Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hoàn thiện pháp luật về khuyến khích đầu tư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.01 KB, 79 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ tư pháp

trường đại học luật hà nội

nguyễn thị lan phương

Hoàn thiện pháp luật về
khuyến khích đầu tư ở Việt Nam
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:

603850

luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Định

hà nội - 2005


Mục lục
Trang
Lời nói đầu

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp
luật khuyến khích đầu tư

1.1. Sự cần thiết của pháp luật khuyến khích đầu tư
1.2.



Khái niệm về khuyến khích đầu tư và pháp luật khuyến
khích đầu tư

1.3. Vai trò của pháp luật khuyến khích đầu tư
1.4.

Quá trình phát triển của các quy định pháp luật về
khuyến khích đầu tư

1.5. Khuyến khích đầu tư ở một số nước trên thế giới
Chương 2: thực trạng pháp luật về khuyến khích
đầu tư ở Việt Nam

2.1.

Thực trạng pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp
nước ngoài

2.2. Thực trạng pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước

1
4
4
7
10
12
18
21


21
36

Xu hướng xích lại gần nhau giữa pháp luật khuyến
2.3. khích đầu tư trong nước và pháp luật khuyến khích đầu

48

tư nước ngoài
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về khuyến khích đầu tư

3.1.

3.2.

Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khuyến
khích đầu tư ở Việt Nam
Phương hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về khuyến khích đầu tư ở Việt Nam

57

57

63

Kết luận

72


Danh mục tài liệu tham khảo

74


Danh mục các chữ viết tắt
1. Các chữ viết tắt tiếng Việt Nam
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
ĐTTN
Đầu tư trong nước
Điều lệ ĐTNN năm 1977 Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành kèm theo
Nghị định số 115/CP, ngày 8/4/1977
Luật ĐTNN năm 1987
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành
ngày 29/12/1987
Luật ĐTNN năm 1990
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 30/6/1990
Luật ĐTNN năm 1992
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 23/12/1992
Luật ĐTNN năm 1996
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành
ngày 12/11/1996
Luật ĐTNN năm 2000
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 9/6/2000

KCN
Khu công nghiệp
KCX
Khu chế xuất
2. Các chữ viết tắt tiếng Anh
AFTA
ASEAN
BOT
BTO
BT
CEPT
EU
FDI
IMF
UNCTAD

WTO

ASEAN Free Trade Area - Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Association of Southeast Asian Nations - Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á
Building - Operating - Transfering - (Xây dựng Kinh doanh - Chuyển giao)
Buiding - Transfering - Operating - (Xây dựng Chuyển giao - Kinh doanh)
Building - Transfering - (Xây dựng- Chuyển giao)
Common Effective Preferential Tariff (ASEAN) Thoả thuận về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
European Union - Liên minh Châu âu
Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Intenational Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế
United Nations Conference on Trade and
Development - Diễn đàn của Liên Hợp quốc về

thương mại và phát triển
World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới


1

Lời nói đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) nền kinh tế nước ta từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều thành phần kinh tế. Sự đa dạng của các loại hình sở hữu, sự tự do kinh
doanh của các chủ thể cũng như xu thế hội nhập kinh tế thế giới làm cho việc
khuyến khích đầu tư trở thành vấn đề tất yếu. Nó khơi dậy những tiềm năng
phát triển kinh tế của đất nước. Đảng và Nhà nước ta chủ trương tranh thủ vốn,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước để
đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp. Để tạo ra sự
bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử, nhiều quy định pháp lý đã được xây dựng
và không ngừng được hoàn thiện.
Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1987 đã được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
bốn lần (năm 1990,1992,1996,2000). Những quy định pháp lý về khuyến
khích đầu tư đã được ghi nhận trong đạo luật này. Chính phủ cũng đã ban
hành nhiều văn bản pháp quy, hướng dẫn chi tiết thi hành Luật hoặc quy định
những vấn đề mới phát sinh về ĐTNN. Có thể nói trong hơn 17 năm thi hành
Luật ĐTNN, những nguồn vốn quan trọng đã được huy động cho mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần khai thác và nâng cao hiệu
quả nguồn vốn trong nước. Luật ĐTNN đã chú trọng đến một số điều chỉnh
căn bản theo hướng phù hợp với một nền kinh tế mở, với xu thế của tình hình
mới, đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội của nước ta và được các nhà ĐTNN đánh

giá cao.
Luật Khuyến khích ĐTTN (1994) đã quy định hệ thống các điều kiện,
thang bậc ưu đãi đầu tư trong nhiều lĩnh vực. Các biện pháp khuyến khích đầu
tư cũng được quy định trong Luật Khuyến khích ĐTTN và các văn bản hướng
dẫn thi hành với mức độ khác với ĐTNN. Trong những năm gần đây, mức độ
khác nhau về khuyến khích đầu tư giữa ĐTNN và ĐTTN đã được giảm dần.
Tuy nhiên cho đến nay, nhìn chung pháp luật khuyến khích đầu tư vẫn còn
thiếu tính đồng bộ, ổn định và cụ thể, thậm chí có những quy định còn mâu
thuẫn nhau, dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử giữa ĐTTN và ĐTNN. Trong
khi đó, chính sách nhất quán thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã
được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Tiếp tục
chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển [7, tr.330].


2

Trong bối cảnh hiện nay, việc làm sáng tỏ thực trạng của pháp luật
khuyến khích đầu tư để từ đó tìm ra lộ trình xây dựng các quy định pháp luật
áp dụng chung cho cả ĐTNN và ĐTTN là một vấn đề rất bức xúc và thiết thực
ở Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Hoàn thiện pháp luật về khuyến
khích đầu tư ở Việt Nam mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà
còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của các loại hình khuyến
khích đầu tư trong và ngoài nước ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu
về pháp luật đầu tư như: Luận án tiến sĩ của Lê Mạnh Tuấn (1996) về Cơ sở
khoa học của việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ của Hoàng Phước Hiệp (1996) về Cơ chế điều
chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận
án tiến sĩ của Nguyễn Khắc Định (2003) về Hoàn thiện pháp luật về đầu tư

trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở Việt
Nam cùng nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đăng trên các tạp chí Luật
học, Nghiên cứu kinh tế cũng đã đề cập tới pháp luật về đầu tư ở Việt Nam dưới
nhiều giác độ khác nhau. Một số giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội,
Trường Đại học Ngoại thương, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân cũng có những chuyên đề về pháp luật đầu tư...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến khía cạnh cơ
chế điều chỉnh pháp luật ĐTNN, pháp luật ĐTNN hoặc quản lý nhà nước đối
với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam... Chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện nội dung hoàn thiện pháp luật
khuyến khích đầu tư ở Việt Nam để tiến tới thống nhất một mặt bằng pháp
luật khuyến khích đầu tư áp dụng chung cho cả ĐTTN và ĐTNN.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài này tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về khuyến khích
ĐTTN và ĐTNN để làm rõ thực trạng và kiến nghị phương hướng hoàn thiện
theo xu hướng thống nhất sự điều chỉnh pháp luật khuyến khích đầu tư áp
dụng chung cho cả ĐTTN và ĐTNN trong điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế,
có tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học là biện chứng
duy vật của triết học Mác-Lênin. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương
pháp cụ thể là: phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo, hệ thống hoá, khái quát


3

hoá, trừu tượng hoá... để nghiên cứu những vấn đề khuyến khích ĐTTN,
ĐTNN ở Việt Nam.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một cách có

hệ thống nội dung hoàn thiện pháp luật khuyến khích đầu tư ở Việt Nam làm
rõ cơ sở lý luận của việc khuyến khích đầu tư và yêu cầu của việc hoàn thiện
pháp luật về khuyến khích đầu tư, đưa ra các kiến nghị, phương hướng, nhằm
đưa các quy định của pháp luật về khuyến khích ĐTNN xích lại gần với pháp
luật khuyến khích ĐTTN, tạo thế chủ động trong hội nhập quốc tế, đưa ra giải
pháp cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện pháp luật tiến tới xây dựng một
đạo luật áp dụng chung cho cả ĐTTN và ĐTNN.
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm: khuyến khích đầu tư và pháp luật
khuyến khích đầu tư, đặc điểm và vai trò vị trí của nó trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ sự thực trạng của pháp luật khuyến khích ĐTTN,
ĐTNN, đánh giá về ưu điểm và hạn chế của hai lĩnh vực pháp luật này.
- Dự báo xu hướng phát triển của pháp luật khuyến khích ĐTTN, ĐTNN
và từ đó đưa ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật huyến
khích đầu tư ở Việt Nam.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật trong lĩnh
vực khuyến khích đầu tư. Tác giả cố gắng luận giải một cách đầy đủ các vấn
đề lý luận cơ bản về khuyến khích đầu tư.
Luận văn có những kiến nghị có tính khả thi góp phần tiếp tục hoàn
thiện các quy định pháp luật theo xu hướng tiến tới thống nhất sự điều chỉnh
pháp luật khuyến khích đầu tư cho cả ĐTTN và ĐTNN, phù hợp với thông lệ
quốc tế và đặc thù của Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 76 trang. Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật khuyến khích đầu tư
Chương 2: Thực trạng pháp luật về khuyến khích đầu tư ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về khuyến

khích đầu tư


4

Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản
về pháp Luật Khuyến khích đầu tư

1.1. Sự cần thiết của pháp luật khuyến khích đầu tư
1.1 .1. Tính tất yếu khách quan của việc khuyến khích đầu tư
Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, hoạt động đầu tư nước
ngoài xuất hiện từ thế kỷ thứ XVI. Các nhà tư bản trên thế giới đã tích luỹ tư
bản và tiến hành đầu tư vốn vào các nước đang phát triển để mở các đồn điền,
khai thác khoáng sản, nguồn lao động để kiếm lời. Chủ nghĩa tư bản càng
phát triển thì hoạt động đầu tư càng có phạm vi, quy mô lớn hơn với những
hình thức đầu tư đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên, ở những năm cuối của
thế kỷ XVI, số nhà tư bản tích luỹ tư bản và đầu tư phát triển nguồn tư bản chỉ
chiếm một phần rất nhỏ, trong khi đó các quốc gia có nhu cầu thu hút đầu tư
lại rất nhiều, đặc biệt là các nước Châu á, Châu phi và Mỹ La tinh. Điều đó đã
đặt ra cho các nhà đầu tư tư bản đứng trước nhiều sự lựa chọn đầu tư. Sự lựa
chọn dựa trên các tiêu chí rất khác nhau phụ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, nguồn
vốn đầu tư, những điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị của quốc gia đang thu
hút đầu tư, song mục đích cuối cùng mà nhà tư bản muốn có là việc đầu tư vốn
của mình vào quốc gia nào, khu vực nào thì kiếm được lợi nhuận cao nhất. Rõ
ràng giữa bối cảnh nguồn vốn thì ít mà địa bàn, khu vực đầu tư lại rất nhiều
đã đặt các quốc gia đang cần nguồn vốn đầu tư phải cạnh tranh lẫn nhau để
có thể lôi kéo được các nhà đầu tư về phía mình. Để có thể cạnh tranh trong
việc thu hút nguồn vốn đầu tư, các quốc gia đang cần sự đầu tư phải làm nổi
bật mình bằng các chiến lược, biện pháp để thu hút sự chú ý của các nhà đầu

tư. Và đương nhiên, nhà đầu tư sẽ quyết định đầu tư vào quốc gia nào hấp
dẫn mình nhất.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang ngày càng phát triển,
một điều tưởng như nghịch lý nhưng lại rất thống nhất là hầu hết các nước
đang phát triển đang rất thiếu vốn nhưng lại có rất nhiều nguồn lực để phát
triển; trong khi đó, các nước phát triển có nguồn tư bản rất dồi dào nhưng các
tiềm năng để phát triển hoạt động đầu tư lại không phong phú bằng các nước
đang phát triển. Những điều mâu thuẫn ấy đã gặp nhau ở một điểm là hoạt
động đầu tư: các nước phát triển tiến hành việc đầu tư còn các nước đang
phát triển cần phải thu hút đầu tư.


5

Việt Nam, ngoài đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển, còn
có những đặc thù riêng của một nước đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh
ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh manh mún và lạc hậu, trong khi đó hoạt
động quản lý nhà nước lại vấp phải những thiếu sót, sai lầm. Thời kỳ tập
trung, quan liêu, bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào
khủng hoảng. Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu, Việt Nam cần phải đổi mới không chỉ trong hoạt động
quản lý mà trong cả các hoạt động kinh tế - xã hội. Đồng thời với việc tranh
thủ nguồn nội lực quốc gia, huy động ĐTTN, Việt Nam cần phải tranh thủ
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.
Thu hút đầu tư và khuyến khích đầu tư là một bài toán khó đối với các
nhà quản lý. Việc đưa ra các chiến lược và các biện pháp nhằm thu hút đầu tư
là hết sức cần thiết, nó không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt là đưa Việt Nam
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu mà còn là động lực để đưa nền kinh tế Việt Nam
phát triển và có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, muốn đạt được mục đích thu hút vốn đầu tư, Việt Nam cần phải

tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư, giữ vững ổn định nền kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị và thực hiện cải cách
từng bước để hội nhập vào quỹ đạo để phát triển nền kinh tế thế giới. Việc đưa
ra các biện pháp khuyến khích đầu tư để thu hút các nhà đầu tư trong hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc tế, đã ký Hiệp định thương
mại với Hoa kỳ, hội nhập kinh tế khu vực AFTA, và đang phấn đấu để gia
nhập WTO. Việc tham gia vào sân chơi quốc tế đặt nền kinh tế Việt Nam
trước nhiều cơ hội song cũng đứng trước nhiều thách thức. Để khẳng định vị
thế của mình và tận dụng các cơ hội trong sự hội nhập, trong lĩnh vực thu hút
đầu tư, Việt Nam cần có những biện pháp khuyến khích đầu tư cụ thể, hấp dẫn
và có tính cạnh tranh cao. Khuyến khích đầu tư trong tiến trình hội nhập quốc
tế là một nhu cầu khách quan và cần thiết, từng bước tranh thủ vốn đầu tư và
kỹ thuật hiện đại của các nước trên thế giới, huy động tối đa nguồn vốn ĐTTN
đồng thời tạo ra cho các nhà ĐTTN cơ hội tiếp xúc và cạnh tranh với các nhà
đầu tư quốc tế.
1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh các biện pháp khuyến khích đầu tư
bằng pháp luật
Hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý đầu tư nói riêng là chức
năng quan trọng của Nhà nước. Sự quản lý hoạt động đầu tư, đặc biệt là các


6

biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật trong điều kiện phát triển kinh
tế của Việt Nam hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Sự cần thiết phải quản lý các
biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật được thể hiện ở những nội dung
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Các biện pháp khuyến khích đầu tư được đặt ra nhằm mục
đích thu hút các nhà đầu tư đầu tư nguồn vốn của họ vào các lĩnh vực sản xuất,

kinh doanh cụ thể. Song, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư,
trong các quan hệ về khuyến khích đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có những
biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả. Việc hướng các quan hệ trong lĩnh vực
đầu tư theo một trật tự có định hướng, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích
cho các nhà đầu tư là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh
vực đầu tư. Nhà nước không chỉ quản lý hoạt động đầu tư bằng các nghị
quyết, chủ trương, đường lối mà cần phải cụ thể hoá các nghị quyết, chủ
trương thành pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư
phát triển. Nếu không có một hành lang pháp lý cụ thể, Nhà nước không thể
phát huy hết quyền lực và vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư.
Thứ hai, Đối với hoạt động đầu tư và các biện pháp khuyến khích đầu tư,
pháp luật về đầu tư và khuyến khích đầu tư hình thành trên cơ sở vận động nội
tại của các quan hệ đầu tư. Nếu như trong thời kỳ quản lý tập trung, các quan hệ
đầu tư diễn ra hết sức tẻ nhạt và theo kiểu cơ chế xin cho, các chủ thể đầu tư
là các nhà ĐTTN, nguồn vốn đầu tư rất nhỏ thì trong nền kinh tế thị trường, với
một cơ chế thông thoáng, các chủ thể là các nhà ĐTNN xuất hiện, hệ thống các
chính sách liên quan đến đầu tư ngày càng cởi mở đã làm cho môi trường đầu
tư dần nóng lên và ngày càng sôi động. Sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư
trong một sân chơi với những nội dung cạnh tranh phức tạp đòi hỏi các nhà
quản lý cần phải có phương tiện để điều khiển các cuộc chơi hướng các hoạt
động đầu tư theo định hướng rõ rệt, đảm bảo một môi trường pháp lý bình đẳng
mà ở đó các nhà đầu tư có thể phát huy hết năng lực của mình.
Thứ ba, bản chất của các biện pháp khuyến khích đầu tư là Nhà nước
muốn dành cho các nhà đầu tư những chính sách ưu đãi đặc biệt để khuyến
khích nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư. Để các biện pháp khuyến khích đầu tư phát
huy được hiệu quả, Nhà nước không thể tuỳ tiện đưa ra các chính sách ưu đãi
và không thể dành sự ưu đãi cho nhà đầu tư này mà không dành ưu đãi cho
nhà đầu tư khác. Cần phải có chính sách thống nhất và bình đẳng, tạo ra một
môi trường cạnh tranh đầu tư lành mạnh và sòng phẳng. Trong bối cảnh
hiện nay, khi chủ thể đầu tư không chỉ là các nhà ĐTTN mà các chủ thể



7

ĐTNN đến từ các quốc gia khác nhau cũng song song tồn tại. Việc có sự
thống nhất và bình đẳng trong môi trường pháp lý là vô cùng cần thiết. Nó
không chỉ làm cho thị trường đầu tư của Việt Nam có một sự cạnh tranh sôi
động mà còn đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
có hiệu quả. Pháp luật đầu tư và pháp luật khuyến khích đầu tư là mực thước
để phân định và thúc đẩy các hoạt động đầu tư phát triển. Sự điều chỉnh các
biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật ngoài việc đảm bảo cho các
hoạt động đầu tư vận động theo đúng các quy luật khách quan đồng thời bảo
đảm cho các biện pháp khuyến khích đầu tư phát huy được hiệu quả, thu hút,
hấp dẫn và tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư. Nếu không có sự quản lý các
biện pháp khuyến khích đầu tư bằng pháp luật sẽ làm cho môi trường đầu tư
trở nên kém hiệu quả, bản thân các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ phản lại
tác dụng của nó, Nhà nước sẽ không thể quản lý hoạt động đầu tư. ở phương
diện đối ngoại, Việt Nam sẽ mất đi vị thế trong thị trường đầu tư đang diễn ra
hết sức sôi động, bình đẳng và lành mạnh trên thế giới.
1.2. Khái niệm về khuyến khích đầu tư và pháp luật khuyến khích
đầu tư
1.2.1. Khái niệm về khuyến khích đầu tư
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một khái niệm thống nhất về khuyến
khích đầu tư. Khái niệm khuyến khích đầu tư được đề cập ở nhiều văn bản
khác nhau, ở mỗi ngành nghề khác nhau có những biện pháp khuyến khích
đầu tư khác nhau. Trên thế giới, theo định nghĩa của UNCTAD thì Khuyến
khích đầu tư hay còn gọi là ưu đãi đầu tư là các biện pháp được Chính phủ sử
dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành, các khu vực
cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu tư. Theo một cách tiếp cận
khác, khuyến khích đầu tư là các biện pháp xúc tác rất đa dạng và phong phú

để thu hút đầu tư. Các biện pháp khuyến khích đầu tư có thể quy về hai nhóm
chính: chính sách thuế khoá (tax policy) và chính sách khác không phải là
thuế (non- tax policy) [35, tr. 4]. Khuyến khích đầu tư hay còn gọi là ưu đãi
đầu tư là một công cụ, chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư
theo những mục tiêu phát triển nhất định.
Khác với đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước là hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam; các nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc người
đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Trong giai đoạn đầu của nền
kinh tế mở, ĐTNN giữ vai trò chủ đạo và đóng một vai trò vô cùng quan trọng


8

trong phát triển kinh tế. Nhưng trong nền kinh tế thị trường có sự hội nhập
quốc tế, ĐTTN được xác định là nguồn đầu tư đóng vai trò then chốt, quyết
định. Bên cạnh nguồn vốn từ bên ngoài có vị trí quan trọng, nguồn vốn
trong nước có ý nghĩa quyết định phải được huy động tối đa và đóng vai trò
quyết định trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Nếu như
trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn
ĐTNN có thể cao, song khi trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so
với tổng số vốn trong nước đã huy động và vốn trong nước chiếm vai trò quyết
định [35, tr.3].
Khẳng định vai trò và ý nghĩa quan trọng của ĐTTN, việc đẩy mạnh các
chính sách thu hút ĐTTN trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thu hút ĐTNN là
vô cùng quan trọng. Giống với các biện pháp khuyến khích ĐTNN, các biện
pháp khuyến khích ĐTTN cũng nhằm mục đích thu hút các nguồn vốn đầu tư
và huy động nguồn vốn đầu tư của các nhà ĐTTN.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về kuyến khích đầu tư
như sau:

Khuyến khích đầu tư là hệ thống các chính sách, biện pháp ưu đãi đầu
tư của Nhà nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định
1.2.2. Khái niệm pháp luật về khuyến khích đầu tư
Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng với nội dung ngày càng trở nên phức tạp. Để đảm bảo cho hoạt động đầu
tư và hệ thống các biện pháp, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển theo
định hướng của nhà nước, đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng trong quá trình
đầu tư, các biện pháp khuyến khích đầu tư không thể tồn tại dưới dạng các
quan hệ xã hội bình thường mà cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Dưới
sự tác động của các quy phạm pháp luật, Nhà nước quản lý và hướng các hoạt
động đầu tư và ưu đãi đầu tư theo định hướng của mình.
Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về pháp luật khuyến
khích đầu tư như sau:
Pháp luật khuyến khích đầu tư là hệ thống những quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực khuyến khích đầu tư .


9

Để đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn ĐTNN, Chính phủ các nước đã sử
dụng nhiều công cụ hay các biện pháp huy động vốn đầu tư và thể hiện các
biện pháp khuyến khích đầu tư trong các quy định pháp luật, một số nước gọi
là Luật Thúc đẩy đầu tư như: Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc ở Việt Nam,
để thúc đẩy đầu tư trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, vừa hướng đầu tư vào
một số lĩnh vực ưu tiên phát triển, các địa bàn, lĩnh vực khuyến khích đầu tư,
các biện pháp khuyến khích đầu tư được quy định ở nhiều văn bản pháp lý
khác nhau, phù hợp với từng lĩnh vực đầu tư khác nhau. Các quy định này

được ghi nhận từ trong Hiến pháp, nhiều đạo luật và các văn bản dưới luật, thể
hiện tập trung nhất là trong Luật ĐTNN, Luật Khuyến khích ĐTTN, các Luật
Thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Việc quy định địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư có một tầm quan
trọng đặc biệt, nó sẽ định hướng các dự án đầu tư theo mục đích và chính sách
đầu tư của Nhà nước. Trên cơ sở đó các biện pháp khuyến khích được xác lập
gồm có:
- Các chính sách ưu đãi về thuế;
- Các chính sách ưu đãi trong việc sử dụng đất trong quá trình đầu tư,
sản xuất, kinh doanh;
- Các chính sách ưu đãi trong hoạt động xuất, nhập khẩu, hải quan;
- Các chính sách ưu đãi trong việc sử dụng nguồn lao động,
Ngoài các biện pháp ưu đãi đặc biệt trong các lĩnh vực nêu trên, Nhà
nước còn đưa ra các biện pháp bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài như:
- Bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà ĐTNN, bảo
đảm nguồn vốn và tài sản đầu tư không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện
pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá, bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà ĐTNN
trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
- Các bảo đảm khi pháp luật Việt Nam có thay đổi làm thiệt hại đến lợi
ích của nhà đầu tư.
Các biện pháp bảo đảm đầu tư có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà đầu tư,
nó tác động đến tâm lý và ảnh hướng trực tiếp đến việc quyết định đầu tư. Các
biện pháp bảo đảm đầu tư chính là biện pháp có hiệu quả để thu hút đầu tư.
Nếu khuyến khích đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích mà các nhà đầu tư
được hưởng thì các biện pháp bảo đảm đầu tư giúp các nhà đầu tư an tâm và
tin tưởng vào các chính sách thu hút đầu tư.


10


1.3. Vai trò của pháp luật về khuyến khích đầu tư
Pháp luật khuyến khích đầu tư có ý nghĩa và tầm quan trong đặc biệt
trong việc tạo cơ sở cho việc xác lập những nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm
bảo cho sự vận hành của hoạt động đầu tư nhằm thu hút và huy động nguồn
vốn đầu tư đang rất dồi dào trong các nhà đầu tư:
1.3.1. Pháp luật khuyến khích đầu tư có vai trò tăng cường khả năng
cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư.
Trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế và nền kinh tế khu vực đang ngày
càng phát triển và xích lại gần nhau hơn, tốc độ công nghiệp hoá và chuyên
môn hoá ngày càng cao. Trong hành trang quốc tế hoá, mỗi quốc gia có những
thế mạnh riêng của mình, các quốc gia có nguồn tư bản dồi dào muốn mang
nguồn vốn của mình đầu tư, sản xuất, kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Các
quốc gia thiếu vốn có nhu cầu thu hút vốn đầu tư để phát triển nền kinh tế. Để
thu hút nguồn vốn đầu tư ngày càng nhiều, việc đưa ra các chính sách và các
biện pháp khuyến khích đầu tư là một tất yếu khách quan. Qúa trình thu hút
vốn ĐTNN là sân chơi cho các quốc gia đang có nhu cầu tìm kiếm nguồn
vốn đầu tư. Trong sân chơi đó có một sự cạnh tranh thường xuyên liên tục.
Thực tế, nhà đầu tư với mục đích cuối cùng rất rõ ràng là lợi nhuận, việc lựa
chọn và quyết định địa bàn và lĩnh vực đầu tư là một sự tính toán rất kỹ
lưỡng. Trong sự tính toán đó, nhà đầu tư hết sức để ý đến các chính sách và
các biện pháp thu hút đầu tư. Quốc gia nào có các biện pháp khuyến khích đầu
tư hợp lý, hiệu quả và hấp dẫn nhất sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư
hơn. Sự cụ thể hoá các biện pháp khuyến khích đầu tư trong các quy định pháp
luật tạo cho nhà đầu tư tâm ý ổn định, tin tưởng vào các chính sách thu hút
đầu tư của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng, làm tăng khả năng cạnh
tranh và thu hút vốn của các nước đang cần thu hút đầu tư trong quá trình thu
hút vốn đầu tư.
1.3.2. Pháp luật khuyến khích đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong việc
định hướng đầu tư.

Trong một quốc gia, không phải ở nơi nào, địa bàn nào, lĩnh vực nào
cũng có thể thu hút vốn đầu tư. Mỗi địa bàn, mỗi lĩnh vực có những khó khăn
và thuận lợi riêng của mình. Khi quyết định đầu tư, nhà đầu tư sẽ lựa chọn
những địa bàn, những lĩnh vực đầu tư nào thuận lợi nhất và có khả năng đạt
được lợi nhuận cao nhất. Nếu như không có các biện pháp khuyến khích đầu
tư, không có những chính sách ưu đãi đầu tư đối với các địa bàn hoặc lĩnh vực
khó khăn, trong mối quan hệ cân bằng với những địa bàn hoặc lĩnh vực đầu tư


11

thuận lợi, nhà đầu tư sẽ không bao giờ lựa chọn đầu tư vào các địa bàn, lĩnh
vực đầu tư mà họ biết chắc chắn rằng họ sẽ gặp khó khăn hoặc không thu
được lợi nhuận. Các biện pháp khuyến khích đầu tư đối với các địa bàn, lĩnh
vực khó khăn sẽ khích lệ các nhà đầu tư đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư. Tạo
ra một sự cân bằng giữa các địa bàn, lĩnh vực đầu tư không chỉ thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực khó khăn mà còn giúp cho
hoạt động phát triển đầu tư theo đúng định hướng của Nhà nước, từng bước
xoá bỏ sự chênh lệch giữa các vùng, miền, lĩnh vực đầu tư, đảm bảo cho quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ngày càng nhanh, mạnh và
vững chắc.
1.3.3. Pháp luật khuyến khích đầu tư góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của nhà đầu tư .
Pháp luật về các biện pháp khuyến khích đầu tư ra đời là do yêu cầu của
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, đó là các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư. Pháp luật về các
biện pháp khuyến khích đầu tư cũng tác động trở lại làm cho việc khuyến
khích đầu tư phát sinh, phát triển theo hướng có lợi.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chỉ có thể mang
lại kết quả khi pháp luật nói chung và pháp luật về các biện pháp khuyến

khích đầu tư nói riêng phản ánh đúng các quy luật kinh tế khách quan trong
điều kiện mới của nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước. ở đây, pháp luật đóng vai trò chủ yếu là
đảm bảo cho công cuộc đổi mới không thể đảo ngược, bởi lẽ, khi pháp luật
phản ánh đúng đòi hỏi của xã hội, sẽ làm cho các quan hệ xã hội mới xuất
hiện và được củng cố một cách vững chắc. Vai trò của pháp luật có ý nghĩa rất
lớn đối với sự thành bại của công cuộc đổi mới. Ngược lại, sự thành công của
công cuộc đổi mới gắn liền với sự đổi mới của bản thân hệ thống pháp luật.
Chính sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề cho sự cởi trói,
thúc đẩy các quan hệ kinh tế mới phát triển. Pháp luật về các biện pháp
khuyến khích đầu tư bên cạnh vai trò thúc đẩy và thu hút đầu tư đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả đầu tư:
Thứ nhất, pháp luật về các biện pháp khuyến khích đầu tư tạo cơ sở cho
việc xác lập các nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, để thúc
đẩy và thu hút đầu tư, không thể bỏ qua các nguyên tắc: khuyến khích cạnh


12

tranh, nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền Khi
các nguyên tắc trên được thể chế hoá thành những nguyên tắc pháp lý sẽ trở
thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các giải pháp, công cụ để có
thể thúc đẩy và thu hút đầu tư.
Thứ hai, pháp luật về các biện pháp khuyến khích đầu tư xác lập một môi
trường pháp lý an toàn, đảm bảo cho các hoạt động đầu tư được điều chỉnh
theo một trật tự. Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ quyền lợi và hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư chỉ có thể phát triển trong một môi trường chính
trị - kinh tế - xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau.
Pháp luật nói chung, pháp luật về các biện pháp khuyến khích đầu tư nói

riêng là phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn
định mà ở đó mọi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, cụ thể là nhà đầu tư,
phải tôn trọng các cam kết và phải chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể
xảy ra.
1.4. Quá trình phát triển của các quy định pháp luật về khuyến
khích đầu tư ở Việt Nam
1.4.1. Quá trình phát triển của các quy định pháp luật về khuyến
khích đầu tư nước ngoài
Sau khi đất nước thống nhất (1975), nền kinh tế sau chiến tranh bị tàn
phá nặng nề, nền sản xuất nhỏ, kém phát triển, lệ thuộc vào bên ngoài rất
nhiều. Với một thực trạng kinh tế - xã hội như vậy, để thực hiện nhiệm vụ
khôi phục và phát triển kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã khẳng định
chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả
các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi,
tích cực tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợn để nhanh chóng xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội [2, tr. 82]. Thực hiện chủ trương đúng
đắn đó, ngày 18/4/1977 Chính phủ đã ra Nghị định số115/CP ban hành Điều
lệ ĐTNN, một văn bản pháp lý nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về ĐTNN và khuyến khích ĐTNN
đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước như một tín hiệu mở
cửa của Việt Nam. Theo các quy định tại Điều 1 của Điều lệ ĐTNN năm
1977, Chính phủ Việt Nam chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam và các bên cùng có lợi [10] không phân biệt chế độ kinh tế - chính


13

trị - xã hội. Mục đích khuyến khích đầu tư đã được thể hiện một cách rõ ràng.
Trong bối cảnh của nền kinh tế kế hoạch, Điều lệ ĐTNN năm 1977 đã làm

hình thành một môi trường pháp lý đặc thù của nền kinh tế tự do đối với các
doanh nghiệp. Điều lệ ĐTNN năm 1977 đã tạo ra khung pháp lý ban đầu cho
hoạt động thu hút đầu tư. Đây là những tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở
cho những bước cải cách sau này. Luật ĐTNN năm 1987 cũng đã lấy Điều lệ
đầu tư năm 1977 làm nội dung chính để hoàn thiện các biện pháp khuyến
khích đầu tư. Tuy nhiên, Điều lệ ĐTNN năm 1977 đã thể chế hoá chính sách
quản lý của nền kinh tế bao cấp nên còn thiếu các quy định cụ thể cho việc thi
hành các biện pháp khuyến khích đầu tư liên quan đến ngân hàng, lao động,
đất đai, quản lý ngoại tệ do đó chưa tạo được môi trường pháp lý đảm bảo
cho một sự đầu tư đồng bộ nên chưa hấp dẫn các nhà đầu tư.
Đầu những năm 1980, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng. Cụ thể hoá đường lối của Đảng về đẩy mạnh giao lưu quốc tế
nhằm thu hút đầu tư, Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị (ngày 17/7/1984) và
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá V (ngày
10/12/1984) đã đề ra nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật ĐTNN, đặc biệt là pháp
luật về khuyến khích đầu tư là phải có chính sách khuyến khích nước ngoài
đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi
hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần
thứ VI (1986) đã đề ra những chính sách đúng đắn, đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng, xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, đưa nền kinh tế nước ta từng
bước thoát khỏi khủng hoảng, mở ra công cuộc đổi mới toàn diện mọi mặt
của đời sống. Đi đôi với việc công bố văn bản pháp luật mới về ĐTNN cần có
chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt
kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Ngày 31/12/1987, Quốc hội đã thông
qua Luật ĐTNN tại Việt Nam. Trong đạo luật này các biện pháp khuyến khích
đầu tư được cụ thể hoá thành các quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý có giá
trị cao cho hoạt động thu hút ĐTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, Luật ĐTNN
năm 1987 ra đời trong hoàn cảnh khung pháp luật hiện hành chưa có các luật
và quy định về nền kinh tế thị trường, các quy định pháp lý liên quan đến hoạt
động thu hút đầu tư và khuyến khích đầu tư chưa phản ánh đúng các quy luật

của nền kinh tế thị trường nên chưa đảm bảo yếu tố cạnh tranh lành mạnh và
thực sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Do vậy các biện pháp khuyến khích
đầu tư trong Luật ĐTNN năm 1987 chưa phát huy hết bản chất, giá trị cũng
như hiệu quả của nó.


14

Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật
ĐTNN tại Việt Nam, ngày 30/6/1990 Quốc hội đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật ĐTNN năm 1987. Luật ĐTNN năm 1990 đã tuân
thủ một số nguyên tắc chủ yếu của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận
lợi để tất cả các thành phần kinh tế trong nước có thể tham gia vào quá trình
xây dựng và thực hiện dự án đầu tư. Các chủ thể đầu tư có sự cạnh tranh bình
đẳng. Các quy định pháp lý liên quan đến các biện pháp khuyến khích đầu tư
đã thúc đẩy và thu hút các nhà đầu tư, cụ thể như các biện pháp bảo đảm đầu
tư, các biện pháp miễn thuế trong 4 năm, giảm thuế 50% trong 4 năm tiếp
theo, hoàn 100% thuế cho phần lợi tức tái đầu tư .. Có thể khẳng định, sau
khi Luật ĐTNN năm 1990 được ban hành, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam đã
bước sang một giai đoạn phát triển mới, đánh dấu sự thành công của chính
sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Với những
chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn, nhịp độ tăng trưởng của ĐTNN tăng rõ rệt
từ 108 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư là 635,148 triệu USD tại thời điểm
31/12/1990, chỉ sau 2 năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư, số dự án đầu tư
tăng lên 197 dự án với tổng số vốn là 2,027 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có sự chuyển biến
mạnh mẽ, nhu cầu thu hút đầu tư trên thế giới có sự biến động rất lớn và trở
thành một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, các chính sách thu hút
đầu tư được đề cập trong Luật ĐTNN năm 1990 đã bắt đầu hấp dẫn các nhà
đầu tư, song thực tiễn hợp tác và thu hút đầu tư cho thấy các biện pháp thu hút

đầu tư của nước ta chưa có sức cạnh tranh cao và chưa thực sự hấp dẫn so với
một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore...và các nước trên thế
giới. Từ những chuyển biến căn bản như trên, việc phải hoàn thiện các chính
sách thu hút và khuyến khích ĐTNN là vô cùng cần thiết, Luật ĐTNN năm
1992 ra đời trong bối cảnh như vậy. Ngoài việc bổ sung biện pháp bảo đảm
quyền lợi của nhà ĐTNN trong trường hợp pháp luật có thay đổi, Luật ĐTNN
năm 1992 còn hoàn thiện các biện pháp khuyến khích đầu tư: nếu như Luật
ĐTNN năm 1990 chỉ áp dụng mức thuế ưu đãi cho xí nghiệp liên doanh 10%25% thì Luật ĐTNN năm 1992 quy định mức thuế ưu đãi áp dụng cho cả xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài Luật ĐTNN năm 1992 đã xây dựng các chính
sách ưu đãi về thuế, giá thuê đất, giá điện nước và công nhân và cụ thể hoá
các chính sách ưu đãi đầu tư. Nhưng, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá
đang phát triển cao độ, nhu cầu hợp tác và thu hút đầu tư ngày càng cao, các
quy định pháp luật về thu hút đầu tư thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn


15

chồng chéo, các thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, rườm rà. Việc chuẩn
hoá các biện pháp khuyến khích đầu tư được thực hiện theo hướng tiếp tục
tăng cường thu hút FDI vào những mục tiêu trọng điểm trong chương trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Luật ĐTNN năm 1996 ra đời với mục tiêu minh bạch và chuẩn xác hoá
các biện pháp thu hút đầu tư. Luật ĐTNN năm 1996 đã quy định cụ thể những
lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư, quy định lại việc miễn, giảm thuế lợi
tức theo đó, doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên nước ngoài tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh có thể được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối
đa là 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức
trong một thời gian tối đa 2 năm tiếp theo. Trường hợp dự án có nhiều tiêu
chuẩn khuyến khích đầu tư, thì được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối
đa 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức

trong một thời gian tối đa là 4 năm tiếp theo. Đối với những trường hợp đặc
biệt khuyến khích đầu tư, thời gian miễn thuế tối đa là 8 năm. Ngoài ra, Luật
ĐTNN năm 1996 còn có quy định giảm tiền thuê đất, miễn thuế nhập khẩu
cho các thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng
Các biện pháp khuyến khích đầu tư quy định trong Luật ĐTNN năm
1996, về cơ bản đã thu hút và hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là các biện
pháp khuyến khích đầu tư đã có tính cạnh tranh cao. Song, có một số quy định
pháp lý về thu hút đầu tư liên quan đến đất đai, ngân hàng vẫn chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Luật ĐTNN năm 2000 ra đời nhằm đáp
ứng yêu cầu đó, tạo điều kiện xích lại gần nhau hơn giữa các nhà ĐTNN và
nhà ĐTTN. Ngoài việc cải tiến các chính sách thu hút đầu tư liên quan đến
thuế, liên quan đến thủ tục cấp phép đầu tư hoặc cho phép nhà ĐTNN tham
gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được trực tiếp mua ngoại tệ tại các ngân
hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch khác,
Luật ĐTNN năm 2000 đã từng bước xoá bảo hộ đối với các nhà ĐTTN, tạo ra
môi trường pháp lý đầu tư bình đẳng và cạnh tranh.
Có thể nói, các biện pháp khuyến khích đầu tư đã từng bước được hoàn
thiện để thu hút nguồn vốn trực tiếp nước ngoài quy định trong Luật ĐTNN đã
thực sự mang tính hấp dẫn và tính cạnh tranh rất cao, đã từng bước tạo thế chủ
động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi
trường kinh doanh của Việt Nam trở nên thông thoáng, bình đẳng và thực sự
có uy tín đối với các nhà ĐTNN.


16

1.4.2. Qúa trình phát triển của các quy định pháp luật về khuyến
khích đầu tư trong nước
So với pháp luật về các biện pháp khuyến khích ĐTNN, pháp luật về các
biện pháp khuyến khích ĐTTN ra đời muộn hơn, tuy nhiên nó đã phản ánh rõ

chính sách huy động nguồn vốn ĐTTN và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
rất dồi dào ở Việt Nam. Thực tế cho thấy Việt Nam là nước có nguồn lực về
tài nguyên thiên nhiên rất lớn, nhưng việc sử dụng nguồn lực này vẫn chưa
thật hiệu quả. Vì vậy, cần phải có những biện pháp khuyến khích nhằm tăng
cường hoạt động đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế. Việc phát huy nội lực
trong nước để khai thác có hiệu quả những tiềm năng sẵn có là những vấn đề
cần được chú trọng. Với tinh thần đó, Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh quan điểm huy động mọi
nguồn lực, đặc biệt là phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước nhằm góp
phần phát triển kinh tế, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh [6, tr. 85]. Đảng và Nhà nước ta đã khuyến khích các thành phần kinh
tế đầu tư vào phát triển kinh tế. Ngày 22/6/1994, Quốc hội đã thông qua Luật
Khuyến khích ĐTTN. Đây là văn bản pháp lý điều chỉnh việc khuyến khích
ĐTTN, tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển
sản xuất. Tuy nhiên, do môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục đầu tư
còn nhiều khó khăn, phức tạp... nên kết quả đầu tư còn thấp, mức độ đầu tư
chưa cao.
Để thúc đẩy các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển sản xuất, đẩy
mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế giữa nước ta với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Quốc hội đã thông qua Luật Khuyến khích
ĐTTN sửa đổi vào ngày 20/5/1998.
Luật Khuyến khích ĐTTN chủ yếu quy định các biện pháp khuyến khích
đầu tư trong nước. Đó là các biện pháp đảm bảo đầu tư, hỗ trợ đầu tư và ưu đãi
đầu tư. Bằng những chính sách nhằm đảm bảo về mặt pháp lý và thực tế,
những chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng, cùng với các biện pháp hỗ trợ về
vốn, mặt bằng sản xuất đối với nhà đầu tư. Luật Khuyến khích ĐTTN còn quy
định một số vấn đề như: quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, quản lý nhà nước
về khuyến khích ĐTTN, khen thưởng và xử lý vi phạm...



17

1.4.3. Mối quan hệ của pháp luật về khuyến khích đầu tư với những
ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Trong phạm vi đề tài, luận văn tập trung làm rõ mối quan hệ của pháp
luật khuyến khích đầu tư với 2 lĩnh vực luật khác là: pháp luật đất đai và pháp
luật về thuế bởi vì đây là những lĩnh vực pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến
việc hình thành và phát triển hệ thống các biện pháp khuyến khích đầu tư.
Trong hệ thống các biện pháp khuyến khích, các đạo luật về thuế và các quy
định về đất đai, có mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ, không thể thiếu và trở thành
một bộ phận cấu thành rất cơ bản trong chính sách khuyến khích đầu tư. Nếu
thiếu đi các biện pháp khuyến khích đầu tư trong hai lĩnh vực này, hệ thống
các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ mất đi ý nghĩa và không có tính hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
1.4.3.1. Mối quan hệ giữa pháp luật về khuyến khích đầu tư với pháp
luật đất đai.
Các biện pháp khuyến khích đầu tư liên quan đến đất đai có tính hấp dẫn
lớn đối với các nhà đầu tư, bởi vì đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích trước
mắt cũng như lâu dài của nhà đầu tư. Vấn đề đầu tiên và nhạy cảm mà các nhà
đầu tư quan tâm đó chính là mặt bằng dành cho hoạt động đầu tư. Hoạt động
đầu tư liên quan đến hàng loạt các vấn đề về đất, như: quyền sử dụng đất, hình
thức sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, thế chấp quyền sử dụng
đất. Ngoài các quy định liên quan đến việc miễn, giảm tiền thuê đất cho nhà
đầu tư khi thực hiện các dự án, bảo đảm quyền sử dụng đất hợp pháp cho nhà
đầu tư, các ưu đãi về thời hạn thuê đất đất đai còn có ảnh hưởng rất lớn đến
vị trí kinh doanh của nhà đầu tư, hoạt động giao thông, vận tải, đi lại, đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư. Như vậy, các quy định
pháp luật về đất đai là một bộ phận cấu thành không thể thiếu và là cơ sở pháp
lý quan trọng trong việc giải quyết các quan hệ phát sinh trong quá trình sử

dụng đất của nhà đầu tư. Các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ không phát
huy đầy đủ hiệu quả nếu thiếu đi các biện pháp khuyến khích đầu tư trong lĩnh
vực sử dụng đất. Trong mối quan hệ với pháp luật đất đai, pháp luật về các
biện pháp khuyến khích đầu tư có tác động trở lại trong việc cung cấp những
cứ liệu cho việc hoàn thiện một số chế định của Luật Đất đai như các chế định
liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất ở các ngân hàng, chế định về quyền
sử dụng đất của doanh nghiệp khi bị phá sản, giải thể. Có thể khẳng định rằng,
các quy định pháp luật về đất đai có quan hệ chặt chẽ và trở thành một trong
những biện pháp khuyến khích đầu tư, xét ở tính chiến lược, có tính hấp dẫn
nhất trong hệ thống các biện pháp khuyến khích đầu tư.


18

1.4.3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về khuyến khích đầu tư với pháp
luật thuế
Trong chính sách thu hút và khuyến khích đầu tư của các quốc gia trên
thế giới, chính sách thuế rất được các quốc gia coi trọng. Điều đó khẳng định
vai trò đặc biệt của các đạo luật về thuế trong mối quan hệ với các biện pháp
khuyến khích đầu tư. Giống như các chính sách thu hút đầu tư liên quan đến
đất đai, các biện pháp khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực thuế có tính hấp dẫn
rất lớn đối với các nhà đầu tư, nếu như các biện pháp khuyến khích đầu tư
trong lĩnh vực đất đai hấp dẫn nhà đầu tư ở lợi ích có tính chiến lược lâu dài
thì các quy định pháp luật về thuế hấp dẫn trực tiếp các nhà đầu tư. Tất nhiên,
trong mối quan hệ tổng thể, các biện pháp khuyến khích đầu tư ảnh hưởng đến
lợi ích trước mắt và lâu dài và đều được các nhà đầu tư quan tâm rất kỹ khi
quyết định đầu tư, song các biện pháp khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực thuế
có tính hấp dẫn ngay tức khắc, mang tính cạnh tranh cao và nhà đầu tư dễ xác
định khi quyết định đầu tư. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế là một

khoản phải chi trả mang tính thường xuyên, ngay cả khi hoạt động sản xuất
kinh doanh không hiệu quả. Trong mối quan hệ với tổng doanh thu, thuế là
một khoản phải trả, vì thế thuế có tính liên quan thường xuyên và là vấn đề
được nhà đầu tư quan tâm trong suốt quá trình tiến hành hoạt động kinh
doanh. Chính vì thế, trong mối quan hệ với các biện pháp khuyến khích đầu tư
khác, các biện pháp khuyến khích về thuế có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Nếu như thiếu các biện pháp khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực thuế thì hệ
thống các biện pháp khuyến khích đầu tư sẽ mất tính cạnh tranh có tính quốc
tế và vì thế hoạt động thu hút đầu tư sẽ trở nên không hiệu quả.
1.5. Khuyến khích đầu tư ở một số nước trên thế giới
Đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Chính vì thế, thu hút đầu tư và khuyến khích để thu hút đầu
tư là nhu cầu tất yếu khách quan không chỉ của các quốc gia đang phát triển
mà của cả các nước phát triển. Trong bối cảnh các nền kinh tế được quốc tế
hoá ngày càng cao độ, thì thu hút đầu tư ngày càng thể hiện rõ tính chất cạnh
tranh rất gay gắt không chỉ ở cấp độ khu vực mà còn mang tính quốc tế rất
cao. Việc nghiên cứu và tìm hiểu các chính sách thu hút đầu tư của các nước
trên thế giới để tìm ra những chính sách thu hút đầu tư có hiệu quả và có thể
vận dụng một cách linh hoạt vào bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
để thu hút đầu tư là vô cùng cần thiết. Có thể thấy hầu hết các nước đều ban


19

hành Luật Khuyến khích đầu tư để thúc đẩy đầu tư trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế. Các chính sách thu hút đầu tư của các quốc gia có những định hướng
chiến lược rất rõ ràng, cụ thể Luật Khuyến khích đầu tư hoặc các chính sách
thu hút đầu tư của các quốc gia quy định rõ các địa bàn, lĩnh vực khuyến
khích đầu tư như ở Inđônêxia, Malaysia, Trung quốc, Nhật bản, Đức .Trong
phạm vi đề tài, luận văn đề cập đến một số chính sách khuyến khích đầu tư

của một số quốc gia trong khu vực - là các quốc gia có vị trí tương đối giống
Việt Nam, đều là các quốc gia đang phát triển và có nguồn lực phát triển
giống Việt Nam Từ đó có thể thấy được sự tương quan trong các chính sách
đầu tư giữa các quốc gia có cùng yếu tố, thấy được những điểm mạnh và
những vấn đề cần phải sửa đổi pháp luật liên quan đến các chính sách thu hút
đầu tư của Việt Nam.
1.5.1. Khuyến khích đầu tư ở Inđônêxia:
Inđônêxia là quốc gia đang phát triển, nhu cầu về vốn rất cao, vì thế
chính sách thu hút đầu tư được Chính phủ Inđônêxia rất coi trọng. Hiện nay,
liên quan đến hoạt động đầu tư, Inđônêxia ban hành hai luật đầu tư riêng rẽ.
Luật ĐTNN và Luật ĐTTN. Inđônêxia cũng có những định hướng rõ ràng
trong chính sách đầu tư, đó là quy định các lĩnh vực thu hút đầu tư trọng điểm.
Luật ĐTNN của Inđônêxia quy định các lĩnh vực ưu tiên và các biện pháp ưu
đãi chủ yếu; ưu đãi thuế. Inđônêxia không có chính sách thu hút đầu tư thống
nhất dành cho nhà ĐTNN và nhà ĐTTN, có một sự bảo hộ rất rõ ràng mà
Chính phủ Inđônêxia dành cho các nhà ĐTTN. Inđônêxia cũng có những
chính sách ưu đãi thuế, miễn, giảm thuế cho nhà đầu tư tuy nhiên vẫn có sự
khác biệt về thời hạn miễn, giảm thuế giữa ĐTNN và ĐTNN.
1.5.2. Khuyến khích đầu tư ở Malaysia
Theo Luật Khuyến khích ĐTTN năm 1986 Malaysia áp dụng ưu đãi đầu
tư đối với ngành công nghiệp mới; sử dụng công nghệ cao; đầu tư vào các địa
bàn có điều kiện khó khăn; sử dụng nhiều lao động; hoạt động nghiên cứu và
phát triển; tái đầu tư Các biện pháp khuyến khích chủ yếu là miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp; cho phép chuyển lỗ; miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế
doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Malaysia quy định chế độ khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho từng lĩnh vực:
công nghiệp, nông nghiệp và du lịch. Trong ưu đãi đối với từng ngành, có các
biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư chung, và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu.



20

Chính phủ Malaysia có những chính sách thu hút đầu tư thống nhất dành
cho cả nhà ĐTNN và nhà ĐTTN, tạo được sân chơi bình đẳng và mang tính
cạnh tranh cao cho các nhà ĐTTN. Chính phủ Malaysia có những chính sách
đầu tư rất hấp dẫn cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu phát triển và
đào tạo. Có thể thấy đây là một lĩnh vực đang rất được coi trọng ở các quốc
gia phát triển. Việt Nam có thể tham khảo các chính sách thu hút đầu tư chung
đang được áp dụng ở Malaysia và chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực
nghiên cứu, phát triển và giáo dục đào tạo - một lĩnh vực đầu tư mà Việt Nam
đang có nhiều tiềm năng.
1.5.3. Khuyến khích đầu tư ở Thái Lan
Thái Lan có thế mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, ứng dụng công nghệ
thông tin, vật liệu mới, nuôi trồng, chế biến nông - lâm - hải sản... Vì vậy, các
biện pháp khuyến khích đầu tư theo Luật Khuyến khích ĐTTN 1977 và sửa
đổi năm 1991 có các biện pháp ưu đãi về thuế; các ưu đãi bổ sung đối với các
doanh nghiệp ở những vùng được khuyến khích đầu tư đặc biệt; các ưu đãi bổ
sung đối với các xí nghiệp xuất khẩu.
Thái Lan cũng đưa ra các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư, ở Thái
Lan, các chính sách ưu đãi để thu hút và khuyến khích đầu tư là thống nhất
dành cho cả nhà ĐTTN và nhà ĐTNN. Chính phủ có những chính sách thu hút
đầu tư rất rõ ràng và hấp dẫn đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
phạm vi kế hoạch phát triển, hỗ trợ đầu tư.
Có thể nói, các chính sách đầu tư của các quốc gia cùng khu vực có rất
nhiều điểm tương đồng, như đều đưa ra các địa bàn và các lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư diễn ra
theo định hướng và chiến lược của Chính phủ, các biện pháp khuyến khích
đầu tư tập trung chủ yếu vào các biện pháp ưu đãi về thuế Song giữa các
quốc gia có những quy định pháp luật rất khác nhau về khuyến khích đầu tư,
nếu như ở Malaysia và Thái lan không có sự phân biệt trong chính sách ưu đãi

đầu tư dành cho nhà ĐTNN và nhà ĐTTN thì ở Việt Nam, Inđônêxia lại có sự
phân biệt tương đối rõ ràng giữa các nhà đầu tư này. Hiện nay, Việt Nam đang
trong tiến trình dự thảo Luật Đầu tư, mà trong đó, chính sách ưu đãi và thu hút
đầu tư là thống nhất cho cả nhà ĐTNN và nhà ĐTTN, việc nghiên cứu và học
hỏi kinh nghiệm của Thái lan và Malaysia để có thể áp dụng linh hoạt vào
Việt Nam là rất cần thiết. Đặc biệt, Việt Nam có thể nghiên cứu xem xét một
số lĩnh vực thu hút đầu tư tương đối mới nhưng rất có tiềm năng phát triển ở
Việt Nam như lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và giáo dục đào tạo, để có
những chính sách thu hút đầu tư hợp lý và hấp dẫn.


21

Chương 2
Thực trạng pháp luật về
khuyến khích đầu tư ở Việt nam

2.1. Thực trạng pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1. Các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài
a) Lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư
Luật ĐTNN năm 1987 đã cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được
đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, đoạn
2 Điều 3 còn quy định cụ thể những lĩnh vực được khuyến khích đầu tư như:
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và
hàng thay thế nhập khẩu
- Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để
khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế
hiện có
- Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở
Việt Nam

- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
- Dịch vụ thu tiền nước ngoài như du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay,
cảng khẩu và các dịch vụ khác.
Luật ĐTNN năm 1996 đã có một bước tiến so với Luật ĐTNN năm 1987
ở chỗ đã quy định cụ thể những lĩnh vực và địa bàn khuyến khích ĐTNN, các
lĩnh vực đầu tư có điều kiện, những lĩnh vực và địa bàn không cấp giấy phép
ĐTNN và giao cho Chính phủ quy định các địa bàn khuyến khích đầu tư, ban
hành danh mục các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, danh
mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục các lĩnh vực không cấp giấy
phép đầu tư. Điều 3 Nghị định số 12/CP ngày 18/02/1997 quy định Bộ Kế
hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trình Chính phủ quyết định và cho công bố các loại danh
mục đó. Như vậy, trong Luật ĐTNN năm 1996, chúng ta vẫn chưa quy định


22

được danh mục các ngành nghề cụ thể cấm đầu tư hoặc đầu tư có điều kiện.
Cụ thể hơn, Nghị định số 24/2000/NĐ-CP của Chính Phủ mới công bố chính
thức các danh mục khuyến khích đầu tư:
-

Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư

-

Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư

-


Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư.

Nhà nước Việt Nam không khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư tràn lan
mà chỉ khuyến khích đầu tư theo hướng tập trung vào các mục tiêu trọng điểm
là các lĩnh vực, địa bàn ưu tiên góp phần giải quyết sự mất cân đối trong cơ
cấu về lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế, về cán cân thương mại và cán cân
thanh toán như: Sản xuất hàng xuất khẩu; nuôi trồng chế biến nông, lâm, thuỷ
sản; Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái,
đầu tư vào nghiên cứu phát triển; Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên
liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam.
Địa bàn khuyến khích đầu tư là địa bàn mà đầu tư tại đó được Chính phủ
khuyến khích và cho hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định và trình tự của Luật
Đầu tư.
Địa bàn khuyến khích đầu tư bao gồm đầu tư vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất; Địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư như: vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn.
b) Ưu đãi về thuế
ưu đãi đầu tư là các lợi ích về kinh tế mà Nhà nước dành cho các nhà đầu
tư nhằm thu hút họ đầu tư vào các lĩnh vực hoặc địa bàn cần khuyến khích
bằng cách làm giảm các chi phí, rủi ro và tăng khả năng thu lợi nhuận của đầu
tư. Các ưu đãi về thuế là loại ưu đãi được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới,
bao gồm các ưu đãi nhằm giảm gánh nặng về thuế cho nhà đầu tư như: miễn,
giảm thuế thu nhập công ty; miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, cho phép chuyển
lỗ; ưu đãi đối với tái đầu tư
Luật Đầu tư năm 1987 đã quy định về các loại thuế một cách hợp lý, vừa
đảm bảo lợi ích của Nhà nước Việt Nam, vừa đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư,
đồng thời có tính hấp dẫn hơn so với các loại thuế tương ứng được ban hành ở
các nước trong khu vực.



×