đông nộp đơn yêu
cầu tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp 10 và là căn cứ để thẩm phán ra quyết
định mở thủ tục phá sản11. Tuy vậy, tình trạng mất khả năng thanh toán không nhất thiết
sẽ dẫn tới việc mở thủ tục phá sản.
Thực vậy, trong khoảng thời gian kể từ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
cho tới khi tòa án ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể
khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn có được nguồn thu đáng
kể từ việc thực hiện hợp đồng hay được cấp một khoản tín dụng mới). Ngay cả khi mất
khả năng thanh toán và đã bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
vẫn có cơ hội đạt được thỏa thuận với chủ nợ này về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản12.
Theo Điều 26 Luật phá sản năm 2014, khi yêu cầu tòa án nhân dân mở thủ tục phá
sản, các chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần phải làm đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản với các nội dung bắt buộc sau đây:
-

Ngày, tháng, năm;

-


Tên tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết phá sản;

-

Tên, địa chỉ của người làm đơn;

-

Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản;

-

Khoản nợ đến hạn.

Kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản người nộp đơn phải có chứng cứ chứng
minh được khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp liên quan.
Ví dụ: Nếu doanh nghiệp đó nợ tiền mua hàng từ các chủ nợ và không trả được
khoản nợ đó trong thời hạn 03 tháng, thì khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ
phải đính kèm hợp đồng mua bán hay thỏa thuận thanh toán tiền giữa các bên, các yêu
cầu thanh toán đã gửi cho doanh nghiệp liên quan...
* Người có yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp đơn và tài liệu, chứng cứ kèm
theo đến tòa án nhân dân có thẩm quyền bằng một trong các phương thức sau:
- Nộp trực tiếp tại tòa án nhân dân;
- Gửi đến tòa án nhân dân qua đường bưu điện.

10

Điều 5 Luật Phá sản 2014
Khoản 2 Điều 42 Luật Phá sản 2014
12

Điều 37 Luật Phá sản 2014
11

16


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tuy nhiên, tùy thuộc vào các đối tượng mở thủ tục phá sản khác nhau sẽ làm đơn
yêu cầu mở thủ tục khác nhau.
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động, đại diện công đoàn: Theo
quy định tại Điều 27 Luật phá sản năm 2014, khi yêu cầu tòa án nhân dân mở thủ tục phá
sản, người lao động, đại diện công đoàn phải làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với các
nội dung sau:
-

Ngày, tháng, năm;

-

Tên tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết phá sản;

-

Tên, địa chỉ của người làm đơn;

-

Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản;

- Tổng số tiền lương và các khoản nợ khác đã đến hạn mà doanh nghiệp không trả

cho người lao động.
Kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động, đại diện công đoàn
phải có chứng cứ để chứng minh lương và các khoản nợ khác đến hạn không được doanh
nghiệp liên quan thanh toán đầy đủ. Trong trường hợp này, các bằng chứng liên quan có
thể bao gồm: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, các thỏa thuận về thanh toán
lương của doanh nghiệp các biên bản, nghị quyết về vấn đề trả lương hay các khoản nợ
khác cho người lao động...
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán:
Theo 28 Luật phá sản 2014 thì người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp, chủ
doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng quản trị công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành
viên công ty hợp danh của công ty hợp danh phải làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp này cũng có các thông tin tương tự như
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người đại diện lao động, đại diện công đoàn, chỉ có
một chút khác biệt về căn cứ yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra, các giấy tờ, tài liệu
phải nộp kèm theo đơn bao gồm:
- Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 03 năm gần nhất. Trường hợp doanh
nghiệp được thành lập và hoạt động chưa đủ 03 năm thì kèm theo báo cáo tài chính của
doanh nghiệp trong toàn bộ thời gian hoạt động;
- Bản giải trình nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán; báo cáo
kết quả thực hiện các biện pháp khôi phục doanh nghiệp mà vẫn không khắc phục được
tình trạng mất khả năng thanh toán;
17


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-

Bảng kê chi tiết tài sản, địa điểm có tài sản của doanh nghiệp;


- Danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, trong đó phải ghi rõ tên, địa chỉ của
chủ nợ, người mắc nợ, khoản nợ, khoản cho vay có bảo đảm, không có bảo đảm, có bảo
đảm một phần đến hạn hoặc chưa đến hạn;
-

Giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp;

-

Kết quả thẩm định giá, định giá giá trị tài sản còn lại (nếu có).

Trường hợp có đề xuất chỉ định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản thì đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ghi rõ tên, địa chỉ của quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản.
Nếu những người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, chủ tịch hội đồng
quản trị công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, chủ sở hữu công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên công ty hợp danh của công ty hợp danh
không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trường hợp có thiệt hại phát sinh sau thời điểm
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán do việc không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản gây ra thì phải bồi thường.
2.1.2 Xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, Chánh án Tòa án nhân dân phân công một Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán gồm
03 Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem
xét đơn yêu cầu và xử lý như sau:
- Trường hợp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, Thẩm phán thông báo cho
người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản về việc nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí
phá sản, trừ trường hợp không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản;

- Trường hợp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không đủ các nội dung quy định thì
Thẩm phán thông báo cho người nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn. Thời hạn sửa đổi, bổ
sung do Tòa án nhân dân ấn định, nhưng không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày người
nộp đơn nhận được thông báo; trường hợp đặc biệt, Tòa án nhân dân có thể gia hạn
nhưng không quá 15 ngày;
- Chuyển đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền nếu
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khác;

18


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Trong các trường hợp sau Tòa án nhân dân quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản:
+ Người nộp đơn không đúng theo quy định tại mục 2.1.1 của bài viết;
+ Người nộp đơn không thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản theo quy định tại Điều 34 của Luật phá sản 2014;
+ Tòa án nhân dân khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán;
+ Cho phép thương lượng giữa chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với
doanh nghiệp13 như sau: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân
nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và
chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng văn bản gửi Tòa án
nhân dân để các bên thương lượng việc rút đơn. Tòa án nhân dân ấn định thời gian
thương lượng nhưng không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản hợp lệ. Trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc rút đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản thì Tòa án nhân dân trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trường hợp
thương lượng không thành hoặc hết thời hạn thương lượng mà các bên không tiến hành
thương lượng thì Tòa án nhân dân thông báo cho người nộp đơn nộp lệ phí phá sản, tạm
ứng chi phí phá sản và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định.

+ Người nộp đơn không nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường
hợp không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản.
* Tòa án nhân dân phải thông báo việc xử lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải
bằng văn bản và gửi cho người nộp đơn và doanh nghiệp mất khả năng thanh toán biết.
Lưu ý: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân nhận đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và chủ nợ nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân để các
bên thương lượng việc rút đơn. Tòa án nhân dân ấn định thời gian thương lượng nhưng
không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ. Việc
thương lượng của các bên theo quy định phải không được trái với quy định của pháp luật
về phá sản:
- Trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản thì Tòa án nhân dân trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Trường hợp thương lượng không thành hoặc hết thời hạn thương lượng mà các
bên không tiến hành thương lượng thì Tòa án nhân dân thông báo cho người nộp đơn nộp
13

Điều 37 Luật Phá sản 2014

19


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo
quy định của Luật này.
2.1.3 Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo quy định tại Điều 8 Luật Phá sản 2014 thì:
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh tại tỉnh đó và thuộc một trong các trường hợp sau:

- Vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở
nước ngoài;
- Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau;
- Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau;
- Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) mà Tòa án nhân dân cấp
tỉnh lấy lên để giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó và không thuộc
trường hợp quy định nêu trên.
Tại Điều 39 Luật Phá sản 2014 quy định: tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi nhận được biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi phí
phá sản. Trường hợp không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản thì thời điểm
thụ lý được tính từ ngày tòa án nhân dân nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản hợp lệ, Tòa án nhân dân dự tính số tiền tạm ứng chi phí phá sản và thông báo cho
người yêu cầu mở thủ tục phá sản để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản.Trường
hợp có đề nghị thương lượng thì việc thông báo cho người yêu cầu mở thủ tục phá sản để
nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 37
của Luật phá sản 2014.Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc
nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
phải thực hiện việc nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản như sau:
- Nộp lệ phí phá sản cho cơ quan thi hành án dân sự;
- Nộp tạm ứng chi phí phá sản vào tài khoản do Tòa án nhân dân mở tại ngân hàng.
20


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Sau khi thụ lý đơn yêu cầu phá sản thì tòa án sẽ thông báo về việc thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản:
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý đơn, tòa án nhân dân phải
thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, các cơ quan, tổ chức đang giải quyết vụ việc liên quan đến
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán do các bên cung cấp và Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì Tòa án nhân dân phải thông báo
cho các chủ nợ do doanh nghiệp cung cấp.
- Trường hợp người nộp đơn không phải là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án nhân dân, doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán phải xuất trình cho Tòa án nhân dân các giấy tờ, tài liệu
sau:
+ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 03 năm gần nhất. Trường hợp doanh
nghiệp được thành lập và hoạt động chưa đủ 03 năm thì kèm theo báo cáo tài chính của
doanh nghiệp trong toàn bộ thời gian hoạt động;
+ Bản giải trình nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán; báo cáo
kết quả thực hiện các biện pháp khôi phục doanh nghiệp mà vẫn không khắc phục được
tình trạng mất khả năng thanh toán;
+ Bảng kê chi tiết tài sản, địa điểm có tài sản của doanh nghiệp;
+ Danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, trong đó phải ghi rõ tên, địa chỉ của
chủ nợ, người mắc nợ, khoản nợ, khoản cho vay có bảo đảm, không có bảo đảm, có bảo
đảm một phần đến hạn hoặc chưa đến hạn;
+ Giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp;
+ Kết quả thẩm định giá, định giá giá trị tài sản còn lại (nếu có).
2.2 Ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
Theo quy định tại điều 42 Luật phá sản 2014 thì: Trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phải ra quyết định mở hoặc
không mở thủ tục phá sản (trừ trường hợp Tuyên bố doanh nghiệp phá sản theo thủ tục

rút gọn theo điều 105 Luật phá sản 2014).
Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản có hiệu lực thi hành kể từ ngày ra
quyết định.
21


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định mở hoặc không
mở thủ tục phá sản, người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị xem xét lại, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục
phá sản.
2.2.1 Ra quyết định mở thủ tục phá sản
Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
Trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có thể
triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ
doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá
nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra các căn cứ chứng minh doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán.
Quyết định mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chủ yếu sau:
- Ngày, tháng, năm;
- Tên của Tòa án nhân dân; họ và tên Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản;
- Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tên, địa chỉ của người làm đơn
yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
- Thời gian, địa điểm khai báo của các chủ nợ và hậu quả pháp lý của việc không
khai báo.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản thì doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động
kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản. Trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp không có khả năng điều hành, doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm các hành vi sau:
Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ
không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động
trong doanh nghiệp; Từ bỏ quyền đòi nợ; Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ
có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp thì Thẩm phán ra
quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đó theo đề nghị của
Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân phải được gửi cho người nộp
đơn, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chủ nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ
quan thi hành án dân sự, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp, có
22


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
trụ sở chính và đăng trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cổng thông tin
điện tử của Tòa án nhân dân và 02 số báo địa phương liên tiếp nơi doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán có trụ sở chính.
2.2.2 Ra quyết định không mở thủ tục phá sản
Tòa án nhân dân ra quyết định không mở thủ tục phá sản nếu xét thấy doanh nghiệp
không thuộc trường hợp “mất khả năng thanh toán”.
Trong trường hợp này, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả lại tiền
tạm ứng chi phí phá sản; yêu cầu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thực hiện nghĩa
vụ về tài sản đã bị tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 41 của Luật này được tiếp tục giải
quyết.
Quyết định không mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân phải được gửi cho người
nộp đơn, doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp.
2.2.3 Xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản
Theo quy định tại khoản 1 điều 51 Luật phá sản 2014 thì “Nghĩa vụ về tài sản của
doanh nghiệp được xác lập trước khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản

được xác định vào thời điểm ra quyết định mở thủ tục phá sản”, cụ thể như sau:
a) Tiến hành kiểm kê tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản
đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng
không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh
nghiệp phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp vắng mặt thì người được Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp thực
hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp.
* Trường hợp có đề xuất chỉ định Quản tài viên thì đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
ghi rõ tên, địa chỉ của Quản tài viên 14. Trình tự chỉ định Quản tài viên được thực hiện như
sau15: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản,
Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên. Căn cứ chỉ định Quản tài viên:
- Cá nhân có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên;
- Đề xuất chỉ định Quản tài viên của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
14
15

Khoản 3 Điều 26 Luật Phá sản 2014
Khoản 1, 2 Điều 45 Luật Phá sản 2014

23


Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Quản tài viên không có lợi ích liên quan đến vụ việc phá sản;
- Tính chất của việc giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Quản tài viên không phải là người thân thích của người tham gia thủ tục phá sản.
Tuy nhiên Quản tài viên vẫn có thể bị Thẩm phán quyết định thay đổi nếu thuộc

một trong các trường hợp sau:
- Vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Phá sản 2014;
- Có căn cứ chứng minh Quản tài viên không khách quan trong khi thực hiện nhiệm
vụ;
- Trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên không thực hiện được nhiệm vụ.
Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án nhân dân
tiến hành thủ tục phá sản.
Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp nêu
trên là không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp. Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm
kiểm kê.
Trường hợp đại diện doanh nghiệp và những người khác không hợp tác về việc
kiểm kê tài sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định
của pháp luật.
b) Lập danh sách chủ nợ
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải lập danh sách chủ nợ, thu thập tài liệu liên quan đến
khoản nợ và niêm yết công khai danh sách chủ nợ. Danh sách chủ nợ phải ghi rõ tên, địa
chỉ, quốc tịch, căn cước của chủ nợ hoặc đại diện chủ nợ, số nợ của mỗi chủ nợ, trong đó
phân định rõ khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn.
Danh sách chủ nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân tiến
hành thủ tục phá sản, trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng trên Cổng thông tin đăng ký
doanh nghiệp, Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân và phải gửi cho chủ nợ đã gửi
giấy đòi nợ trong 10 ngày làm việc kể từ ngày niêm yết.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc thời hạn niêm yết, chủ nợ và
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có quyền đề nghị Thẩm phán xem xét lại danh
sách chủ nợ. Trường hợp bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì thời gian có sự

24



Đề tài: Thủ tục phá sản doanh nghiệp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không tính vào thời hạn quy định tại khoản
này.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xem xét lại,
Thẩm phán phải xem xét, giải quyết đề nghị, nếu thấy đề nghị có căn cứ thì sửa đổi, bổ
sung vào danh sách chủ nợ.
c) Lập danh sách người mắc nợ
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải lập danh sách những
người mắc nợ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Danh sách người mắc nợ phải ghi
rõ tên, địa chỉ, quốc tịch, căn cước của người mắc nợ hoặc đại diện người mắc nợ, số nợ
của mỗi người mắc nợ, trong đó phân định rõ khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo
đảm, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn.
Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, danh sách
người mắc nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục
phá sản, trụ sở chính của doanh nghiệp và phải gửi cho người mắc nợ trong 10 ngày làm
việc kể từ ngày niêm yết.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc thời hạn niêm yết, người mắc
nợ và doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có quyền đề nghị Thẩm phán xem xét lại
danh sách người mắc nợ.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị xem xét lại, Thẩm
phán phải xem xét, giải quyết đề nghị, nếu thấy đề nghị có căn cứ thì sửa đổi, bổ sung
vào danh sách người mắc nợ.
2.3 Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ được tiến hành trên nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của người
tham gia thủ tục phá sản nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của người tham gia thủ tục
phá sản. Công khai trong việc tiến hành Hội nghị chủ nợ.
2.3.1 Triệu tập hội nghị chủ nợ

Lần thứ nhất: Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ là 20 ngày kể từ ngày kết thúc
việc kiểm kê tài sản trong trường hợp việc kiểm kê tài sản kết thúc sau việc lập danh sách
chủ nợ hoặc kể từ ngày kết thúc việc lập danh sách chủ nợ trong trường hợp việc kiểm kê
tài sản kết thúc trước việc lập danh sách chủ nợ.
Lần thứ hai: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hoãn Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán
phải triệu tập lại Hội nghị chủ nợ. Trường hợp triệu tập lại Hội nghị chủ nợ lần 2 mà vẫn
25


×