Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận xã hội học hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.27 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Theo quan niệm xã hội như là một sân khấu trên đó mỗi người đóng vai
của mình. Vai diễn trên sân khấu đòi hỏi diễn viên phải nhập tâm, bắt chước và
học tập đóng vai của những nhân vật được đạo diễn phân đóng còn vai trò xã hội
không có tính chất tưởng tượng, bắt chước cứng nhắc và nhất thời. Những hành
vi thực tế của một người nhờ học hỏi được những kinh nghiệm, lối sống, tác
phong từ trước đó trong cuộc sống. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là
người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống
chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những
quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ. Mỗi cá nhân có vô
vàn vai trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu vai trò xã hội. Vị
thế và vai trò của cá nhân trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã
hội của họ, từ địa vị của các cá nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác
mà quy định nên. Mỗi cá nhân có nhiều vị thế và vai trò khác nhau ở gia đình,
ngoài xã hội…và tuỳ theo vai trò của mình mà cá nhân sẽ có cách ứng xử, hành
vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm trách.
Bàn về vấn đề này, nhà nhân học người Mỹ Ralph Linton (1893-1953) đã
có những quan điểm sâu sắc được thể hiện qua cuốn sách “Nghiên cứu về con
người” xuất bản năm 1936. Kế thừa và phát huy những quan điểm tiến bộ của
Linton, người học trò xuất sắc của ông là Talcott Parson đã phân tích lý thuyết
hệ thống xã hội về cấu trúc vai xã hội hết sức chi tiết, thuyết phục và lý thuyết
này đã trở nên đúng đắn khi được áp dụng trong nhiều thập niên qua.


2

NỘI DUNG
Trước khi đi phân tích lý thuyết hệ thống xã hội của Parson về cấu trúc
vai xã hội, cần nắm được một số khái niệm cơ bản về vị thế xã hội và vai xã hội:
Khái niệm vị thế xã hội: Vị thế xã hội là vị trí xã hội với những trách
nhiệm và quyền lợi gắn kèm theo (địa vị xã hội). Nói cách khác, vị thế xã hội


chính là một khái niệm tổng hợp nhằm chỉ vị trí xã hội cùng với những quyền
lợi và nghĩa vụ tương ứng
Mỗi cá nhân có nhiều vị trí xã hội khác nhau do đó họ cũng có thể có
nhiều vị thế xã hội khác nhau. Khi vị trí xã hội của họ thay đổi thì vị thế cũng
thay đổi. Mặc dầu có nhiều vị thế xã hội nhưng các cá nhân luôn có một vị thế
chủ đạo xác định rõ chân dung xã hội của họ. Các loại vị thế xã hội:
*Vị thế gán cho (vị thế người phụ nữ)
*Vị thế đạt được (từ một học sinh nghèo trở thành một giám đốc)
*Vị thế vừa gán cho vừa đạt được (vị thế của một giáo sư)
* Vị thế chủ yếu - vị thế thứ yếu
Lý thuyết hệ thống xã hội của Parson về cấu trúc vai xã hội
Talcott Parson (1902- 1979) là nhà xã hội học người Mỹ, ông là học trò
của Linton. Parson phác họa và kiểm chứng bộ khung lý thuyết xã hội về cấu
trúc vai xã hội qua phân tích trường hợp thực hành y tế trong cuốn sách “Hệ
thống xã hội” nổi tiếng của ông được xuất bản lần đầu vào năm 1951. Parson
dựa theo đường hướng phân tích tĩnh học xã hội và động học xã hội mà Comte
đã khởi xướng và Linton đã triển khai trong thuyết hành vi về vị thế xã hội và
vai xã hội, Parson cũng xem xét sự tham gia của mỗi nhân vật trong hệ thống xã
hội trên hai phương diện: Phương diện vị trí tức là mặt tĩnh tại: đó là nơi mà một
nhân vật “định vị” vị trí của mình trong mối liên hệ với các nhân vật khác trong
hệ thống xã hội, Parson gọi đó là “vị thế xã hội”. Phương diện quá trình tức là
mặt động thái: đó là những gì mà một nhân vật thực hiện trong mối liên hệ với
các nhân vật khác trong bối cảnh có ý nghĩa chức năng đối với hệ thống xã hội,
Parson gọi đó là “vai xã hội” hay đơn giản là “vai” và gọi hệ thống các vai xã
hội khác nhau là hệ thống xã hội theo nghĩa hẹp. Tương tự có thể hiểu cấu trúc
xã hội là cấu trúc vai xã hội.


3
Parson cho rằng sự phân biệt vị thế và vai có mối liên hệ sâu sắc tới mối

tương tác hai chiều trong đó mỗi một nhân vật hay một người vừa là khách thể
(tức là vị thế) của sự định hướng đối với nhân vật khác hay người khác và vừa là
đối tượng được định hướng (tức là vai) từ phía các nhân vật khác hay người
khác. Như vậy vị thế và vai không phải là thuộc tính của hệ thống xã hội mà là
hai mặt của mỗi một đơn vị của hệ thống xã hội.
Theo Parson, cấu trúc xã hội của hệ thống xã hội bao gồm bốn đơn vị của
hệ thống xã hội như sau:
Đơn vị thứ nhất của hệ thống xã hội là hành động xã hội do một người
thực hiện và được định hướng vào một hoặc nhiều người khác như là khách thể
của hành động.
Đơn vị thứ hai của hệ thống xã hội là tập hợp vị thế-vai với tư cách là
một tiểu hệ thống có tổ chức của các hành động của một hay nhiều người đang
nắm giữ những vị thế tương tác và hành động theo một định hướng tương tác
nhất định.
Đơn vị thứ ba của hệ thống xã hội là bản thân nhân vật với tư cách là một
hệ thống của các vị thế và các vai được gắn với họ như là một khách thể xã hội
và như là một tác giả của một hệ thống các hành động đóng vai.
Đơn vị thứ tư của hệ thống xã hội là một tập thể với tư cách vừa là nhân
vật vừa là khách thể.
Như vậy, tập hợp vị thế- vai vừa là hệ thống hành động của cá nhân vừa là
hệ thống hành động của tập thể và cấu trúc xã hội được phân tích trên cấp độ của
bốn đơn vị của hệ thống xã hội.
Parson áp dụng cách phân loại của Linton và cho rằng các cá nhân thực
hiện những vai xã hội mà họ giành được (gọi ngắn gọn là vai giành được) và vai
xã hội được gán cho họ (gọi ngắn gọn là vai gán cho) trong mối quan hệ vai xã
hội nhằm đáp ứng các kỳ vọng đối với vai xã hội.
Bộ khung năm cập biến xác định vai xã hội:
Parson đưa ra một bộ khung lý luận hay một hệ thống biến vị gồm năm
cặp khái niệm để nhấn mạnh các chiều cạnh quan hệ của cấu trúc vai của hệ
thống xã hội. Năm cặp khái niệm này tạo thành khung năm cặp biến khuôn mẫu

của nội hàm khái niệm hay vai định hình vai xã hội . Có thể coi mỗi cặp biến là


4
một song để mà mỗi cách lựa chọn sẽ tạo ra một đặc trưng của vai xã hội nhất
định. Bộ khung năm cặp biến xác định vai xã hội bao gồm các cặp khái niệm đối
cực nhau lần lượt như sau:
“Tính dễ xúc động đối lập với tính trung lập”
“Định hướng bản thân- định hướng tập thể”
“Tính phổ biến- tính đặc thù”
“Đạt được- gán cho”
“Định rõ- khuyếch tán”.
Vai người bệnh: trường hợp nghiên cứu về hệ thống cấu trúc vai xã hội
Theo Parson, cấu trúc xã hội điển hình nhất, đặc trưng nhất và đơn giản
nhất của hệ thống chăm sóc sức khỏe trong xã hội hiện đại là cấu trúc vai xã hội
gồm vai nhân viên y tế (mà điển hình là vai bác sỹ), vai người bệnh (vai bệnh
nhân) và những mối quan hệ nhất định giữa hai vai này. Theo phương pháp phân
tích khái niệm loại hình lý tưởng mà Weber đã nêu ra, Parson tập trung vào phân
tích cấu trúc các vai này để làm rõ bộ khung lý thuyết về các biến định hình vai
xã hội của hệ thống xã hội. Trong khi phân tích như vậy, ông tạm thời bỏ qua
nhiều chi tiết phức tạp về cấu trúc tổ chức và các quá trình như tuyển chọn, đào
tạo, quản lý của hệ thống y tế hiện đại.
Trong xã hội hiện đại, vai bác sỹ có tính chất phổ biến với nghĩa là ở đâu
bác sỹ cũng có chức năng nghề nghiệp là cứu chữa người bệnh bằng chuyên
môn kỹ thuật một cách vô tư không thiên vị đối với người bệnh. Khác với vai
doanh nhân thường định hướng vào lợi ích của cá nhân, vai bác sỹ định hướng
vào lợi ích của tập thể với nghĩa là bác sỹ có nghĩa vụ và trách nhiệm đặt lợi ích
của người bệnh lên trên lợi ích cá nhân mà không vì động cơ lợi nhuận.
Tình trạng “bị ốm đau” với các biểu hiện của nó cũng thuộc một loại vai
xã hội, bởi vì người bệnh được xã hội kỳ vọng phải thực hiện những hành vi,

hoạt động theo những khuôn mẫu nhất định gọi là “vai ốm đau” hay “vai người
bệnh”. Vai này có thể được xác định rõ theo các cặp biến khuôn của vai xã hội
như sau: khi bị ốm đau người bệnh được xã hội miễn cho trách nhiệm phải thực
hiện những vai xã hội của người khỏe mạnh như người bệnh được nghỉ ở nhà
không phải đi làm việc, và người bệnh có quyền đòi hỏi sự quan tâm, chăm sóc
từ phía người khác mà trong trường hợp ở đây là từ phía bác sỹ.. Đồng thời


5
người bệnh có trách nhiệm phải cố gắng để phục hồi sức khỏe thông qua việc
hợp tác với bác sỹ để được hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật trong quá trình khám,
chữa bệnh. Như vậy, mối quan hệ bác sỹ- người bệnh được quy định bởi các cặp
biến khuôn mẫu của vai xã hội.
Parson xem xét kỹ tình huống của người bệnh và cho biết như sau: Theo
định nghĩa đã được thiết chế hóa về vai ốm đau thì người bệnh rơi vào tình trạng
khó khăn với nghĩa là không đủ khả năng để hoạt động bình thường và do đó
cần phải được hỗ trợ từ phía người khác. Nhưng người bệnh trong xã hội hiện
đại, không tìm thấy bất kỳ một sự hỗ trợ nào từ bất kỳ ai mà họ tìm kiếm sự hỗ
trợ về mặt chuyên môn y tế tức là sự hỗ trợ từ những người được đào tạo có
trình độ chuyên môn về chăm sóc sức khỏe, cụ thể ở đây là từ “bác sỹ”. Mặc dù
người bệnh thường trải qua tình trạng bị sốc vào giai đoạn đầu và lo lắng cho
tình trạng sức khỏe nhưng nhìn chung người bệnh được xã hội kỳ vọng vào việc
bày tỏ thái độ theo hướng tích cực là “mọi chuyện rồi sẽ ổn”, “ốm đau rồi sẽ
qua”, “bệnh sẽ khỏi”, “phải cố gắng” và “phải tin tưởng vào bác sỹ”.
Tuy nhiên từ tình huống của người bệnh với các đặc trưng về vai xã hội
nêu trên nảy sinh hai vấn đề: một là người bệnh có nguy cơ bị bóc lột, một điều
rất khó tưởng tượng được nhưng vẫn có thể xảy ra khi người bệnh đang trong
tình trạng ốm đau, lo lắng và cần được giúp đỡ bằng bất kỳ giá nào. Hai là người
bệnh có thể sẵn sàng thực hiện những hành vi, hoạt động duy lý và phi lý, tức là
vừa sẵn sàng làm theo lời chỉ dẫn của bác sỹ và vừa sẵn sàng làm việc khó tin

kiểu như “có bệnh thì vái tứ phương” hay làm bất kỳ việc gì do đó mách bảo có
thể khỏi bệnh nhất trong trường hợp bị bệnh hiểm nghèo. Do đó, vai người bệnh
thể hiện và hình thành không chỉ trong mối quan hệ với bác sỹ mà còn trong các
mối quan hệ với những người thân xung quanh và cả những người có liên quan.
Tất cả những điều này tạo thành cấu trúc xã hội gồm các vai xã hội và các mối
liên hệ, quan hệ xã hội khác nhau xoay quanh một trục quan hệ người bệnh- bác
sỹ.
Tình huống vai xã hội của bác sỹ xoay quanh trách nhiệm cơ bản của họ
là phải cố gắng hết sức chữa trị bệnh và phục hồi sức khỏe cho người bệnh “phải
làm mọi thứ có thể được” về mặt chuyên môn kỹ thuật y tế cho người bệnh là
một vai xã hội đã được thiết chế hóa thành kỳ vọng của xã hội, tức là của mọi
người xung quanh đối với bác sỹ. Vai này được thực hiện theo những khuôn
mẫu nhất định nhưng cũng không tránh khỏi những vấn đề chức năng của hệ


6
thống cấu trúc vai. Đó là những vấn đề lưỡng nan. ví dụ: nếu bác sỹ không quan
tâm những chuyên riêng tư của người bệnh thì bác sỹ khó có thể phát hiện ra
nguyên nhân của bệnh. Nhưng nếu bác sỹ quan tâm tới những chuyện riêng tư
của người bệnh thì bác sỹ cũng có thể dễ bị các trạng thái xúc cảm chi phối. Một
vấn đề khác là vấn đề đảm bảo bí mật riêng tư của người bệnh. Tình huống này
trở lên phức tạp hơn khi mối quan hệ giữa bác sỹ và người bệnh không đơn
thuần là mối quan hệ chuyên môn kỹ thuật mà là mối quan hệ giữa người với
người trong những khung cảnh xã hội nhất định.
Để đối phó với những vấn đề chức năng như vậy, cấu trúc vai xã hội của
mối quan hệ bác sỹ-bệnh nhân được xác định bởi các cặp biến khuôn mẫu đã
nêu với trọng tâm là việc áp dụng tri thức khoa học bởi bác sỹ, tức là người
được đào tạo chuyên ngành chăm sóc sức khỏe. Việc bác sỹ thực hiện vai “làm
mọi thứ có thể được” tức là vai khám chữa bệnh cho người bệnh theo cách phổ
biến, chuyên môn, trung lập, được xác định rõ ràng và vì lợi ích tập thể chứ

không phải vì lợi ích cá nhân của bác sỹ. Việc định hình công khai, minh bạch
và chính xác vai bác sỹ như vậy là cơ chế tốt nhất giúp bác sỹ giải quyết những
vấn đề lưỡng nan nêu trên.
Khi thực hiện vai khám- chữa bệnh một cách chuyên nghiệp, bác sỹ có
thể xâm nhập vào đời sống riêng tư của người bệnh một cách vừa đủ để đảm bảo
thực hiện vai bác sỹ và vừa đủ để bảo vệ bản thân khỏi những rắc rối có thể xảy
ra liên quan tới mối quan hệ bác sỹ- bệnh nhân. Khuôn mẫu hành vi hướng vào
lợi ích tập thể của bác sỹ được thiết chế hóa nhằm giải quyết những vấn đề chức
năng cảu hệ thống xã hội chứ không phải là vấn đề lợi ích cá nhân mặc dù bác
sỹ được trả tiền công để hành nghề. Những qui định chi tiết về việc giữ gìn hồ
sơ bệnh án và cách ứng xử, giao tiếp của bác sỹ với người bệnh là những ví dụ
rõ ràng về cách giải quyết những vấn đề mâu thuẫn có thể xảy ra trong cấu trúc
vai của quan hệ bác sỹ- người bệnh.
Nhìn chung việc thiết chế hóa các vai xã hội của bác sỹ và người bệnh là
một yêu cầu chức năng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các vai đó. Việc người
bệnh phải thực hiện những vai đã được thiết chế hóa là điều kiện cần để bác sỹ
có thể thực hiện được tốt nhất những vai được thiết chế hóa của bác sỹ. Đồng
thời việc bác sỹ thực hiện các vai của mình theo cách phổ biến, vô tư, chuyên
nghiệp và định hưỡng vào lợi ích tập thể là cần thiết để người bệnh chấp nhận,
tuân theo những gì mà bác sỹ yêu cầu đối với họ.


7
Như vậy, hệ thống y tế có một loại cấu trúc rất đặc biệt: cấu trúc vai
“kép”, vai “hai mặt”: một là vai người bệnh và hai là vai bác sỹ. Qua phân tích
cấu trúc vai này, Parson còn phân biệt và chỉ rõ sự chuyển hóa trong cấu trúc vai
như sau: vai ốm đau là vai của người bệnh tiềm năng, còn vai của người bệnh là
vai của người tiếp nhận các dịch vụ được cung cấp bởi người bác sỹ chuyên
nghiệp được đào tạo một cách khoa học. Vai người bệnh chỉ xuất hiện một cách
rõ ràng khi người bị ốm đau có liên hệ, quan hệ với người khác cụ thể ở đây là

bác sỹ nhằm mục đích khám chữa bệnh. Một người bị ốm đau mà không đến
gặp bác sỹ để khám, chữa bệnh thì có thể chưa được gọi là “người bệnh”. Điều
này cũng tương tự như một trẻ em trong tuổi đến trường mà không đi học ở một
trường lớp nhất định thì khó có thể gọi là “học sinh”; một thanh niên muốn học,
có năng lực học tập nhưng không được nhận vào trường đại học để học thì cũng
khó có thể gọi là “sinh viên”.
Như vậy, có thể gọi những điều mà Parson phân tích ở trên về cấu trúc vai
là lý thuyết hệ thống xã hội về cấu trúc vai. Bởi vì Parson phát triển lý thuyết
này việc áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống xã hội vào phân tích hệ thống
vai bác sỹ- bệnh nhân như là một trường hợp điển hình của hệ thống xã hội
trong lĩnh vực y tế hiện đại.
Vận dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Parson về cấu trúc vai xã hội
vào phân hóa xã hội ở Việt Nam, tôi xin bàn về vấn đề phân hóa giàu- nghèo
ở xã hội Việt Nam hiện nay.
Các khái niệm về sự phân hóa giàu nghèo.
Khái niệm “nghèo”: Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán
của địa phương (Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu á-Thái Bình Dương
định nghĩa).
Nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình "Xoá
đói giảm nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa:"Nghèo là tình trạng
thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào
lĩnh vực kinh tế”.
Khái niệm “giàu”: Giàu là sự sở hữu các vật chất, tài sản có giá trị


8
Xác định giàu nghèo là một việc khó vì nó gắn với từng thời điểm, từng
quốc gia, và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau .Ở nước ta, từ khi có chủ

trương xoá đói giảm nghèo, các cơ quan trong nước và quốc tế đã đưa ra những
chuẩn mực để xác định tình hình đói nghèo.Đó là: chuẩn mực của bộ lao động
thương binh xã hội, chuẩn mực của Tổng cục Thống Kê, chuẩn mực đánh giá
của Ngân hàng Thế giới để có cơ sở xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo
phù hợp với tập quán và mức sống ở nước ta hiện nay.
Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận
ra qua thực tế cuộc sống hàng ngày.
Trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kém phát triển sang nền
kinh tế thị trường, xu hướng biến động của cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay,
ngày càng trở nên rõ nét. Từ thực trạng đó, đã có một số luận điểm có quan hệ
đến quan niệm sự phân hoá giàu nghèo.
+ Phân hóa giàu nghèo gắn liền với bất bình đẳng xã hội và phân công lao
động
+ Phân hóa giàu nghèo là sự phân cực về kinh tế.
+ Phân hóa giàu nghèo là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế và đến lượt mình sự phân hoá đó lại trở thành nguyên nhân kìm
hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
+ Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân
chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau. Phân hóa
giàu nghèo là phân tầng xã hội về mặt kinh tế, thể hiện trong xã hội có nhóm
giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo tầng đáy. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là khoảng
cách về thu nhập và mức sống.
Vậy phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân
chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác
biệt nhau; là sự phân tầng xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch
giữa các nhóm này về tài sản, thu nhập, mức sống.
Thế giới đang bước vào thế kỷ mới với kỳ vọng một cuộc sống mới phồn
vinh hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh là động lực thôi thúc các
quuốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh vì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính vì vậy nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, nhưng



9
bên cạnh đó nó cũng tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia, các tầng lớp trong xã hội
ngày càng sâu .Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt hết sức quan trọng và cấp thiết
đối với Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ thời kỳ quản lý kinh
tế - xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó sự chênh
lệch giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội
chưa rạch ròi, rõ nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu
với cơ cấu giai cấp “hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi
mới toàn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự
chênh lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày
càng trở nên sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về cơ
cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn
giúp Đảng và nhà nước kịp thời đưa ra những định hướng chiến lược và những
chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế và
mô hình quản lý phát triển đất nước.
Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế,
Việt Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước
chỉ còn khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách
đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ
và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá
nhanh. Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số
người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh
lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối. Theo số
liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu

người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung
bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng
trên 1 triệu người, Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông
Cửu Long có trên 1,84 triệu người.
Đáng chú ý là với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt
Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ
số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra. Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu


10
nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ
yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún,
sơ khai. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang
trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp
khó khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại.
Đây là những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng
đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước.
Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước
đã trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị
trường của chúng ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường
hoang dã, đã tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng
cơ chế để trục lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng
góp bao nhiêu để chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh
tế ngày càng suy giảm. Vì thế, nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất
là thể chế dân chủ, nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm,
sở hữu chéo, lạm dụng độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá
lớn lại sẽ càng tăng nhanh.
Có thể tóm lại những nguyên nhân cơ bản làm gia tăng phân hóa giàu
nghèo ở Việt Nam như sau:

Nguyên nhân khách quan:
Trong thập niên vừa qua Chính phủ đã dành một khoản ngân sách đáng kể
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng nông thôn trong công cuộc xây dựng
nông thôn mới, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
loại hình dịch vụ…tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài
nhằm tạo công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi ở địa phương. Chính vì vậy đã
góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân nông thôn.
Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn
nhưng lại gián tiếp gây ra sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo trong khu vực nông
thôn nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung. Sự phát triển không đều của
các vùng nông thôn trong cả nước cũng là một nguyên nhân của tình trạng trên.
Trong khi nhiều vùng nông thôn ở các khu vực đồng bằng dã có sự phát triển
khá mạnh thị tại các vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng bào các dân tộc ít


11
người.. trình độ phát triển cón rất thấp, người dân còn gặp nhiều khó khăn thiếu
thốn, tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao..
Nguyên nhân nổi bật: Do nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng kém
phát triển, thu nhập bình quân theo đầu người quá thấp lại bị ảnh hưởng bởi
những hậu quả nặng nề của mấy chục năm chiến tranh liên miên tàn phá đất
nước. Vị trí địa lý của nước ta bên cạnh mặt thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng
gây nhiều khó khăn do hình thế trải dài, gây nên sự cách biệt chênh lệch về phát
triển kinh tế giữa các vùng, lãnh thổ trong lịch sử. Nước ta lại bị ảnh hưởng lớn
bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh, mất mùa,
đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp xa xôi hẻo lánh, giao
thông đi lại không thuận tiện, cơ sở hạ tầng kém luôn đe dọa và tước đi những
thành quả lao động đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp.
Nguyên nhân chủ quan:
Do cơ chế chính sách chưa thoả đáng: Trung ương cũng như địa phương

chưa có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng thoả đáng, nhất là các vùng núi cao,
vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũ, thiếu các chính sách đồng bộ như: chính
sách ưu đãi, khuyến khích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, cung cấp dịch
vụ y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá cũng như chuyển giao công nghệ, tổ chức
chưa tốt việc chăm lo của cộng đồng xã hội đối với người nghèo.Các nguyên
nhân trên tác động qua lại lẫn nhau làm cho tình trạng nghèo đói trong từng
vùng thêm trầm trọng, gay gắt khiến cho các hộ nghèo khó khó có thể vượt qua
được nếu không có những chính sách và giải pháp riêng đối với các hộ nghèo và
vùng nghèo.
Qua điều tra cho thấy được nguyên nhân cơ bản để không ít hộ giàu lên
đó là:
Ở nông thôn, người giàu hiện nay chủ yếu do khả năng thích ứng nhanh
với sản xuất kinh doanh. Họ không chỉ làm nông nghiệp mà còn làm các nghề
khác; dịch vụ, thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ, chế biến…Một số hộ các gia
đình giàu lên nhờ có người thân sống và làm việc ở nước ngoài trợ cấp..
Ở thành phố, phần lớn người giàu là ở lĩnh vực buôn bán và dịch vụ trong
lĩnh vực sản xuất, trong đó không ít hộ giàu lên nhờ lợi dụng các kẽ hở của pháp
luật để trốn thuế hoặc lẩn tránh các khoản nộp khác..


12
Về tay nghề, tính chất công việc: Tay nghề cao, quyền lực càng lớn, thu
nhập càng cao.
Còn nguyên nhân cơ bản của nghèo là thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn
hoặc không có vốn, đông con, neo đơn thiếu sức lao động, không có kinh
nghiệm, không đủ phương tiện sản xuất…. Bên cạnh đó, đối với thành thị
nguyên nhân nghèo có thể do bị phá sản, đông con, thiếu sức lao động, ốm đau,
lười nhác, mắc các tệ nạn xã hội, thiếu ý thức, trình độ dân trí thấp….
Tóm lại, qua thực trạng Việt Nam như hiện nay ta có thể thấy hàng loạt
những nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Có rất nhiều nguyên nhân

trực tiếp, gián tiếp, nguyên nhân chủ quan, khách quan và chúng tác động qua
lại lẫn nhau và tạo nên vận may, cơ hội của mỗi cá nhân, do vậy tạo nên sự khác
biệt chênh lệch trong thu nhập, tài sản và hàng loạt các mặt khác của cuộc sống
tạo nên sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Thách thức này đòi hỏi Nhà nước và cả xã hội, trong khi khuyến khích,
tôn vinh người làm giàu chính đáng, thì phải có biện pháp để tăng thu nhập của
người nghèo, đảm bảo hệ số chênh lệch sẽ được kiềm chế, tiến tới giảm dần
khoảng cách giàu – nghèo. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích
người giàu tham gia vào đời sống xã hội bằng cách giảm thuế cho các đóng góp
tự nguyện hoặc có các quy định ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động từ thiện mà về lâu dài là nhằm rút ngắn phần nào chênh lệch giàu nghèo.
Để có sự công bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người chấp
nhận, khi đó người giàu không phải là đối tượng của sự ganh tỵ, soi mói trong
xã hội và khi họ làm tròn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh. Công cụ điều tiết
công bằng xã hội có hiệu quả là khi tất cả mọi người đều đủ ăn đủ mặc, trẻ con
được học hành, mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc,
là những điều kiện cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được
trả lại vị trí của nó chỉ là sự phát sinh tự nhiên trong thời buổi thị trường.
Giải pháp cho vấn đề phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam và trong từng khu
vực, nhất là khu vực nông thôn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như
hiện nay là cần tiếp tục điều chỉnh các chính sách một cách phù hợp, xây dựng
các chính sách phát triển nông thôn, chính sách với người nghèo thiết thực hơn
theo hướng chú trọng nhiều hơn nữa đến các vùng kém phát triển, vùng sâu
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển kinh


13
tế ở khu vực nông thôn thì cũng cần quan tâm hơn nữa tới các vấn đề về an sinh
xã hội, các chính sách liên quan đến những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn
để có thể phát triển khu vực nông thôn nói riêng và cả nước nói chung toàn diện

cả về kinh tế và xã hội theo các mục tiêu thiên niên kỷ đã đề ra và phát triển một
cách bền vững./.


14

KẾT LUẬN
Trong sự phát triển như vũ bão của thời đại công nghiệp hóa- hiện đại hóa
hiện nay đòi hỏi mỗi con người muốn hòa nhập phải biết tự trang bị cho mình
những kỹ năng cứng và kỹ năng mềm để đóng vai, nhập vai và cả thoát vai trong
các cuộc chơi, hay các loại sân khấu của cuộc đời. Do vậy, các lý thuyết xã hội
học về vị thế xã hội và vai xã hội vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu và phát triển
nhất là trong bối cảnh xã hội đang không ngừng cải biến các trò chơi cũ và sáng
tạo ra nhiều trò chơi, sân chơi, luật chơi mới trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Mỗi con người trong xã hội mới cần tự trau dồi cho bản thân mình những
kiến thức nhất định để chủ động hòa nhập như học giả người Mỹ Kinixti nhận
định: 'Sự thành công của mỗi người chỉ có 15% là dựa vào kỹ thuật chuyên
ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của
người đó".


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Gunter Endruweit, Các lý thuyết xã hội học hiện đại, NXB Thế giới, Hà Nội,
1999.
2. Joachim Matthes, Một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu con
người và xã hội, Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX-07, Hà
Nội-1994
3. Nguyễn Đình Tấn, Xã hội học, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.

4. Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, NXB lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005.
5 G.Endruweit và G.Trommsdorff, Từ điển xã hội học, NXB Thế giới, Hà nội,
2002
6. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và Lý thuyết xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội.24
7. Lê Ngọc Hùng, Lý thuyết xã hội học hiện đại, NXB ĐHQG Hà Nội 2013


16
rong 10 năm gần đây (2002 - 2012), Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên tất cả
các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 6,5%, tỷ lệ nghèo
đã giảm mạnh từ 22,3%[1]năm 2002 xuống còn 11,1% năm 2012. Đời sống của các hộ gia đình đã
được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng lên nhanh chóng. Mặc dù thu nhập của mọi tầng
lớp dân cư, các địa phương, các vùng lãnh thổ và khu vực đều tăng lên, nhưng sự gia tăng này lại
diễn ra theo các tốc độ và chiều hướng khác nhau. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo trong từng địa phương, từng khu vực cũng như trên phạm vi cả nước. Cụ thể nếu năm 2002
hệ số chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số thuộc nhóm giàu so với 20% dân số ở nhóm nghèo của
Việt Nam là 8,1 lần, đến năm 2012 thì hệ số này là 9,4 lần. Với tốc độ gia tăng khoảng cách giàu
nghèo bình quân 1,6% năm như hiện nay, nếu không có các chính sách điều chỉnh hợp lý thì Việt
Nam sẽ nhanh chóng bước vào ngưỡng bất bình đẳng cao. Điều này không những sẽ gây ra sự bất
lợi về tăng trưởng kinh tế mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững, đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Vậy nguyên nhân nào làm cho chênh lệch
giàu nghèo đang gia tăng ở nước ta thời gian gần đây? Giải pháp nào để làm giảm bớt chệnh lệch
này? Phân tích những đặc điểm chủ yếu của chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn và
trong nội bộ từng khu vực là câu trả lời cho vấn đề này.
1. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị nông thôn đang được rút ngắn, nhưng mức chênh
lệch tuyệt đối lại đang tăng lên.
Ở giai đoạn 1992 - 1998, tăng trưởng về chi tiêu bình quân của người dân sống ở khu vực thành thị
gấp đôi người dân ở khu vực nông thôn, cụ thể từ năm 1992 đến 1998 mặc dù chi tiêu bình quân đầu
người ở nông thôn tăng 30% (trung bình mỗi năm tăng 5,4%) nhưng ở thành thị tăng 61% (trung bình
9,9%/năm), dẫn đến mức sống của người dân ở hai khu vực có sự khác biệt lớn. Nguyên nhân chủ

yếu là trong giai đoạn này phần lớn các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp, khu chế xuất chỉ tập
trung phát triển ở các khu đô thị. Trong khi đó ở vùng nông thôn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, gặp
nhiều rủi ro thiên tai và những diễn biến bất lợi về giá cả cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác khả
năng tiếp cận các cơ hội, việc làm tốt của người nông dân thấp. Hậu quả là khoảng cách giữa thành
thị với nông thôn đã nới rộng ra trong thời kỳ này từ 1,8 lần lên 2,2 lần.
Trước nguy cơ gia tăng khoảng cách giữa thành thị - nông thôn, chính sách công nghiệp hóa đất
nước đã hướng sự chú ý vào khu vực nông thôn. Trong thời gian gần đây, hàng loạt các khu công
nghiệp, khu chế xuất được xây dựng ở khu vực nông thôn, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao
động nhàn rỗi trong nông nghiệp và góp phần cải thiện thu nhập cho các hộ gia đình trong khu vực.
Điều này được thể hiện một cách rõ nét nhất qua chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người một tháng
của từng khu vực thành thị, nông thôn ở giai đoạn 2002 – 2012. Nếu năm 2002 thu nhập bình quân
đầu người (TNBQĐN) một tháng ở nông thôn là 275,1 nghìn đồng thì đến năm 2012 là 1579,4 nghìn
đồng (gấp 5,74 lần so với năm 2002); còn ở khu vực thành thị TNBQĐN một tháng năm 2012 là
2989,1 nghìn đồng gấp 4,80 lần so với năm 2002 (622,1 nghìn đồng). Mặc dù thu nhập của thành thị
vẫn cao hơn ở nông thôn nhưng tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người qua các năm ở
giai đoạn này của khu vực nông thôn luôn cao hơn khu vực thành thị.Hệ số chênh lệch thu nhập giữa
thành thị với nông thôn giảm 17,4%; từ 2,3 lần năm 2002 giảm xuống còn 1,9 lần năm 2012. Riêng
thời kỳ từ 2006 đến 2008 hệ số này dường như chững lại, không có sự biến đổi là do tốc độ tăng thu
nhập của 2 khu vực tương đương nhau. Tuy nhiên, mức chệnh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân
đầu người hàng tháng giữa hai khu vực lại đang ngày càng tăng lên. Nếu như năm 2002, chênh lệch
này chỉ là 347 nghìn đồng, thì đến năm 2012, nó đã lên đến 1.409,7 nghìn đồng (Bảng 1).
Bảng 1:Thu nhập BQĐN 1 tháng chia theo khu vực thành thị - nông thôn ở Việt Nam thời kỳ 2002 2012
Năm

2002

2004

2006


2008

2010

2012


17
TNBQ ở thành thị (1.000 đ)

622,1

815,4

1058,4

1605,2

2129,5

2989,1

TNBQ ở nông thôn (1.000 đ)

275,1

378,1

505,7


762,2

1070,4

1579,4

Hệ số chênh lệch TT-NT (lần)

2,3

2,2

2,1

2,1

2,0

1,9

347,0

437,3

552,7

843,0

1059,1


1409,7

Chệnh lệch tuyệt đối TT-NT (1.000đ)

Nguồn:Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình -Tổng cục Thống kê
Số liệu thống kê thời kỳ này cũng chỉ rõ: 60% dân số có thu nhập thấp (thuộc 3 nhóm nghèo, cận
nghèo và trung bình) chỉ chiếm khoảng 30% tổng thu nhập của cả xã hội, mà đại bộ phận trong số
này sống ở nông thôn. Còn lại 40% dân số có thu nhập cao chủ yếu là người giàu có sống ở đô thị lại
sở hữu đến 70% tổng thu nhập của cả nước. Để rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn,
trong những năm gần đây Chính phủ đã xây dựng và điều tiết các chính sách nhằm phát triển nông
thôn và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn như:
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới, các chính sách ưu đãi nhằm thu
hút vốn đầu tư, xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng để phát triển nông thôn... Vì vậy nhiều địa
phương có sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Điều này đã
góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của người dân nông thôn hơn.

Theo kết quả điều tra các chỉ tiêu dân số và AIDS (VPAIS) vừa được Tổng cục Thống kê
công bố, mức sống dân cư những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể nhưng
vẫn có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn.

Kết luận này được đưa ra từ việc tính toán chỉ số giàu có ngũ phân vị-là mức độ
giàu có phù hợp với các số đo về chi tiêu và thu nhập (Rutstein) được nhiều
nước trên thế giới cũng như Việt Nam sử dụng để đánh giá về tình trạng kinh tế
của hộ gia đình và mức sống dân cư.
Theo Tổng cục Thống kê, có 85% số dân thành thị thuộc hai nhóm ngũ phân vị
cao nhất trong khi có tới gần một nửa số dân nông thôn thuộc hai nhóm ngũ
phân vị thấp nhất.
Chênh lệch trong mức sống giữa thành thị và nông thôn còn được thể hiện rõ
qua các đặc trưng về nhà ở như nguồn nước, phương tiện vệ sinh, vật liệu xây
nhà, số phòng ngủ và hàng tiêu dùng lâu bền của hộ.

Có tới 65% số dân thành thị được sử dụng nước máy trong khi chỉ có 11% số
dân nông thôn dùng nước máy; 92% số dân thành thị có nhà xây bằng vật liệu
kiên cố thì con số này ở nông thôn là 67%.


18
Phân tầng xã hội (tiếng Anh: Social Stratification) là sự phân chia nhỏ xã hội thành các tầng lớp
khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh
hoạt, cách ứng xử, sở thích nghệ thuật. Đây là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội
học. Đó là một khái niệm để chỉ sự phân chia các cá nhân hay các nhóm xã hội thành các tầng
lớpkhác nhau. Mỗi tầng bao gồm các cá nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế,chính trị, uy tín
giống nhau. Phân tầng xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị
cho đến văn hóa, v.v...
Khi nói đến phân tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất bình đẳng xã hội, coi đó như
một yếu tố cơ bản cho việc hình thành nên sự phân tầng xã hội. Một số tác giả lưu tâm đến sự
biến đổi hình thức của phân tầng xã hội, và cho rằng điều đó phụ thuộc vào tính chất "mở" của
hệ thống xã hội. Một số tác giả khác quan tâm đến sự phân phối không đồng đều các lợi ích giữa
các thành viên trong xã hội, coi đó là nguyên nhân dẫn tới sự phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội
và bất bình đẳng xã hội có mối quan hệ mật thiết. Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã
hội là kết quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân trong xã hội dẫn đến cơ
hội và lợi ích của các cá nhân là không như nhau, từ đó dẫn đến việc các cá nhân hay các nhóm
xã hội có cùng chung lợi ích sẽ tập hợp lại thành một nhóm. Nhiều nhóm có cơ hội và lợi ích
khác nhau ra đời. Có nhóm lợi ích và cơ hội nhiều, có nhóm thì ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã
hội.
Phân tầng xã hội không có ý nghĩa tuyệt đối. Do vị thế xã hội của các nhân có thể thay đổi, từng
ngày, từng giờ, có cá nhân hôm nay thuộc tầng lớp này, mai lại thuộc tầng lớp khác. Bởi vì cơ hội
và lợi ích của họ không còn nằm trong tầng lớp đó nữa.




×