Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

MỘT số vấn đề về tài sản vợ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG sản XUẤT KINH DOANH tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.86 KB, 68 trang )

BỘ TƢ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN ĐỨC HOÀI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
TẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ : 60.38.30
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. PHẠM CÔNG LẠC

HÀ NỘI 2005


1
Mục lục
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

2

Chƣơng I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VỢ CHỒNG


1.1. Những vấn đề cơ bản về tài sản của vợ chồng

8
8

1.2. Một số trường hợp đầu tư sản xuất kinh doanh của vợ chồng

18

1.3. Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh

23

Chƣơng II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ TÀI SẢN
VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
tại Việt Nam

31

2.1. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 với vấn đề tài sản
vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh

31

2.2.Một số vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của vợ chồng

39
chƣơng III


PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH TÀI SẢN VỢ
CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH

46

3.1. Đặt vấn đề

46

3.2. Một số vấn đề về hôn ước

48

3.3. Giải quyết phát sinh từ việc chia tài sản chung

53

3.4. Nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng

55

KẾT LUẬN

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

63



2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể khẳng định trong thời gian vừa qua, nền kinh tế – xã hội của đất
nước đã giành được những thành tựu rất đáng ghi nhận, đời sống của đại
bộ phận nhân dân được cải thiện một cách đáng kể. Thành tựu này có được
phần lớn là nhờ những chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta trong việc hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật. Chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát triển nền tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm đã tận dụng và phát huy
được sức mạnh tổng thể của nguồn lực trong nước vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển kinh tế.
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển lành mạnh của
gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội. Mỗi gia
đình được xây dựng trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
trong đó quan hệ hôn nhân có thể được xem là quan hệ nền tảng của mỗi
một gia đình. Mối quan hệ này ổn định sẽ tạo ra sự bền vững của gia đình,
góp phần vào sự ổn định chung của toàn xã hội. Để xây dựng mối quan hệ
hôn nhân thực sự ổn định, hạnh phúc vợ chồng có nghĩa vụ chung thuỷ,
thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Bên cạnh nghĩa vụ yêu thương, quý trọng, chăm sóc cùng xây dựng gia
đình, vợ chồng còn có bổn phận duy trì cuộc sống thường nhật, đảm bảo
mức sinh hoạt vật chất tối thiểu của đời sống gia đình. Hay nói cụ thể hơn
để đảm bảo đời sống gia đình, vợ chồng phải tạo ra một nguồn thu nhập
nhất định có tính ổn định. Có nhiều cách thức để vợ chồng tạo ra thu nhập
cho gia đình như trực tiếp tham gia vào các quan hệ lao động trong các cơ



3
quan nhà nước, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế, trực tiếp
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh với những mô hình khác nhau như
kinh tế hộ gia đình cho đến thành lập các loại hình doanh nghiệp, và các
nguồn thu nhập khác như thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản…Trong số đó, thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là đang ngày càng trở thành một
nguồn thu nhập mang tính chất cơ bản và và được nhiều cặp vợ chồng tiến
hành đầu tư. Điều này cũng là phù hợp với chủ trương khuyến khích làm
giàu, phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực vào sự nghiệp phát triển kinh
tế mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Chính sách tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật được ghi nhận tại Điều 57 Hiến pháp 1992 là một
cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện cho mỗi cặp vợ chồng tận dụng và
phat huy mọi năng lực của riêng mình tham gia vào các hoạt động kinh tế
tạo thu nhập ổn định cho gia đình.
Từ khi Hiến pháp 1992 chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, sự tham gia của vợ chồng vào các quan hệ
kinh tế như là những chủ thể độc lập mới thực sự trở nên đa dạng và cũng
tỏ ra hết sức năng động. Và cũng từ đây nảy sinh một vấn đề pháp lý cần
phải giải quyết đó là vấn đề tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Những nội dung như tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng,
xác định hoa lợi, lợi tức từ tài sản vợ chồng, chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân… đối với những tài sản của vợ chồng đầu tư
vào hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh trong thực tế luôn là đặt ra
một yêu cầu cấp thiết đối với công tác xây dựng pháp luật. Và thực tế cũng
cho thấy hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề này tại Việt Nam cũng chưa
đáp ứng được yêu cầu mà thực tế đặt ra.
Đứng trước thực tế như vậy, tác giả của luận văn này mong muốn sẽ
tiến hành những bước nghiên cứu về thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn

đề tài sản vợ chồng đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra


4
những kiến nghị nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật điều chỉnh vấn đề này
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều bài viết và một số công trình
nghiên cứu đăng trên những tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Luật học,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, … đề cập tới những khía cạnh khác nhau
của vấn đề tài sản vợ chồng như vấn đề tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng; quyền nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định của Luật
Hôn nhân và Gia đình, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân, …theo quy định của pháp luật hiện hành. Đây là những bài
viết tìm hiểu, phân tích những khía cạnh khác nhau của vấn đề tài sản vợ
chồng theo luật thực định, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm sửa
đổi, bổ sung những quy định hiện hành của pháp luật còn nhiều điểm chưa
thực sự hợp lý. Có thể kể ra đây một số bài viết như Quyền sở hữu vợ
chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 (Nguyễn Văn
Cừ, Tạp chí Luật học số 4/2000); Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học
số 6/2002); Xác lập quyền sở hữu đối với thu nhập của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Hồng Hải, Tạp chí Luật học số 2/2003)…
Trong các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật học ở
nước ta trong những năm qua cũng chỉ mới đề cập đến một lượng kiến
thức cơ bản và khái quát về chế độ tài sản vợ chồng trong chương trình
đào tạo cử nhân luật hoặc cán bộ pháp lý. Một số sách tham khảo liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng cũng chỉ mới đề một lượng kiến thức
bản, phổ thông hoặc trích đăng phụ lục của các văn bản liên quan đến vấn

đề tài sản vợ chồng


5
Ngoài ra, cũng đã có những khoá luận tốt nghiệp cử nhân và luận văn
thạc sĩ luật học nghiên cứu về vấn đề tài sản vợ chồng như luận văn tốt
nghiệp cao học luật khoá I của Th.s Hoàng Ngọc Huyên với nội dung
“Chế độ tài sản vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam” và
gần đây nhất là công trình khoa học “Chế độ tài sản vợ chồng theo Luật
Hôn nhân và Gia đình Việt Nam” đã được thày giáo Nguyễn Văn Cừ bảo
vệ thành công luận án tiến sĩ vào đầu năm 2005. Đây thực sự là những
công trình có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn đề cập đến khía cạnh tài
sản vợ chồng theo quy định của luật hiện hành. Mặc dù vậy những công
trình này chỉ mới tiến hành nghiên cứu những vấn đề về chế độ tài sản của
vợ chồng dựa theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và các văn bản
hướng dẫn thi hành như nguyên tắc và căn cứ xác định tài sản của vợ
chồng, chia tài sản của vợ chồng…
Tuy nhiên, vẫn chưa có một bài viết, một công trình nghiên cứu khoa
học… nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tài sản vợ chồng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây thực sự là một nội dung khá mới
mẻ nhưng cũng rất phức tạp cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi tiếp tục phải
có những công trình nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này. Tác giả của luận
văn mong muốn sẽ thực hiện những bước nghiên cứu đầu tiên về vấn đề
này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu
một khía cạnh nhỏ của vấn đề tài sản vợ chồng – vấn đề tài sản vợ chồng
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mặc dù chỉ tiếp cận ở một phạm vi
hẹp, nhưng đây thực sự là một vấn đề hết sức phức tạp trong công tác thực
tiễn giải quyết và cả về lý luận, và thậm chí quy phạm pháp luật điều

chỉnh nó vẫn còn thiếu, thậm chí là chưa có.


6
Xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề như vậy, luận văn không chỉ nghiên
cứu các quy phạm điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng trong Luật Hôn nhân
và gia đình 2000 – một văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh vấn đề tài sản
vợ chồng mà luận văn còn tiếp cận với hệ thống văn bản pháp luật có liên
quan, trực tiếp hay gián tiếp điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Đây thực sự là một cách tiếp cận
vấn đề tài sản vợ chồng ở một phạm vi hẹp nhưng chuyên sâu vào một lĩnh
vực cụ thể.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để có thể đạt kết quả như mong đợi trong việc nghiên cứu đề tài, luận
văn sẽ sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu, phân
tích các quy định của pháp luật về vấn đề có liên quan, từ đó đưa ra được
những nhận xét, đánh giá những điều đã đạt được, những điểm còn có sự
hạn chế trong các quy định của pháp luật về vấn đề này. Từ đó để có thể
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
này.
Ngoài ra phương pháp so sánh cũng được áp dụng để sử dụng để tìm
hiểu những quy định của pháp luật nước ngoài điều chỉnh hoạt động này;
từ đó đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách khái quát các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng nói chung và tài
sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng để tìm ra
những điểm hạn chế còn tồn tại, trên cơ sở đó đế xuất những phương án



7
nhằm xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật điều
chỉnh vấn đề có liên quan.
Luận văn cũng tiến hành phân loại tài sản vợ chồng theo những tiêu chí
khác nhau tạo cơ sở pháp lý trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật
6. Điểm mới của luận văn
Khác với các bài viết, các công trình khoa học trước đây nghiên cứu
vấn đề tài sản vợ chồng với tư cách là một chế định của Luật hôn nhân gia
đình, ở luận văn này, tác giả sẽ thực hiện việc nghiên cứu tài sản vợ chồng
ở một khía cạnh hoàn toàn mới - đó là vấn đề tài sản vợ chồng đầu tư vào
hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi mà các quy định của pháp luật điều
chỉnh vấn đề này mới chỉ dừng lại về mặt nguyên tắc, thiếu những quy định
cụ thể thì một vấn đề đặt ra đối với công tác nghiên cứu và xây dựng pháp
luật là ban hành những điều luật đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn đã và
đang đặt ra. Với mục đích như vậy, luận văn mong muốn sẽ thực hiện
những bước nghiên cứu đầu tiên về vấn đề tài sản vợ chồng đầu tư sản xuất
kinh doanh trên cơ sở đó có những kiến nghị đối với công tác xây dựng
pháp luật để kịp thời có những sự sửa đổi các quy định của pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực này trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia thành 3 phần chính, gồm Lời nói đầu, phần nội
dung gồm 3 chương và phần kết luận


8
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
1.1. Những vấn đề cơ bản về tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm và các loại tài sản của vợ chồng

1.1.1.1. Khái niệm
Được xem là tế bào của xã hội, gia đình có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình là cái nôi nuôi
dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân
cách, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Một gia
đình thường được xây dựng trên cơ sở của các mối quan hệ hôn nhân,
huyết thống, nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân là quan hệ nền tảng, có
ý nghĩa quyết định các mối quan hệ khác. Mỗi gia đình nói chung và các
cặp vợ chồng nói riêng ngoài nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc,
giúp đỡ lẫn nhau, các thành viên còn phải thực hiện nghĩa vụ duy trì đời
sống chung; mà đời sống chung đó chỉ có thể được bảo đảm một cách vững
chắc nếu nó được xây dựng trên một nền tảng vật chất nhất định. Hay nói
cách khác một trong những chức năng cơ bản của gia đình trong đó có mỗi
cặp vợ chồng đó là chức năng kinh tế mà nội dung của nó là sự tham gia
của các thành viên vào quá trình hoạt động sản xuất của xã hội, góp phần
tạo dựng và phát triển cơ sở vật chất, tinh thần nhất định cho gia đình và xã
hội. Chính vì vậy các quy định điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng luôn
được các nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong những chế định
quan trọng nhất của pháp luật hôn nhân gia đình.
Dưới góc độ pháp lý tài sản vợ chồng có thể hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm các quy
định về căn cứ xác lập tài sản vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng


9
đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và
chồng. Như vậy có thể thấy các quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề
tài sản vợ chồng thực chất là các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề sở
hữu tài sản của vợ chồng.
Để duy trì cuộc sống chung của gia đình ở mức tối thiểu, vợ chồng

phải có nguồn thu nhập nhất định. Thu nhập của vợ chồng có thể được hiểu
là những lợi ích vật chất mà vợ chồng có được bao gồm các khoản tiền
công, tiền lương phát sinh từ các hoạt động mang tính nghề nghiệp, không
mang tính nghề nghiệp hoặc các khoản lợi tức phát sinh từ các hoạt động
sử dụng, quản lý tài sản trong sản xuất kinh doanh hoặc trong giao lưu dân
sự. Trong đó nguồn thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là loại thu
nhập đang ngày càng chiếm một tỷ trọng khá cao trong thu nhập của các
cặp vợ chồng ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong thực trạng của nền
kinh tế nước ta – một nền kinh tế vận động theo xu hướng thị trường được
xây dựng trên nền tảng là tính đa dạng của các thành phần kinh tế . Theo
nghĩa từ điển “sản xuất là hoạt động tạo ra của cải vật chất nói chung”
(Từ điển Tiếng Việt 2005, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng); theo quy
định tại Điều 3 khoản 2 Luật Doanh nghiệp năm 2000, “kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo thu nhập, vợ chồng
phải đầu tư một số lượng tài sản nhất định. Tài sản theo nghĩa từ điển được
hiểu là “của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu” (Từ
điển Tiếng Việt 2005, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà nẵng); theo Điều 163
Bộ luật dân sự 2005 thì “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản”. Cho đến thời điểm này, trong hệ thống pháp luật Việt Nam
vẫn chưa có những quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể


10
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh vấn đề tài sản vợ
chồng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong xu hướng vận động
của nền kinh tế theo hướng thị trường thì các quy định của pháp luật về vấn
đề này là sự cần thiết mang tính tất yếu khách quan..

Tiếp cận ở góc độ pháp lý, tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh có thể được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật điều
chỉnh việc chiếm hữu, sử dung, định đoạt tài sản vợ chồng (tài sản thuộc sở
hữu chung và thuộc sở hữu riêng của mỗi bên) nhằm mục đích kinh doanh
thu lợi nhuận hướng tới việc xây dựng gia đình ổn định, bền vững.
Việc điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề tài sản của vợ chồng nói chung
trong đó có vấn đề tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh nói riêng là điều kiện để Nhà nước điều tiết và quản lý các quan hệ
xã hội, bảo đảm các mục tiêu xây dựng và phát triển xác hội vững mạnh,
công bằng, dân chủ văn minh. Đây cũng là điều kiện cần thiết để bảo vệ
quyền lợi của các thành viên trong gia đình, tránh những tranh chấp xảy ra
làm tổn thương đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình. Quy định này
còn tạo điều kiện để vợ chồng chủ động tham gia vào các quan hệ xã hội,
nhằm phát triển kinh tế gia đình, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của
người thứ ba khi tham gia giao dịch về tài sản với vợ, chồng. Quy định này
của pháp luật còn là cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp có liên quan đến tài sản của vợ chồng.
1.1.1.2. Các loại tài sản của vợ chồng
Có thể thấy rằng cùng một tài sản của vợ chồng nếu dựa vào những
tiêu chí khác nhau, chúng ta có thể phân loại tài sản đó thuộc các nhóm tài
sản khác nhau. Việc phân loại này rất có ý nghĩa trong việc xây dựng, áp
dụng pháp luật và giải quyết các tranh chấp phát sinh có liên quan đến tài


11
sản vợ chông trong đó có tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Thứ nhất, nếu dựa vào tiêu chí nguồn gốc tài sản và thời điểm hình
thành tài sản, tài sản của vợ chồng có thể được phân ra thành tài sản thuộc
sở hữu chung của hai vợ chồng và tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên.

Tài sản riêng của vợ, chồng là loại tài sản mà vợ chồng có đầy đủ
quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản đó là quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt. Loại tài sản này thường được mỗi bên vợ, chồng
sử dụng để bảo đảm và thực hiện những nhu cầu riêng, tiến hành đầu tư
kinh doanh riêng... Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia có quy định
về hình thức tài sản này thì tài sản riêng của vợ, chồng thường là những tài
sản có trước khi kết hôn hoặc những tài sản được thừa kế riêng hoặc tặng
cho riêng. Tuy nhiên vợ chồng cũng có thể thoả thuận để nhập tài sản thuộc
sở hữu riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng loại tài sản mà bình thường chúng ta
không thể xác định được phần tài sản nào là thuộc sở hữu của người vợ,
phần tài sản nào thuộc sở hữu của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất,
chỉ trong trường hợp nào thực sự cần thiết cần có sự phân chia tài sản
chung của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của mỗi bên trong
khối tài sản chung đó.
Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới có quy định chế
độ tài sản này thì tài sản chung của vợ chồng thường là những tài sản có
được trong thời kỳ hôn nhân không phân biệt công sức đóng góp và những
tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung
Trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung, pháp luật các
quốc gia đều quy định vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc thực hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt khối tài sản này, việc thực hiện các


12
quyền này phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và phải có sự bàn
bạc, thoả thuận của cả hai vợ chồng khi sử dụng khối tài sản này.
Việc phân loại tài sản của vợ chồng thành tài sản chung và tài sản riêng
có ý nghĩa trong việc giới hạn xử sự của vợ, chồng đối với từng loại tài sản
và là cơ sở để xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên nếu xảy ra tranh

chấp. Chẳng hạn như tài sản chung được chi dùng để đảm bảo những nhu
cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Những nhu
cầu chung đó có thể là những nhu cầu về việc duy trì và phát triển đời sống
tinh thần và vật chất của gia đình, nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
và bảo vệ con cái. Các nghĩa vụ chung đó có thể phát sinh khi vợ tiến hành
sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân…
Thứ hai, nếu dựa vào tiêu chí mục đích sử dụng tài sản, tài sản của vợ
chồng có thể được phân loại thành tài sản tiêu dùng và tài sản đầu tư kinh
doanh.
Tài sản tiêu dùng là loại tài sản mà vợ chồng sử dụng nhằm mục đích
đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày của gia đình như ăn,
mặc, ở, đi lại, chăm sóc và giáo dục con cái… Đây là loại tài sản mà mỗi
một cặp vợ chồng đều phải có để duy trì cuộc sống chung ở mức tối thiểu.
Tài sản đầu tư kinh doanh là loại tài sản mà vợ chồng sử dụng để thực
hiện việc đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra thu nhập cho gia
đình, bảo đảm và cải thiện đời sống chung.
Để tạo ra và tăng thu nhập cho gia đình đáp ứng nhu cầu đa dạng của
cuộc sống, vợ chồng có thể tiến hành đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp vào các mô hình tổ chức kinh tế rất đa dạng trong nền kinh tế thị
trường. Vợ chồng có thể lựa chọn đầu tư các mô hình doanh nghiệp hay chỉ
dừng lại ở kinh tế hộ gia đình và có thể khai thác lợi tức từ việc góp vốn
vào những mô hình này hoặc từ việc tham gia vào các dạng thị trường như
thị trường chứng khoán…


13
Việc phân loại tài sản vợ chồng thành tài sản tiêu dùng và tài sản
đầu tư kinh doanh đặc biệt có ý nghĩa trong việc xác định giới hạn trách
nhiệm, nghĩa vụ về tài sản của vợ và chồng. Chẳng hạn như nếu vợ chồng
lựa chọn tiến hành đầu tư vào một số loại hình doanh nghiệp như công ty

trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần hoặc góp vồn vào những mô hình
này, vợ, chồng chỉ phải chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm bằng tài
sản không sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và như vậy thì tài sản tiêu
dùng của vợ chồng sẽ không bị ảnh hưởng để từ đó vẫn ổn định đời sống
của gia đình. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả sẽ tập trung nghiên
cứu, phân tích vấn đề lý luận, thực tiễn và các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng đầu tư vào hoạt động
sản xuất kinh doanh để từ đó tìm ra được những mặt đã đạt được và những
điểm còn hạn chế của pháp luật trong việc điều chỉnh vấn đề này, từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm hướng tới xây dựng và từng bước hoàn thiện các
quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
Thứ ba, nếu dựa vào tiêu chí là sự thoả thuận của vợ chồng theo các
quy định của pháp luật thì tài sản của vợ chồng có thể được chia thành tài
sản ước định và tài sản pháp định
Tài sản ước định là loại tài sản mà vợ chồng có quyền thoả thuận về
giới hạn, phạm vi tài sản chung và tài sản riêng. Việc giới hạn này được thể
hiện một cách rõ ràng tại những điều khoản hôn ước. Thông thường, pháp
luật một số quốc gia có áp dụng hình thức này thì có quy đinh hôn ước phải
được lập thành văn bản và được công chứng (theo luật của Pháp) hoặc
được xác nhận tại cơ quan tiến hành đăng ký kết hôn (theo luật của Thái
Lan).
Tài sản pháp định là loại tài sản mà ở đó việc xác định đâu là tài sản
thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng hay thuộc sở hữu chung của hai


14
người sẽ dựa trên các quy định của pháp luật và vợ chồng không được thoả
thuận để thay đổi hình thức này. Theo đó thì toàn bộ tài sản của vợ chồng
có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ

chồng trừ những tài sản theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của
vợ chồng. Vợ chồng cũng có thể thoả thuận nhập tài sản riêng của mỗi bên
vào khối tài sản chung. Khi hôn nhân còn tồn tại thì khối tài sản chung này
vẫn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt
pháp lý.
Việc phân loại tài sản vợ chồng thành hai chế độ này có ý nghĩa trong
công tác xây dựng pháp luật. Tuỳ thuộc vào truyền thống lập pháp, bản
chất nhà nước và chế độ kinh tế xã hội mà mỗi một quốc gia có thể lựa
chọn cho mình một hình thức phù hợp để pháp điển hoá thành những quy
định của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng
1.1.2. Các hình thức tạo lập tài sản vợ chồng
Hình thức tạo lập tài sản vợ chồng là các cách thức, phương pháp được
quy định bởi pháp luật mà theo đó sẽ xác định tài sản của vợ chồng là tài
sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên kể từ thời điểm hai bên nam nữ
xác lập quan hệ vợ chồng. Xét theo tiêu chuẩn cộng đồng của quan hệ hôn
nhân, người ta có thể phân chia các hình thức tạo lập tài sản vợ chồng ra
thành hình thức cộng đồng toàn sản, cộng đồng động sản và tạo sản và hình
thức cộng đồng tạo sản.
Trước hết, đối với hình thức cộng đồng toàn sản thì toàn bộ tài sản của
vợ chồng dù là có trước hay sau thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân thì đều
là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Vợ chồng sẽ có toàn quyền sở
hữu tài sản của nhau bất kể tài sản đó thuộc loại nào, hình thành vào thời
điểm nào. Do đó trong thời kỳ hôn nhân sẽ không tồn tại hình thức tài sản
riêng của vợ hay chồng.


15
Hình thức này ra đời và tồn tại trong lịch sử lập pháp cũng có những lý
do riêng của nó. Trong thời kỳ tồn tại xã hội phong kiến, khi mà quan niệm
“nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” vẫn tồn tại thì để bảo vệ quyền lợi

người phụ nữ trong gia đình thì trước tiên quyền bình đẳng nam nữ mà
trước hết là bình đẳng về sở hữu phải được xác lập. Do vậy, quy định “ Vợ
chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài
sản có trước và sau khi cưới” (Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình 1959)
thật sự là cơ sở pháp lý vững chắc để xoá bỏ bất bình đẳng giới trong vấn
đề sở hữu, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình.
Tuy nhiên mỗi một quy định của pháp luật đều ra đời trong những hoàn
cảnh nhất định và nhằm phục vụ cho những mục đích nhất định của nền
kinh tế – xã hội. Khi nền kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến thì
những quy định của pháp luật cũng phải thay đổi sao cho phản ánh kịp với
trình độ phát triển của cuộc sống. Với mục đích xoá bỏ bất bình đẳng nam
nữ, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình, tuy nhiên hình thức cộng
đồng toàn sản cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Thứ nhất, hình thức
này sẽ tạo ra sự bất công trong vấn đề lao động - hưởng thụ, do đó không
bảo đảm được quyền lợi của bên có tài sản. Thứ hai, do không tồn tại tài
sản riêng, vì vậy sẽ không bảo đảm tính độc lập của vợ chồng về tài sản khi
tham gia giao dịch dân sự, không bảo đảm quyền tự định đoạt về tài sản của
chủ sở hữu là một bên vợ hoặc chồng. Thứ ba, vì toàn bộ tài sản có trước
và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung cho nên sẽ dẫn đến tình
trạng không khuyến khích được các bên lao động tạo ra tài sản và dẫn đến
sự ỷ lại vào bên kia. Vì những hạn chế này cho nên hình thức tạo lập tài sản
này của vợ chồng cho đến nay đã hầu như không còn được áp dụng trong
thực tế.
Khắc phục những hạn chế của hình thức cộng đồng toàn sản trong việc
bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản, các nhà lập pháp trong lịch sử đã xây


16
dựng nên hình thức cộng đồng động sản và tạo sản. Hình thức này thu hẹp
giới hạn tài sản chung của vợ chồng bằng việc ghi nhận vợ chồng có quyền

sở hữu tài sản riêng.
Trên quan điểm tạo sự bình đẳng trong việc tạo lập và hưởng thụ tài
sản, bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu tài sản là bên vợ, chồng các nhà lập
pháp cho rằng cần phải giữ lại cho mỗi bên vợ hoặc chồng một số lượng tài
sản nhất định thuộc sở hữu riêng. Trên cơ sở phân loại tài sản thành động
sản và bất động sản cùng với quan niệm coi bất động sản là thành phần chủ
yếu, quan trọng trong các loại tài sản của gia đình, pháp luật quy định dành
cho cho mỗi bên có quyền sở hữu riêng các bất động sản hiện có khi lập
hôn ước và tất cả các bất động sản mà người vợ hoặc chồng có được do
tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong suốt thời kỳ hôn nhân.
Theo hình thức này, tài sản chung của vợ chồng bao gồm toàn bộ động
sản của hai bên vợ chồng hiện có khi xác lập quan hệ hôn nhân hoặc những
tài sản (không phân biệt động sản hay bất động sản) mà vợ chồng tạo ra
trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy theo như hình thức này thì tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng sẽ bao gồm tất cả các bất động sản mà họ có được
trước khi kết hôn và các bất động sản họ được tặng cho riêng hoặc thừa kế
riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Hình thức cộng đồng tạo sản được xây dựng trên cơ sở của sự thu hẹp
hơn nữa phạm vi khối tài sản chung.
Đặc điểm của hình thức này là kể từ thời điểm kết hôn, những tài sản
do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ chồng
được tặng cho chung, được thừa kế chung… đều thuộc khối tài sản chung
của vợ chồng, không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên cũng như
loại tài sản là động sản hay bất động sản. Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung.


17
Như vậy ở hình thức này, kể từ thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân, tài
sản chung của vợ chồng bao gồm tất cả những tài sản tạo ra trong thời kỳ

hôn nhân, không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập
khối tầi sản chung ấy.
Hình thức này hiện nay đang được áp dụng phổ biến trong hệ thống
pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng của nhiều nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam bởi những ưu điểm của nó. Hình thức này tạo ra môi
trường pháp lý bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa
vợ và chồng; bảo đảm sự tự do của vợ và chồng khi tham gia các giao dịch
ngoài xã hội cũng như xác định rõ trách nhiệm, khả năng thanh toán của
vợ, chồng và bảo vệ quyền lợi của những người khác khi tham gia giao
dịch. Mặt khác, đó còn là căn cứ pháp lý để giải quyết công bằng, hợp lý
những tranh chấp có liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Hình thức biệt sản được xây dựng trên cơ sở đề cao ở mức độ tố đa
quyền sở hữu. Theo hình thức này thì sẽ không tồn tại hình thức tài sản
chung của vợ chồng bất kể tài sản đó hình thành trước hay trong thời kỳ
hôn nhân và bất kể đó là loại tài sản nào động sản hay bất động sản.
Sở dĩ các nhà lập pháp xây dựng chế độ này vì họ xuất phát từ quan
điểm quyền sở hữu là thiêng liêng bất khả xâm phạm, quyền sở hữu của
chủ sở hữu đối với tài sản phải được bảo vệ một cách tuyệt đối. Họ cho
rằng không thể có chuyện tài sản do một người tạo ra lại có thể chia sẻ cho
người khác mà không quan tâm đến ý chí của chủ sở hữu bất kể giữa họ có
tồn tại quan hệ vợ chồng hay không. Theo họ, hôn nhân là một hợp đồng
dân sự trong đó khối lượng tài sản của mỗi bên cũng như quyền và nghĩa
vụ của họ đối với nhau và đối với gia đình được xác định một cách rõ ràng.
Như vậy có thể thấy rằng trong lịch sử lập pháp đã và đang tồn tại các
hình thức tạo lập tài sản của vợ chồng khác nhau. Tuỳ thuộc vào từng hoàn
cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi một quốc gia lựa chọn cho mình một


18
hình thức phù hợp để pháp điển hóa thành các quy định của pháp luật điều

chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng. Đến lượt mình các quy định này của pháp
luật cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, thể
hiện ý chí của nhà nước và bản chất của xã hội đó đôi với vấn đề hôn nhân
và gia đình trong đó có vấn đề tài sản vợ chồng.
1.2. Một số trƣờng hợp đầu tƣ sản xuất kinh doanh của vợ chồng
Có thể nói rằng chỉ từ khi Hiến pháp 1992 chính thức ghi nhận chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nền
tảng là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng thì nguồn lực trong nước mới có điều kiện để phát huy
được sức mạnh tiềm tàng của mình vào quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế. Sự ghi nhận tại Điều 57 Hiến pháp 1992 “Công dân có quyền tự do
kinh doanh theo quy định của pháp luật” là cơ sở pháp lý vững chắc để
mỗi cặp vợ chồng nói riêng tiến hành đầu tư kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận
để duy trì và cải thiện đời sống gia đình. Để cụ thể hoá quy định này của
Hiến pháp 1992, các văn bản quy phạm pháp luật khác đã được xây dựng
và ban hành và hệ quả là rất nhiều mô hình kinh tế ra đời đã thu hút lượng
vốn đầu tư lớn trong dân. Chỉ tính trong năm 2000, năm ban hành Luật
Doanh nghiệp, đã có hơn 14.400 doanh nghiệp thành lập mới (gấp 2,5 lần
so với năm 1999). Trong đó đáng lưu ý là khoảng 50 công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, 726 công ty cổ phần, hơn 5000 chi nhánh, văn
phòng đại diện của các doanh nghiệp được thành lập, hơn 4000 doanh
nghiệp đăng ký bổ sung thêm vốn, khoảng 8000 doanh nghiệp đăng ký bổ
sung thêm ngành nghề kinh doanh và hơn 150 hộ kinh doanh cá thể. Tổng
số vốn đăng ký của các doanh nghiệp mới thành lập và các hộ kinh doanh
cá thể đạt khoảng 24.000 tỷ đồng. Tính đến tháng 7 năm 2003, sau gần 4
năm thi hành Luật Doanh nghiệp, cả nước đã có hơn 70.500 doanh nghiệp


19
đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký là 145.000 tỷ đồng. Ngoài ra còn

có 150.000 chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng 800.000 hộ kinh
doanh cá thể, đưa tổng số hộ kinh doanh cá thể trong cả nước lên khoảng
2,5 triệu hộ.
Sự tăng nhanh về số lượng của các mô hình kinh tế đã tận dụng và phát
huy được sức mạnh toàn dân vào sự nghiệp phát triển kinh tế, trong đó sự
tham gia của mỗi gia đình mà hạt nhân là mỗi cặp vợ chồng vào quá trình
này là hết sức năng động. Tuy nhiên do áp dụng cơ chế quản lý kinh tế mới
trong một thời gian chưa lâu nên trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh với sự tham gia
của vợ, chồng nói riêng, chúng ta vẫn thiếu một hệ thống pháp luật đầy đủ,
thống nhất và phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, yêu cầu đối với
một hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề này đáp ứng những tiêu chí trên
sẽ tạo ra một hành lang pháp lý trong việc sử dụng tài sản của vợ chồng đầu
tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo thu nhập, ổn định và nâng cao đời
sống chung của gia đình, đồng thời cũng góp phần vào việc ổn định các
quan hệ xã hội.
Theo quy định hiện hành của pháp luật, có một số hình thức sản xuất,
kinh doanh mà vợ chồng có thể lựa chọn đầu tư bao gồm:
- Kinh tế hộ gia đình trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ
công nghiệp…rất phổ biến ở khu vực nông thôn; hộ kinh doanh cá thể phổ
biến ở khu vực đô thị;
- Thành lập các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau theo quy định của pháp luật;
- Tham gia thị trường chứng khoán, tiến hành đầu tư vào trái phiếu, cổ
phiếu và các giấy tờ có giá khác;
- Tham gia các dạng hợp đồng như mua bán, cho thuê tài sản … để tìm
kiếm lợi nhuận. Trong luận văn này chỉ đề cập tới hình thức đầu tư trực tiếp


20

vào hoạt động sản xuất kinh doanh bằng việc thành lập, góp vốn vào các tổ
chức kinh tế.
Mặc dù hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mà vợ chồng có thể lựa
chọn theo quy định của pháp luật là rất đa dạng, tuy nhiên phù thuộc vào
điều kiện thực tế của mình mà vợ chồng có thể tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh theo một trong những phương thức sau:
1.2.1. Vợ chồng cùng tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh.
Đây là trường hợp mà cả hai vợ chồng cùng có nhu cầu tiến hành đầu
tư sản xuất kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, duy trì và cải thiện đời sống
chung. Phương thức đầu tư mà vợ chồng lựa chọn đó là cả hai vợ chồng
cùng tiến hành đầu tư chung vào cùng một mô hình tổ chức kinh tế. Điều
kiện để cả hai vợ chồng cùng tiến hành đầu tư kinh doanh chung đó là
không có bên nào thuộc diện bị cấm thực hiện việc thành lập và quản lý
doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật, nếu thuộc một trong những đối
tượng sau đây, vợ, chồng sẽ không được tiến hành thành lập, quản lý doanh
nghiệp thuộc các loại hình doanh nghiệp quy định tại Luật Doanh nghiệp:
-

Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân;

-

Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà
nước, trừ những người được cử làm đại diện để quản lý phần vốn
góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;

-


Bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự;

-

Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp
hành hình phạt tù hoặc bị Toà án tước quyền hành nghề vì vi phạm
các tội buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái


21
phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định
của pháp luật;
-

Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh, Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội
đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được
làm người quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ một đến ba
năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản trừ trường hợp
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản vì lý do bất khả kháng (Điều 9
Luật Doanh nghiệp năm 2000);

-

Cán bộ công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc
tham gia quản lý, điều hành các doanh ngiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác
xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư

(Điều 17 Pháp lệnh Cán bộ công chức1998, Điều 1 khoản 1 Pháp
lệnh năm 2000 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ,
công chức năm 1998).

Đối với việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản phát sinh từ hoạt động sản
xuất kinh doanh chung của vợ chồng, theo quy định tại Điều 280 Bộ luật
dân sự năm 2005 thì “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều
chỉ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có
giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Hiểu một cách cụ thể hơn
nghĩa vụ tài sản của vợ chồng phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh là
việc vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng là người có nghĩa vụ phải thanh toán
khoản nợ cho hoạt động đó. Trong trường hợp vợ chồng tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh chung theo mô hình kinh tế hộ gia đình, hộ kinh
doanh cá thể thì họ phải chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung; nếu tài


22
sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các phải chịu
trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Trong trường hợp vợ
chồng thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì họ
phải chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi vốn góp của họ vào doanh
nghiệp được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
1.2.2. Vợ, chồng kinh doanh
Sẽ có một số trường hợp khác nhau nếu vợ, chồng tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Thứ nhất, trường hợp chỉ có một bên vợ hoặc chồng tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh. Có những cặp vợ chồng mà xuất phát từ điều
kiện thực tế của gia đình, họ quyết định chỉ cần một bên tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh, một bên tham gia các quan hệ lao động hoặc ở

nhà chăm sóc con cái, chăm lo công việc hằng ngày của gia đình. Cũng có
thể họ thuộc đối tượng không được phép thành lập doanh nghiệp như đã kể
trên.
Có thể xảy ra một số trường hợp khi chỉ có một bên vợ, chồng tiến hành
hoạt động sản xuất, kinh doanh riêng. Có thể đó là việc hai bên thoả thuận
để cho một bên vợ hoặc chồng tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng cũng
có thể họ sẽ chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại
khoản Điều 29 Luật HNGĐ năm 2000, cũng có thể là hoạt động kinh doanh
do một bên thực hiện diễn ra trước khi hai bên xác lập quan hệ hôn nhân.
Việc phân biệt này rất có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm về tài sản
từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu họ đã chia tài sản chung để một bên
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh riêng hoặc hoạt động kinh doanh
này diễn ra trước khi hai bên xác lập quan hệ vợ chông thì về mặt nguyên
tắc, những rủi ro, trách nhiệm về tài sản phát sinh từ hoạt động sản xuất
kinh doanh riêng đó được coi là nghĩa vụ riêng về tài sản và sẽ được bảo


23
đảm thực hiện bằng tài sản riêng của bên đó. Nếu họ bàn bạc thoả thuận
dùng tài sản chung để cho một bên tiến hành hoạt động kinh doanh thì
chúng ta nên coi đây là hoạt động kinh doanh chung của cả hai vợ. Do vậy
lúc này trách nhiệm về tài sản phát sinh phải được xác định là nghĩa vụ
chung của cả hai vợ chồng và phải được bảo đảm thực hiện bằng nguồn tài
sản chung theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật HNGĐ năm 2000.
Thứ hai, trường hợp vợ, chồng cùng tham gia thành lập và quản lý hai
doanh nghiệp khác nhau. Có thể hai vợ chồng thoả thuận chia tài sản chung
để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ
năm 2000 và nghĩa vụ phát sinh trong trường hợp này sẽ được bảo đảm
bằng nguồn tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên cũng có thể vợ chồng thoả
thuận dùng tài sản chung để thành lập hai doanh nghiệp khác nhau và mỗi

người sẽ quản lý một cơ sở tuỳ thuộc vào ngành nghề và lĩnh vực kinh
doanh cũng như tuỳ thuộc vào trình độ chuyên môn của mỗi bên. Lúc này
nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động kinh doanh sẽ được bảo đảm thực hiện
bằng tài sản chung hay tài sản riêng thì vẫn còn có những quan điểm khác
nhau
1.3. Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một yếu tố không thể thiếu được
đó là nguồn vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào hình thức tổ chức, quy mô của từng
loại hình … và lượng vốn đầu tư mà vợ chồng huy động vào hoạt động
kinh doanh là khác nhau. Vợ chồng có thể huy động một số lượng tài sản từ
các nguồn sau đây để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh
1.3.1. Tài sản riêng của vợ chồng
Tại Điều 57 Hiến pháp 1992, Điều 50 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS
2005) ghi nhận quyền tự do kinh doanh của cá nhân. Để có thể thực hiện


24
việc kinh doanh vợ, chồng phải có một lượng tài sản riêng nhất định để
đầu tư. Điều này cũng đã được chính thức ghi nhận tại Điều 58 Hiến pháp
1992.
Điều 32 Luật HNGĐ năm 2000 quy định căn cứ xác lập tài sản riêng
của vợ, chồng bao gồm “tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ chồng trong trường hợp chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân; đồ dùng tư trang cá nhân”. Theo quy định này thì có thể
xác định tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm:
- Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn. Tài sản riêng này có thể là
thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi người tạo
ra. Tài sản riêng này cũng có thể do vợ, chồng được tặng cho, thừa kế;
- Tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;

- Tài sản được chia riêng cho mỗi bên trong trường hợp tiến hành chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia đó, thu nhập có được sau khi chia tài sản
chung;
-

Đồ dùng, tư trang cá nhân.

Nguồn tài sản riêng này có thể được vợ, chồng sử dụng để đầu tư kinh
riêng hoặc cũng có thể tự nguyện dùng tài sản này để gia vào hoạt động
kinh doanh chung của cả hai vợ chồng. Vợ chồng có toàn quyền trong việc
nắm giữ, quản lý tài sản riêng, khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản
riêng cũng như định đoạt số phận tài sản riêng của mình không phụ thuộc
vào ý chí của bên kia. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng
không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ. Tài sản riêng của vợ,
chồng dùng để thanh toán những nghĩa vụ riêng về tài sản của người đó
(Điều 33 Luật HNGĐ năm 2000).


×