Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN CHUYÊN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG KÌ THI CHUYÊN VIÊN CHÍNH , THANH TRA VIÊN CHÍNH , CHUYÊN VIÊN CAO CẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.34 KB, 24 trang )

CHUYÊN ĐỀ 1. VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Câu 1. Quyền lực chính trị là gì? Tại sao nói quyền lực nhà nước là bộ phận
quan trọng nhất của quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập
đoàn xã hội để đạt được mục đích thống trị xã hội.
Quyền lực NN là bộ phận quan trọng nhất của QLCT bởi vì:
- Bản chất QLNN là quyền lực của giai cấp thống trị (QLNN là QLCT của giai cấp
cầm quyền được tổ chức thành NN).
- QLNN có tính đặc thù ở chỗ nó gắn với bộ máy và phương tiện cưỡng chế thi
hành như CQHC, thủ tục pháp lý, lực lượng vũ trang…
QLNN là một bộ phận của QLCT, QLNN có đầy đủ các đặc trưng của QLCT.
- QLNN được thực hiện bằng hệ thống bộ máy nhà nước.
- Khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện, lực lượng Nhà nước để buộc các
giai cấp, tầng lớp XH khác phải phục tùng ý chí của giai cấp, tầng lớp thống trị.
- Là bộ phận quan trọng nhất của QLCT, tạo nên sự thay đổi của QLNN (chính
quyền thuộc về giai cấp, tầng lớp nào) sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản tính chất của
quyền lực chính trị, phương thức cầm quyền và chế độ chính trị.
- Quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của QLCT.Việc chuyển quyền
lực nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác sẽ làm thay đổi bản chất
của chế độ chính trị.
- Mọi dạng quyền lực nhà nước đều mang tính chính trị nhưng không phải mọi
quyền lực chính trị đều có tính chất của quyền lực nhà nước. So với quyền lực NN,
quyền lực CT rộng hơn, đa dạng hơn về phương pháp thực hiện cũng như hình
thức biểu hiện.
- QLNN trong xã hội hiện đại bao gồm 3 nhánh chủ yếu là quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Câu 2. Phân tích cơ chế “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”
Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo một nguyên
tắc nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất vốn có của nó.
Sự vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là bảo


đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ XHCN, làm cho mọi quyền lực
xã hội đều thuộc về nhân dân.
1


Đảng lãnh đạo – yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có hiệu quả.
Vai trò lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà
được. Vai trò đó đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhân dân Việt Nam thừa nhận, tin tưởng trao cho Đảng
vai trò lãnh đạo toàn xã hội và dân tộc.
Nhà nước quản lý – yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận hành cơ
chế. Nhà nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề đặt ra là, làm thế
nào để bảo đảm và phát huy vai trò quản lý của nhà nước trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền?
Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ:
quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân.
Cương lĩnh năm 1991 do Đại hội VII của Đảng thông qua đã khẳng định bản chất,
nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ. Về mối quan hệ của Đảng với xã hội (trong đó có Nhà nước) và nhân dân,
Cương lĩnh chỉ rõ:” Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên,
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào các hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoànt hể. Đảng không làm
thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong

khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
+ Về mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, Cương lĩnh xác định: Là tổ chức
thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước
ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi
mặt đời sống xã hội bằng pháp luật.
Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Qua các văn kiện của Đảng, costheer đưa ra quan điểm về nội dung moisquan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ như sau: Đảng lãnh đạo
Nhà nước và xã hôi bằng chủ trương, đường lối và mục tiêu chính trị của mình,
2


trong đó mục tiêu chính trị cao nhất của Đảng là vì lợi ích của nhân dân, do vậy
Đảng được nhân dân suy tôn, ủy thác quyền lãnh đạo xã hội. Để cụ thể hóa, thực
thi đường lối chính trị, Đảng cần có bộ máy nhà nước do Đảng lãnh đạo, cử cán
bộ, đảng viên để bầu vào các vị trí lãnh đạo.Nhân dân làm chủ thông qua đại diện
của mình (do Đảng giới thiệu để nhân dân lựa chọn, bầu ra) bằng hệ thống luật
pháp.Về phần mình, nhân dân có nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn ở chỗ tham gia
xây dựng luật pháp; thực hiện và giám sát các tổ chức, cá nhân của Đảng, Nhà
nước thực hiện các quy định của luật pháp. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, làm chủ của nhân dân, xét cho cùng là hiệu quả thực hiện ý
chí, nguyện vọng của Đảng và nhân dân../.
Câu 3: Phân tích vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị (HTCT)? Tại
sao nói nhà nước là trung tâm của HTCT.
Nhà nước là tổ chức quan trọng nhất trong việc thực thi quyền lực chính trị của
giai cấp cầm quyền, bằng hệ thống luật pháp buộc mọi người phải tuân thủ; đồng
thời còn những tổ chức cưỡng chế đặc biệt như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…
để bảo đảm thực hiện.
Trong hệ thống chính trị ,nhà nước giữ vai trò quản lý chủ yếu, thông qua việc ban

hành hệ thống pháp luật và thực thi hệ thống đó trong xã hội nhà nước hiện thực
hóa đường lối phát triển của đảng cầm quyền đã được pháp lý hóa trong hệ thống
pháp luật, đồng thời nhà nước trong một quốc gia còn là chủ thể duy nhất của công
pháp quốc tế.
Nhà nước Cộng hòa XHCNVN là trụ cột của hệ thống chính trị nước ta, là công cụ
tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Nhà nước
là phương tiện quan trọng nhất của nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nhà nước trong HTCT có chức năng thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng
thành các quy định pháp luật trong Hiến pháp và các quy định pháp luật khác và
thực hiền quyền quản lý đất nước. Hoạt động của nhà nước nằm dưới sự lãnh đạo
của Đảng nhưng có tính độc lập tương đối, với các công cụ và phương thức quản
lý riêng của mình.
Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị bởi vì:
Nhà nước là đại diện chính thức cho mọi giai cấp và các tầng lớp nhân dân trong
xã hội. Nhà nước là tổ chức công quyền, là chủ thể của quyền lực chính trị.

3


Nhà nước quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội và có
những phương tiện và công cụ để duy trì trật tự xã hội ổn định.
Nhà nước CHXHCNVN sử dụng pháp luật và thông qua pháp luật để quản lý xã
hội, thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nhà nước CHXHCNVN là tổ chức chính trị mang chủ quyền quốc gia; là tổ chức
duy nhất được coi là chủ thể của công ước quốc tế.
Nhà nước CNXHCNVN là chủ sở hưu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của xã
hội, thông qua đó nhà nước điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Câu 4. Phân tích cách thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước và cho biết
mối quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền lập pháp và quyền tư pháp?

“ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
Đây vừa là quan điểm vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị.

 Về quyền lực nhà nước là thống nhất.
Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Cho đến nay, các khía cạnh của vấn đề quyền lực NN là thống nhất như: thế nào là
thống nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực NN thống nhất ở đâu? Ý ngĩa của
quyền lực NN là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như
thế nào? Các khía cạnh này chưa được nhận thức thống nhất. Có một số người cho
rằng, quyền lực NN là thống nhất nhưng sự thống nhất đó tập trung vào Quốc hội.
Do vật Quốc hội được Hiến pháp xác nhận là cơ quan quyền lực NN cao nhất. Và
với vị trí pháp lý đó, những người này cho rằng Quốc họi là cơ quan có qoàn
quyền, là cơ quan cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Một số khác lại
cho rằng, trong nhà nước kiểu mới như nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của một Đảng, ngày càng thống nhất về lợi ích, trong
nội bộ không có sự phân chia thành phe phái đối lập như trong nhà nước tư sản,
nên thống nhất quyền lực nhà nước là yếu tố cơ bản, duy nhất giữ vai trò quyết
định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà không cần thiết phải
phân công quyền lực nhà nước. Quan niệm này đề cao tính thống nhất của quyền
lực nhà nước, phủ nhận, xem thường hoặc hạ thấp vai trò phân công, phân nhiệm
rành mạch quyền lực nhà nước.Thực chất quan niệm này cũng không khác gì quan
điểm nói trên.
4


Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà nước
thống nhất là ở Nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực nhà nước là ở Nhân

dân thể hiện ở nguyên tắc “tất cả quyền lực NN thuộc về Nhân dân”. Trước đây,
Hiến pháp cũng quy định “Tất cả quyền lực Nn thuộc về nhân dân” nhưng được
thực hiện bằng nguyên tắc tập trung quyền lực NN (tập quyền). Do đó, tất cả quyền
lực NN thuộc về nhân dân nhưng lại tập trung vào Quốc hội, như quan niệm nói
trên. Với nhân thức rằng, Nhân dân là chủ thể của quyền lực NN nhưng vì không
thực hiện được quyền lực NN một cách trực tiếp nên đã trao toàn bộ quyền lực NN
của mình cho Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp năm 1980 xác định là cơ quan
có toàn quyền. Ngoài 15 nhiệm vụ và quyền hạn quy định ở Điều 83, Hiến pháp
1980 còn quy định “ Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn
khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 83) đến Hiến pháp năm 1992, Điều 84 quy định
Quốc hội chỉ có 14 nhiệm vụ quyền hạn (không còn là một Quốc hội toàn quyền
như Hiến pháp năm 1980), nhưng Điều 6 Hiến pháp lại quy định :” Nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguện vọng cuarNhaan dân…” . Như vậy, Quốc hội vẫn
là Quốc hội toàn quyền trong Hiến pháp năm 1992 bời Nhân dân không thực hiện
quyền lực Nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp mà chỉ bằng hình thức
daanchur đại diện. Nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước của Nhân dân vào
Quốc hội phù hợp với điều kiện kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp,
với ưu điểm bảo đảm cho quyền lực nhà nước tập trung, quyết định và thực thi
quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong
điều kiện mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là thiếu sự phân định phạm vi quyền lực
nhà nước được nhân dân giao quyền nân không đề cao được trách nhiệm của các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, hạ thấp vai trò daanchur trực tiếp của nhân
dân, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước. Hơn nữa,
nguyên tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các quyền nên đã hạn chế tính
năng động, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân dân và xã hội không cơ
sở để đánh giá chất lượng hoạt động của quyền lực nhà nước. Do vậy, trong điều
kiện dân chủ và pháp quyền XHCN, tập quyền không phù hợp với việc phát huy
đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tiềm ẩn nguy cơ lạm
dụng quyền lực NN của Nhân dân từ phía các cơ quan nhà nước.

Nhận rõ hạn chế của nguyên tắc tập quyền trong điều kiện mới, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm 2011), Hiến pháp
năm 2013 đã khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp (Điều 2). Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân được Hiến
5


pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, Nhân dân
thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho
Chính phủ và cho cơ quan tư pháp như các Hiến pháp trước đây. Theo điều 70
Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và
nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về
giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyếtđịnh các vấn đề quan trọng của
đất nước. Đồng thời Điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực
hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, trong đó có trưng cầu
ý dân về Hiến pháp (điều 29 và điều 120) có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mới đúng, mới bảo đảm thực hiện đầy đủ, không hình
thức. Như vật, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân dân, chứ không phải tập
trung ở Quốc hội. Quan niệm đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước
hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực NN dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư
pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân dân, đều do Nhân dân ủy
quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự
thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau
nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà
nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân

dân, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh “ như Điều 3 Hiến pháp mới đã quy định.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên của Hiến pháp năm
2013 là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách hiệm của nhà nước
trước Nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và
nhiệm vụ mà Nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các
yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất
là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để
hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là
Nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở Nhân dân, chủ thể tối
cao và quy nhất của quyền lực NN là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền
lực NN trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
6


vì dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực NN thuộc về Nhân dân theo
Hiến Pháp năm 2013 đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
 Về phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN thì quyền lực nhà nước không phải
là quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được Nhân dân ủy quyền, Nhân dân
giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát
quyền lực Nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho nhà nước, quyền lực nhà nước
lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thanh đối lập của chính
mình lúc ban đầu ( từ của Nhân dân là số đông chuyển thành số ít của một nhóm
người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực
nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà
nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con người thì

luôn” luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với các
hành động của con người.” Điều cũng khiến cho lí tính đôi bị chìm khuất[1]. Đặc
biệt là khi lí tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng
sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm đó của con
người, không thể khẳng người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những
gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy kiểm soát quyền lực NN là một nhu cầu khách
quan từ phía người ủy quyền đối với người được ủy quyền. Hơn thế nữa, quyền lực
nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm được một cách
rạch ròi, vì nó là một thể thống nhất như nói ở trên. Điều đó lại càng đỏi hỏi phải
kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà
nước được Nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường
được lượng hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền
hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao
cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt Nhân dân thực hiện. Sự phânđịnh
các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để Nhân dân giao quyền mà không bị lamh
quyền, Nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực, hiệu quả thực hiện các
quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được
giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực NN và tự kiểm tra
việc thực hiện quyền lực NN được giao cho mình. Theo đó, trong Hiến pháp năm
2013 đã có một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực NN. Lần đầu tiên
trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (không còn là
duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (điều 69),
7


CHính phủ thực hiện quyền hành pháp (điều 94), Tòa án Nhân dân thực hiện quyền
tư pháp (điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp là một thay đổi quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí,
vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi quyền.

Đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho Nhân dân thể hiện ý chí chung
của quốc gia. Những người được Nhân dân trao cho quyền này là những người do
phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản,
xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho Nhân dân, bảo đảm cho ý
chí chung của Nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy
nhất được Nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông
qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho
xã hội. Vì vậy, quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm ra luật. Đồng thời,
là người thay mặt Nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, nhất là
hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các quyền mà Nhân
dân giao cho các cơ quan nhà nước không bị lạm quyền, lộng quyền hay bị tha hóa.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy
định ở Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp năm 2013.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do
Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này
là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và sau khi chính sách
quốc gia được thông qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà thực
chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã
hội. Không có một Chính phủ thực hiện quyền hành pháp một cách hữu hiệu,
thông minh; không thể có một nhà nước giầu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh
tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của
Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp được
quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp năm 2013.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được Nhân dân giao cho tòa án thực hiện.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất
trong tổ chức thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can
thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm Nhân dân (khoản 2 Điều 103).
Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành
vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ hàng đầu của
quyền tư pháp (khoản 3 Điều 102). Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ
8


tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của
Tòa án.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định
thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định
rành mạch ba quyền đó ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực nhà
nước. Bời vì, xã hội càng phát triển, phân công lao động càng phải chuyên môn
hóa cao để phát huy hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta chỉ ra rằng việc phân định mạch lạc ba quyền là cách thức tốt
nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống
nhất. Đó là sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung.Vì vậy, việc phân định quyền
lực nhà nước không chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung
của quyền lực nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau mà “ràng
buộc lẫn nhau”, cả ba quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách
nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhân dân giao
cho mỗi quyền được Hiến pháp – Đạo luật gốc của nhà nước và xã hội quy định.
Mục đích của việc phân công quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm soát quyền lực
nhà nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của nhà nước và phát huy dân chủ XHCN,
chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực nhà nước giữa các quyền.
Thực tiễn chỉ ra rằng sức mạnh và sự thịnh vượng của một quốc gia, cũng như khả
năng đối mặt với những khó khăn, thách thức phần lớn được quyết định bởi sự
vững mạnh của các thiết chế, cam kết của các nhánh quyền lực nhà nước với Nhân
dân về tính pháp quyền.

Điều đó không kém phần quan trọng so với các yếu tố về tài nguyên thiên
nhiên, khí hậu hoặc vị trí địa lý của quốc gia. Những nước duy trì được sự phát
triển ổn định lâu dài về kinh tế xã hội và chính trị là những nước tuân theo tinh
thần của pháp quyền. Ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân
định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để nhà nước
hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền
lực của Nhân dân, tính pháp quyền của nhà nước ngày càng được đề cao. Nội dung
và tinh thần của các quy định về việc phân công nhiệm vụ quyền hạn cho Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân nhìn chung đáp ứng các yêu cầu nói trên và là cơ
sở để tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước.

9


Về kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài việc phân công mạch lạc nhiệm vụ
quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp năm
2013 còn tạo lập cơ sở Hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật
định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân, các cơ
quan khác của nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.Như vậy, Hiếp pháp lần
này tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của
Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây
dựng một có chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Rồi đây, Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân chắc chắn sẽ
được sửa đổi bổ sung để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong
việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền
mềm dẻo thì kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp.Để tăng
cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung,

điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội, ví dụ như: Ủy ban thường vụ Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ; Quyết
định, thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính dưới
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8 điều 74). Quốc hội được bổ sung
thêm nhiệm vụ quyền hạn: phê chuẩn, đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Cùng với điều đó,Hiến
pháp năm 2013 đã thiết lập thêm hai thiết chế độc lập: Hội đồng bầu cử quốc gia
có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu
Hội đồng Nhân dân các cấp (Điều 117) và Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ giúp
Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118). Sự ra
đời các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường các công cụ để Nhân
dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính ngân sách
nhà nước và tài sản công một cách hiệu quả hơn.
Câu 5. Nêu về tính cấp bách phải đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị ở nước ta? Những thuận lợi và nguy cơ của đảng cầm quyền?
 Nêu tính cấp bách:
- Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN do đó phải có
HTCT phù hợp, mục tiêu đưa nước ta thành nước CNPT đến năm 2020;
- Khắc phục yếu kèm: cồng kềnh, nhiều trung gia, chất lượng hiệu quả thấp,
quan liêu, lãng phí, tham nhũng… nhằm lập lại kỷ cương;
10


- Các thế lực phản động, thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hòa
bình, bạo loạn nhằm lật đổ, đôie mới nhằm thêm sức mạnh của đảng ta.
 Làm rõ 4 nguy cơ: Tụt hậu, Chệch đường lói; tham nhũng, quan liêu, lãng
phí; Diễn biến hòa bình của thế lực thù địch.
Tham khảo
Đổi mới và kiện toàn tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một yêu cầu bức
xúc do chính thực tiễn đặt ra và vì thế, nó được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự

nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Nhận thức sâu sắc ý nghĩa quan trọng của nhiệm vụ này,
trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng,
chúng ta cần phải tiếp tục cải tiến bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể thuộc hệ thống
chính trị theo hướng tinh giản và nâng cao hiệu quả; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ
giữa các tổ chức, kiện toàn các cấp uỷ đảng, giải quyết các mối quan hệ và nâng cao chất lượng hoạt
động của các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Đảng uỷ khối và Đảng uỷ cơ quan. Thực tiễn
của đất nước trong những năm qua cho thấy, sự vững mạnh và hoạt động có hiệu quả của hệ thống
chính trị là yếu tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong chặng đường 20 năm đổi mới vừa qua, hệ thống chính trị của đất nước đã có những bước chuyển
biến quan trọng. Vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được
khẳng định, giữ vững và ngày càng nâng cao. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân đang được chúng ta tiến hành một cách chủ động, tự giác và thận trọng. Các
tổ chức, đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị nước ta được củng cố một bước quan trọng, đổi mới cả
về nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội được tôn trọng, phát huy và thực hiện ngày càng đầy đủ hơn.
Tuy nhiên, việc tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị vẫn là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết để phát
huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay.
Thực tế cho thấy, hệ thống chính trị của nước ta hiện còn nhiều vần đề cần được khắc phục, giải quyết.
Nhìn chung, cơ cấu bộ máy của Đảng và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở các cấp hiện còn khá
cồng kềnh, đầu mối tổ chức và biên chế ngày càng tăng. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số
cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được quy định rõ ràng, chưa được thực hiện đầy đủ, đôi
khi còn chồng chéo, trùng lặp và phân tán. Chức năng, nhiệm vụ quy định cho bộ, ngành này nhưng lại
do bộ, ngành khác thực hiện. Có chức năng, nhiệm vụ do một số bộ, ngành và uỷ ban nhân dân địa
phương cùng thực hiện nhưng lại chưa có cơ quan nào đứng ra chủ trì và chịu trách nhiệm chính.
Chất lượng của các hoạt động nghiên cứu, thẩm định, hướng dẫn, kiểm tra… của các cơ quan tham
mưu còn có những hạn chế nhất định. Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các ngành Trung ương và các địa
phương còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Một số tổ chức chính trị - xã hội vẫn
chưa khắc phục được phương thức hoạt động cũ, mang tính hành chính hoá trước đây; chưa phát huy

vai trò và hoàn thành tốt chức năng vận động, tổ chức và hướng dẫn quần chúng nhân dân trong việc
thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ
đến tính hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của
đời sống xã hội.
Đội ngũ cán bộ hiện nay, xét cả về chất lượng và số lượng, chưa ngang tầm với những yêu cầu mới,
ngày càng cao của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập với thế
giới; đặc biệt, một số nơi có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ (nhiều cán bộ yếu kém năng lực
chuyên môn, thiếu cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giỏi). Trình độ tổ chức, quản lý của đội ngũ cán bộ
trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị còn thấp, không đồng bộ. Một số cán bộ có chức,
có quyền có biểu hiện tham vọng cá nhân cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, gia trưởng độc đoán, quan
liêu, ức hiếp nhân dân, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết

11


nội bộ nghiêm trọng. Những biểu hiện này đang có chiều hướng gia tăng, làm ảnh hưởng đến việc phát
huy vai trò lãnh đạo và tăng cường sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của
Nhà nước. Trước những biến động phức tạp trên thế giới và tình hình trong nước còn nhiều khó khăn,
cũng như do sự nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, một bộ phận
cán bộ, đảng viên có biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, hoài nghi đối với đường lối, chủ trương,
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Tư tưởng chạy theo đồng tiền, tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức, lối
sống… ảnh hưởng đến uy tín và sức chiến đấu của Đảng, đến năng lực và hiệu quả hoạt động của các
tổ chức trong hệ thống chính trị.
Tóm lại, những yếu kém, khuyết điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, như nhận định của
Đảng trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX đã chỉ ra, là: việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; cải cách hành chính tiến hành chậm,
thiếu kiên quyết và hiệu quả thấp. Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có
nhiều yếu kém, bất cập(1). Sự phối hợp giữa các tổ chức bộ máy, các cơ quan chưa thật chặt chẽ. Vì
vậy, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hoá xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo được

động lực mạnh để phát triển. Việc thực hiện cải cách hành chính còn chậm.
Những yếu kém đó hiện đang cản trở, gây khó khăn cho việc thực hiện đổi mới toàn diện đất nước.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, xét cả trên
phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, là một đòi hỏi mang tính tất yếu, khách quan. Tính tất
yếu đó được quy định bởi:
Thứ nhất, sự biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta phải có những đổi mới
hệ thống chính trị cho phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu và nhiệm vụ mới. Như chúng ta đã biết, sự sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Âu trước đây bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, có nguyên nhân do sự xơ cứng, máy
móc, thiếu linh hoạt của hệ thống chính trị, trước hết là vai trò của Đảng Cộng sản với tư cách đảng
cầm quyền. Chính điều này đã làm giảm hiệu quả hoạt động và sức chiến đấu của hệ thống chính trị
tại các nước này, và cuối cùng, khi cuộc “cách mạng nhung lụa” được các thế lực thù địch đẩy đến
“điểm nút”, đã nhanh chóng dẫn đến sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế, hội nhập quốc tế trở thành một xu thế chung và đặc biệt, các thế lực thù địch ngày càng
đẩy mạnh chiến lược diễn biến hoà bình hướng vào phong trào cách mạng thế giới, trước hết là nhằm
chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng ta phải có sự đổi mới để tăng cường năng lực cũng
như hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng
mới.
Thứ hai, việc đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh
tế, chỉ có thể được thực hiện và dựa trên cơ sở vững chắc khi có sự đổi mới tương ứng của hệ thống
chính trị. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước cùng với những tác động tích cực của quá
trình hội nhập quốc tế và sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ,… là tiền đề quan trọng
góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trong lĩnh vực phát triển kinh tế của đất nước trong thời gian
qua. Tuy nhiên, những kết quả quan trọng đó chỉ thực sự được tiếp tục phát huy và ngày càng trở nên
bền vững khi có sự đổi mới tương ứng của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh
đạo, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Đảng Cộng sản với tư cách Đảng cầm quyền.
Thứ ba, đổi mới còn là một nhu cầu tự thân của của hệ thống chính trị. Thực tiễn luôn vận động và
phát triển không ngừng. Do vậy, chúng ta không thể duy trì mãi mô hình, phương thức hoạt động cũ
của hệ thống chính trị trong khi điều kiện kinh tế - xã hội và những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng

trong tình hình mới đã phát triển lên một bước cao hơn; trình độ dân trí cũng cao hơn. Nói cách khác,
để hệ thống chính trị luôn theo kịp sự vận động, phát triển của cuộc sống, phát huy vai trò hướng dẫn,
định hướng sự phát triển xã hội đi đúng quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các quy luật khách
quan, đương nhiên, hệ thống chính trị cũng phải luôn có sự phát triển, đổi mới.
Thứ tư, đổi mới hệ thống chính trị còn là yêu cầu khách quan nhằm tăng cư ờng vai trò lãnh đạo của
Đảng, phát huy hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước vừa xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã

12


chỉ rõ: chúng ta hiện đang phải đối mặt với các nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra. Cả bốn nguy
cơ đang tồn tại đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Song, có thể nói, nguy cơ
tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng, là một thứ “giặc nội xâm” nguy hiểm mà trước đây Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng cảnh báo. Vì vậy, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó có đổi mới phương thức lãnh đạo và
chỉnh đốn Đảng là một yêu cầu đặc biệt quan trọng. Việc giải quyết nhiệm vụ này có ảnh hưởng quyết
định đến sự nghiệp đổi mới nói riêng, đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung của Đảng và
nhân dân ta.
Việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về tổ chức bộ máy (con người, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt).
- Đổi mới về cơ chế hoạt động.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
- Đổi mới các chính sách đối với đội ngũ công quyền và các chính sách xã hội phù hợp.
Đổi mới hệ thống chính trị là một yêu cầu cấp thiết, được đặt ra từ chính nhu cầu phát triển của đất
nước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, để đảm bảo sự vững chắc, tính hiệu quả và không xa rời định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, khẳng định ngay từ
khi mới thành lập Đảng, việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới cần phải được
thực hiện dựa trên một số nguyên tắc sau:

1/ Việc đổi mới, kiện toàn bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ mới phải xuất phát từ các
quan điểm chủ đạo của Đảng về hệ thống chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh chính trị (1991)
và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương. Tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị vừa phải kế thừa những
kinh nghiệm đã đạt được, vừa phải thường xuyên được đổi mới và kiện toàn để theo kịp tiến trình đổi
mới, nhất quán và đồng bộ với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, bảo đảm yêu cầu giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia
trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực.
Về phạm vi tiến hành, việc đổi mới và kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị được thực hiện trong
toàn bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể; trong đó, đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy của
Đảng là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Đồng thời, phải chú trọng đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy
của Nhà nước, kể cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng như của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể khác. Đây là vấn đề rộng lớn, đòi hỏi nhiều công sức nhất và có ảnh hưởng trực tiếp đối với
việc thực hiện các chính sách, cơ chế quản lý mới về kinh tế, xã hội. Việc đổi mới hệ thống chính trị
một cách có hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
2/ Đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị phải đảm bảo mục tiêu và nội dung của
nhiệm vụ chính trị.
Sự ổn định về chính trị cũng như sự vững chắc và hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị là điều
kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên con đường phát triển của đất nước. Vì thế, một vấn đề có tính nguyên tắc là, việc đổi mới,
kiện toàn hệ thống chính trị phải bảo đảm các mục tiêu và nội dung chính trị mà Đảng ta đã xác định.
Mục tiêu tổng quát của việc đổi mới hệ thống chính trị là bảo đảm giữ vững và không ngừng tăng cư ờng vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nư ớc; mở
rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu cụ thể của quá trình đổi mới trên lĩnh vực này là nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị theo yêu cầu của công cuộc đổi mới nói chung để đẩy mạnh
phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế quốc
gia trên trường quốc tế. Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng để từng bư ớc làm
trong sạch tổ chức, bộ máy các cơ quan Đảng; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, không ngừng nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc và


13


các tổ chức chính trị - xã hội khác cũng cần thường xuyên được đổi mới nhằm phát huy vai trò của toàn
bộ hệ thống chính trị.
3/ Việc đổi mới hệ thống chính trị phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và theo nguyên tắc thực
hiện đồng bộ, từng bước vững chắc.
Sau khi đất nước giành được độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền. Trong các
cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng luôn giữ
vững và phát huy vai trò lãnh đạo của mình trong hệ thống chính trị. Có thể khẳng định rằng, từ khi
thành lập đến nay, Đảng ta luôn trung thành và không ngừng đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trước những biến động nhanh chóng trên thế
giới và những khó khăn của đất nước, Đảng đã bình tĩnh, sáng suốt, chủ động đề ra và lãnh đạo toàn
dân thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh
quốc tế. Vì vậy, nguyên tắc quan trọng nhất trong quá trình thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là
phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng
định rằng, cần phải “tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách
lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”(2).
Với tư cách người lãnh đạo chân chính và duy nhất của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải nâng
cao năng lực lãnh đạo, tăng cường sức chiến đấu, thường xuyên chỉnh đốn và củng cố về mọi phương
diện. Đảng phải lựa chọn được những cán bộ thực sự có đức, có tài, thực sự “vừa hồng, vừa chuyên”
nắm giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế hoạt động phù hợp và hiệu
quả; bảo đảm kỷ cương, kỷ luật nghiêm minh.
Thực tiễn cho thấy, một đất nước sẽ không có được sự phát triển năng động, ổn định và liên tục, thậm
chí có thể rơi vào khủng hoảng, nếu hệ thống chính trị hoặc là tỏ ra xơ cứng, trì trệ, hoặc là có những
biểu hiện nóng vội, xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động. Bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn “cải tổ”, “cải cách” trước đây của các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô và
các nước Đông Âu đã chỉ ra rằng, “cải tổ”, “cải cách” sẽ mất phương hướng và phải trả giá nếu nóng

vội, chủ quan. Do đó, cùng với yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, việc đổi mới hệ thống chính trị
ở nước ta phải được thực hiện đồng bộ, từng bước và vững chắc, dựa trên những nguyên tắc mácxítlêninnít.
4/ Khi thực hiện đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị cần phải kết hợp chặt chẽ
những vấn đề sau đây:
Một là, coi trọng công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân nhận thức
rõ yêu cầu và mục tiêu của đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể trong hệ
thống chính trị. Tất cả mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần đặt lợi ích chung lên trên hết,
chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cá nhân chủ nghĩa và cục bộ địa phương; phải là người gương mẫu
trong công tác, lối sống, đạo đức,… Có như vậy, sự nghiệp đổi mới mới thực sự có hiệu quả và nhanh
chóng đi đến thành công.
Hai là, giải quyết thoả đáng về chế độ chính sách đối với những cán bộ thuộc diện tinh giản biên chế
hoặc thuyên chuyển công tác. Trong thực tế, chính sách khuyến khích cán bộ, viên chức trong các cơ
quan nhà nước đang còn nhiều bất cập. Cơ chế thị trường có tác động rất lớn tới đời sống, tư tưởng,
tình cảm và cả tinh thần làm việc của người công chức; trong khi chế độ tiền lương hiện hành chưa tạo
được động lực khuyến khích đa số công chức tận tâm làm việc, sẵn sàng thực hiện sự điều động, luân
chuyển công tác...
Ba là, phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự trong sạch, nghiêm túc chấp hành
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, thực sự có tinh thần trách nhiệm và tính sáng tạo
trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở mỗi cấp, mỗi ngành.
Không ngừng vận động, biến đổi - đó là quy luật bất biến trong quá trình phát triển của lịch sử. Trong
bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm làm cho hệ thống chính trị luôn theo
kịp và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống, của sự nghiệp cách mạng là
một quá trình tất yếu. Song, để đảm bảo phát huy vai trò của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đối
với công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc đổi mới hệ thống chính trị phải
tuân thủ những nguyên tắc mácxít-lêninnít.

14


Những nội dung chính trong đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị

ở nước ta
2/7/2015 14:34'Gửi bài nàyIn bài này

TCCSĐT - Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng
tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có
trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao, đó là mục tiêu đổi mới hệ thống
chính trị nước ta mà Đảng đã xác định.
Thực tế gần 30 năm qua cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị nước ta là một đòi hỏi khách quan
và đây là một chủ trương đúng của Đảng. Các nghị quyết của Đảng về đổi mới hệ thống chính
trị, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X “Về
đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28-52013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị từ trung ương đến cơ sở” đã được triển khai thực hiện nghiêm túc và thu được
những kết quả quan trọng bước đầu.
Để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc các
nghị quyết và kết luận của Trung ương Đảng về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là
Kết luận số 64-KL/TW, trong đó tập trung vào những nội dung chính sau:
Đối với Đảng
- Trong đổi mới hệ thống chính trị, phải giữ vững vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng đó là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di, bất dịch. Để bảo đảm được điều đó, phải làm tốt công tác
xây dựng Đảng để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh. Muốn
vậy, Đảng phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với xu
thế lịch sử, thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường
lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
- Phải tiếp tục xây dựng Đảng trở thành một “đảng đạo đức, văn minh”, cách mạng và khoa học,
trong sạch và vững mạnh, thật sự vì lợi ích của mỗi người dân và lợi ích của cả dân tộc, phấn đấu

cho một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải là
những người trung thành, tận tụy, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “khổ trước thiên hạ,
sướng sau thiên hạ”, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. “Mỗi
cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm
gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới,
đảng viên và nhân dân… Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc,
trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức
đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp
vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng”(1).
15


- Với tư cách là thủ lĩnh chính trị, được nhân dân ủy thác, Đảng phải đưa ra được những quyết
sách chính trị đúng đắn, khoa học, khách quan, phù hợp, hướng vào mục tiêu vì hạnh phúc của
nhân dân. Vì vậy, phải “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số
vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường
lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém
của công tác nghiên cứu lý luận”(2).
- Chăm lo xây dựng, củng cố, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục đổi
mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên.
- Chăm lo thật tốt “công việc gốc của Đảng” - công tác cán bộ, ở tất cả các khâu, công đoạn, bảo
đảm đúng quy trình, dân chủ, khách quan, để chọn được những người xứng đáng, đúng là tinh
hoa của tập thể, được tập thể suy tôn. Đó là những cán bộ vững vàng về lập trường chính trị, có
tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có thái độ tôn trọng luật pháp và thực sự “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư”. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện
tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm,

khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm
các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những
người có đức, có tài… Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình
đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm
thước đo chủ yếu… Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi,
bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển”(3).
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị theo hướng dân chủ, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đủ mạnh, với hệ
thống luật pháp mang đặc trưng đó ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ.
- Đảng thật sự tôn trọng dân chủ, phát huy có hiệu quả trong thực tế vai trò của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội trên mọi phương diện thuộc chức năng của các tổ chức này,
đồng thời đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của chúng; khắc phục tình trạng hành chính
hóa. “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước… Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở… Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của
Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp
lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm”(4).
- Chăm lo nâng cao trình độ dân trí, nhất là trình độ văn hóa pháp lý, văn hóa dân chủ, văn hóa
chính trị, nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu biết và sử dụng quyền dân chủ, thực hành dân
chủ một cách đúng đắn, hiệu quả.
Đối với Nhà nước
1- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà
nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực
hiện với hiệu quả cao chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước, chăm lo,
16



phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Bổ sung các thể chế và
cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tiếp tục xây dựng, từng
bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền.
2- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước hết, đối với Quốc hội,
phải thực sự bảo đảm đây là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp để cử tri làm chủ
quá trình lựa chọn và bầu để chọn được những người thực sự xứng đáng vào Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; có
cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao chất
lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, chất lượng hoạt động của
đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Nghiên cứu, giao quyền chất vấn cho Hội đồng
Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong
thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp tục đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội, trước hết là quy trình xây
dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần tăng tính cụ thể, tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc
sống. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của Quốc hội trong quyết định và giám sát các vấn đề quan
trọng của đất nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện
ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
- Hoàn thiện chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp và pháp luật nhằm xác định rõ và cụ thể
hơn quyền hạn, trách nhiệm của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước
về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghiên cứu làm rõ quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đối với Chủ tịch nước theo tinh thần Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị Trung
ương 7 khóa XI.

- Tiếp tục đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính trong sạch,
vững mạnh, quản lý thống nhất, thông suốt, tinh gọn, hợp lý; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng buông lỏng trên một số lĩnh vực.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân của
Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ của các bộ, ngành tập trung vào quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, khắc phục những
chồng chéo hoặc bỏ trống về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; làm rõ mối quan
hệ phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; bảo đảm nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ
quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Hoàn thiện cơ chế phân cấp theo hướng tăng
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, đồng thời bảo đảm sự quản lý
thống nhất của Trung ương. Nghiên cứu việc thành lập tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu,
quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công để cung ứng tốt
hơn các dịch vụ cơ bản thiết yếu cho người dân, nhất là các đối tượng chính sách xã hội, người
nghèo. Nhà nước tăng cường đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, địa
bàn khó khăn. Tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự
nghiệp công lập gắn với tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước. Đẩy mạnh xã hội hóa,
khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài Nhà nước
17


trên cơ sở các định mức, tiêu chuẩn, các quy định của pháp luật và sự kiểm tra, giám sát của các
cơ quan nhà nước và nhân dân.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ
tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng
và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp
với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện
chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ

quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ
quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt
động trinh sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ chức
bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát
của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
- Đối với chính quyền địa phương, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện
theo hướng quy định khung các cơ quan chuyên môn giúp việc cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Chính phủ, địa phương có thể
lập (hoặc không lập) cơ quan, tổ chức đặc thù. Rà soát, điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo,
không rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện, giữa ủy ban nhân dân cấp huyện với các sở, ngành cấp tỉnh. Thực hiện mô hình bí thư
cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy
ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối với những nơi có đủ điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí
một số chức danh cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương.
- Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng công tác; kết hợp đào tạo,
bồi dưỡng với luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất
là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược. Gắn chính sách tinh giản biên chế với
việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia, chính sách thu hút người tài vào làm
việc trong cơ quan của hệ thống chính trị; thu hút cán bộ trẻ, có trình độ đại học về công tác ở cơ
sở; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên ưu tú ở địa
phương bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Thực hiện thi tuyển các chức danh quản
lý ở Trung ương (đến cấp vụ trưởng) và ở địa phương (đến cấp giám đốc sở) và tương đương.
Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn bằng cấp đối với cán bộ, công chức theo hướng thiết thực,
tránh hình thức và phù hợp với thực tế.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
- Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã

hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, cơ chế tài chính đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng
thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động, không bị “hành chính hóa”, để gần dân, sát dân
hơn.

18


- Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp, quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
chính quyền.
- Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự
bảo đảm kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước
về tổ chức quản lý, và hoạt động hội phù hợp với tình hình mới./.
-------------------------------------------------

Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính
trị ở nước ta hiện nay: một số vấn đề lí luận
và thực tiễn
(LLCT) - Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã trải qua hơn 1/4 thế kỷ và đến Đại hội XII của Đảng,
đổi mới tròn 30 năm. Trong tiến trình ấy, chúng ta không chỉ đổi mới kinh tế, mà còn đổi
mới Hệ thống chính trị, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị. Trong những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân ta đã đạt được
dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thành tựu quan trọng về xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà
nước pháp quyền, xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng như đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động của Hệ thống chính trị nói chung. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Đảng và nhân dân ta đã đạt được những nhận thức lý luận mới về dân chủ và Hệ thống chính trị, đã rút
ra được những bài học kinh nghiệm bước đầu đáng quý về đổi mới Hệ thống chính trị, về thực hiện dân
chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Song, trên lĩnh vực quan trọng, nhưng cũng rất phức

tạp này, còn có những hạn chế, yếu kém và bất cập so với sự biến đổi mau lẹ của thực tiễn và trước
yêu cầu mới của phát triển bền vững. Đổi mới Hệ thống chính trị ngày càng trở nên bức xúc, đòi hỏi
chúng ta phải đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá để trên cơ sở đó tìm tòi, áp dụng những giải pháp
mới, xác định đúng và thực hiện tốt những đột phá để phát triển trên lĩnh vực chính trị và đổi mới Hệ
thống chính trị.
1. Nhận thức lý luận về Hệ thống chính trị và đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta
Chúng ta đều biết, trước đổi mới, Đảng ta chưa sử dụng khái niệm “Dân chủ XHCN” và “Hệ thống chính
trị”. Những khái niệm này, lần đầu tiên được đề cập trong các văn kiện của Đảng tại Hội nghị Trung
ương 6 khóa VI (1989), khi công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo chỉ vừa mới bắt đầu. Đó
là sự cụ thể hóa đầu tiên quan điểm đổi mới của Đảng về “dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời
sống” được ghi trong Văn kiện của Đảng tại Đại hội VI (12-1986).
Đến Đại hội VII, khi Đảng ta thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) thì cũng là lần đầu tiên, những quan điểm cơ bản của Đảng về
dân chủ XHCN và Hệ thống chính trị được thể hiện tương đối có hệ thống trong Cương lĩnh của Đảng.
Đây chính là những định hướng lớn có tính chỉ dẫn về quan điểm và nguyên tắc, về nội dung và
phương pháp để đổi mới chính trị mà cụ thể là đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta, trong điều kiện
chuyển đổi mô hình phát triển và cơ chế quản lý kinh tế, từ kinh tế kế hoạch, hiện vật sang kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường, từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và bình quân sang cơ chế thị
trường, tuân theo quy luật giá trị, quy luật thị trường, cạnh tranh và phân hóa.
Từ thực tiễn đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế và đổi mới kinh tế, nhất là khi đã định hình cơ
chế thị trường và phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường (KTTT), những nghiên cứu lý luận về dân chủ
và Hệ thống chính trị, về dân chủ hóa và đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta đã nhanh chóng thu hút
sự quan tâm của giới lý luận. Đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề xuất kiến nghị góp

19


phần đáng kể vào việc nâng cao nhận thức xã hội và bước đầu cung cấp những luận cứ khoa học phục
vụ sự lãnh đạo của Đảng và đề ra các quyết sách đổi mới Hệ thống chính trị của Trung ương.
- Một trong những vấn đề quan trọng nổi bật được đặt ra trong đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta là

tập trung làm rõ những nguyên tắc chính trị của đổi mới, những bảo đảm chính trị cho sự vận hành nền
KTTT, trong điều kiện mở cửa và hội nhập. Tựu trung lại, đó là định hướng XHCN, bảo đảm cho công
cuộc đổi mới đi đúng định hướng, phòng ngừa nguy cơ chệch hướng và rơi vào lạc hậu, tụt hậu của nền
kinh tế nước ta. Đổi mới có nguyên tắc được xác định bởi ổn định chính trị - xã hội, coi đó là tiền đề, là
điều kiện tiên quyết để đổi mới toàn diện các lĩnh vực, đổi mới có hiệu quả, có bước đi thích hợp. Trong
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới Hệ thống chính trị, Đảng ta nhấn mạnh, trước hết phải đổi mới
kinh tế, phải trên cơ sở đổi mới kinh tế có kết quả bước đầu, cải thiện được đời sống nhân dân mà tiến
hành đổi mới Hệ thống chính trị từng bước, thận trọng, có nguyên tắc. Nguyên tắc ấy chính là: bảo
đảm kiên định con đường XHCN của sự phát triển ở nước ta, bảo đảm nền tảng tư tưởng của Đảng, kim
chỉ nam hành động của cách mạng, ý thức hệ chủ đạo của xã hội là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng, nhất là trong điều kiện
nước ta chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền, Hệ thống chính trị nước ta mang đặc điểmnhất nguyên
chính trị và một Đảng, không đa đảng, càng không có Đảng đối lập.
- Một điểm then chốt trong nội dung đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta là phân biệt và phân định rõ
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, hai bộ phận cốt lõi trong cấu trúc của Hệ thống chính trị. Sự phân
biệt và phân định này căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ, giữa thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng
và Nhà nước trong điều kiện Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước với tư cách một Đảng cầm
quyền.
Làm rõ vấn đề này bằng những luận chứng khoa học và thực tiễn xác đáng là cơ sở để đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng gắn liền với đổi mới tổ chức, đổi mới công tác tổ chức và cán
bộ của Đảng đồng thời đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Phải chăng đây là vấn đề của mọi vấn đề trong đổi mới Hệ thống chính trị ở
nước ta, nhằm giải quyết tình trạng từ bấy lâu nay vẫn chồng chéo lẫn lộn, trùng dẫm giữa Đảng và
Nhà nước về tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, chức năng và nhiệm vụ, tình trạng
không rành mạch giữa thẩm quyền và trách nhiệm, nhất là chế độ trách nhiệm của từng tổ chức, dẫn
đến hạn chế hiệu quả, tác dụng hoạt động của từng tổ chức và của cả Hệ thống chính trị nói
chung.
- Đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta không có mục đích tự thân mà mục đích sâu xa, bản chất, quan
trọng nhất của nó là hướng vào xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện dân chủ, phát huy
quyền làm chủ và vai trò làm chủ thực sự của người dân. Bằng sức mạnh của dân chủ và thực hành

dân chủ rộng rãi theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà phòng ngừa và đẩy lùi, hoặc ít ra cũng giảm thiểu quan
liêu tham nhũng xuống mức thấp nhất, tránh được nhiều nhất những tổn hại tới lợi ích của đất nước,
của nhân dân.
Do đó, chú trọng dân chủ về thực chất là tôn trọng và bảo vệ dân, lợi ích và quyền làm chủ của nhân
dân. Có một mối liên hệ hữu cơ giữa dân chủ và hệ thống chính trị, giữa phát triển dân chủ với đổi mới
Hệ thống chính trị, giữa đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN trên nguyên tắc đề cao pháp luật và bảo đảm quyền lực thống nhất của dân
trong Nhà nước pháp quyền.
Lại cũng cần nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là tạo ra tính tất yếu kinh
tế để thực hiện và phát triển dân chủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là bảo đảm chính trị của nền dân chủ của dân, do dân, vì dân. Nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể của mình chính là hoạt động tham
chính của người dân, là thể hiện năng lực thực hành dân chủ để làm chủ thực chất của người dân. Đối
với từng công dân và cả cộng đồng nhân dân trong một xã hội dân chủ thì đây vừa là quyền làm chủ
vừa là trách nhiệm và nghĩa vụ của người chủ, theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy, KTTT và nhà nước pháp quyền là hai nhân tố kinh tế và chính trị thúc đẩy dân chủ, thúc đẩy
tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta.
- Nói tới Hệ thống chính trị, ngoài hai thành phần cốt yếu, là Đảng lãnh đạo, cầm quyền và Nhà nước
quản lý, còn phải nói tới các tổ chức chính trị - xã hội khác của nhân dân. Đó là những thiết chế cần
thiết mà nhân dân sử dụng để thực thi quyền làm chủ của mình, cũng như nhân dân không chỉ làm
chủ qua phương thức dân chủ đại diện mà còn làm chủ bằng phương thức dân chủ trực tiếp, tự quản,
tự quyết, nhất là ở cơ sở, ở các cộng đồng xã hội tự quản của người dân (thôn, làng, ấp bản, khu dân
cư...).

20


Lần đầu tiên, trong lịch sử cầm quyền của Đảng, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (2002), Đảng ta đã
ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng Hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn, gọi
chung là cấp xã. Đã đến lúc phải tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết rất quan trọng này, đánh giá

đúng những chuyển động tích cực và nhận diện rõ ràng, đầy đủ những yếu kém, những vấn đề phát
sinh từ cơ sở, từ Hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn, gắn với nông nghiệp và nông dân. Ở
địa bàn và khu vực này đang nổi lên rất nhiều vấn đề, rất nhiều tình huống, những mâu thuẫn, xung
đột, mất ổn định, tích tụ rất nhiều bức xúc cần phải giải quyết.
- Vấn đề đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đáp ứng yêu cầu tư vấn, giám sát, kiểm tra và phản
biện, nhằm phát huy vai trò của nhân dân và các tổ chức đoàn thể của nhân dân đối với việc xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường đồng
thuận xã hội để phát triển, ngày càng trở nên cần thiết, bức xúc và chín muồi.
Có cả một hệ thống thể chế mà Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện
liên quan tới đổi mới Hệ thống chính trị, từ Điều lệ Đảng và hệ thống chế tài của Đảng (Quy định 19
điều đảng viên không được làm), luật pháp Nhà nước, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (1998), Pháp
lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007), Luật phòng chống tham nhũng (2005), Luật Mặt trận và
luật về một số đoàn thể khác. Hiện nay, chúng ta đang tập trung sửa đổi Hiến pháp và Luật đất đai
cũng chính là tăng cường sức mạnh của thể chế để bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
người dân.
Đặc biệt là, tại Kỳ họp thứ 4 khóa XIII gần đây, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thực hiện lấy phiếu
tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm các đại biểu do Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân bầu hoặc bổ nhiệm
giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan lãnh đạo cấp cao của
Đảng trong thời gian qua đã tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, đã nghiêm khắc tự phê bình và nhận trách nhiệm về những khuyết điểm, sai
lầm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Tại Hội nghị Trung ương 6 vừa qua, việc chất vấnđã bắt
đầu được thực hiện trong sinh hoạt của lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Thông tin về những vấn đề quan trọng đó đã được công khai trong Đảng và trong xã hội. Cùng với
những điều đó, Trung ương đã có những quyết định mới về đổi mới mô hình tổ chức chỉ đạo chống
tham nhũng. Đây thực sự là những tín hiệu tích cực thúc đẩy đổi mới chính trị và Hệ thống chính trị ở
nước ta.
Cùng với những hoạt động khẩn trương đó, những đổi mới chính sách và cơ chế liên quan đến đầu tư
các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bố trí nhân lực ở các cấp trong Hệ thống chính trị cũng
góp phần quan trọng để đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hệ thống chính trị cần được
đánh giá tổng kết về kết quả, tác động, về phù hợp hay chưa phù hợp, có thể và cần phải sửa đổi, bổ

sung như thế nào trong tình hình hiện nay.
Đó là một số vấn đề nhận thức lý luận về Hệ thống chính trị và đổi mới Hệ thống chính trị, xuất phát từ
thực tiễn đổi mới ở nước ta. Trong những vấn đề đó, cho đến nay vẫn còn một số điểm chưa rõ, chưa
đạt được một sự thống nhất nhận thức chung và do đó, trong hoạt động chính trị thực tiễn của chúng
ta vẫn có những lúng túng, thiếu nhất quán, làm hạn chế kết quả, tác dụng của đổi mới Hệ thống chính
trị cần được khắc phục. Đó là:
- Xác định một quan niệm khoa học, đưa ra một định nghĩa khoa học về Hệ thống chính trị để làm cơ
sở cho công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động và thiết kế chính sách, giải pháp đổi mới Hệ thống
chính trị ở nước ta. Câu hỏi Hệ thống chính trị là gì? đòi hỏi phải làm rõ thuộc tính, bản chất của nó chứ
không thể chỉ dừng lại ở mô tả, liệt kê các tổ chức, mà cũng không rõ ràng các tiêu chí giúp cho việc
xác định tổ chức nào thuộc về Hệ thống chính trị, còn tổ chức nào thì không nằm trong Hệ thống chính
trị. Cho đến nay, cách tiếp cận, nhận diện và định hình các thực thể cấu thành Hệ thống chính trị của
chúng ta vẫn còn nhiều cách hiểu, cách nghĩ khác nhau, chưa thống nhất.
Đây chính là xác định cơ cấu tổ chức của Hệ thống chính trị.
Thường có hai khuynh hướng: hoặc quá hẹp hoặc mở ra quá rộng các bộ phận tham gia vào Hệ thống
chính trị mà khuynh hướng quá rộng thường nhiều hơn. Nó có liên quan tới vấn đề là: Tổ chức nào
cũng muốn được hiện diện trong Hệ thống chính trị, làm cho nội hàm của chính trị và khái niệm Hệ
thống chính trị bị “loãng” ra, đặc trưng chính trị bị “hòa lẫn” vào các lĩnh vực khác.
- Để giải quyết vấn đề trên quan điểm khoa học, phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Chỉ có thể xác định rõ những tổ chức thiết
chế cấu thành Hệ thống chính trị ở nước ta khi đạt được sự phân biệt thật rõ ràng những loại hình tổ
chức trên.

21


- Cũng như vậy, cần phân biệt chính trị và hành chính, chính trị và Hệ thống chính trị với xã hội và hệ
thống xã hội - ngoài chính trị thuộc về đời sống xã hội dân sự. Đây là vấn đề rất phức tạp cần được tiếp
tục nghiên cứu và tổng kết. Nó có quan hệ rất mật thiết với việc đổi mới Hệ thống chính trị, xây dựng
nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy sức mạnh của dân chủ và sự tham gia

của nhân dân vào cuộc đấu tranh chống quan liêu và tham nhũng
2. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở những nhận thức lý luận và những kết quả thực tiễn bước đầu về đổi mới và đổi mới Hệ
thống chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, đặc biệt qua những tổng kết lý luận - thực tiễn 20
và 25 năm đổi mới, trong đó có 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 của Đảng đã được xác định trong
Văn kiện Đại hội XI cũng như tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 gần đây, việc đánh giá
thực trạng Hệ thống chính trị nước ta hiện nay đang nổi lên những vấn đề sau:
Thứ nhất, đánh giá kết quả của tiến trình vận động dân chủ hóa, nhất là trong hai lĩnh vực trọng yếu
dân chủ hóa kinh tế và dân chủ hóa chính trị ở nước ta.
Thành tựu và những hạn chế trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong hơn 25 năm đổi mới?
Cắt nghĩa vì sao ở nước ta vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức, vẫn còn vi phạm quyền dân chủ và
làm chủ của người dân, thậm chí có nơi đã xảy ra những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài dẫn tới những
mâu thuẫn, xung đột và gây mất ổn định, nhất là ở nông thôn. Tập trung quan liêu đi liền với tự do vô
chính phủ, sự vi phạm và coi thường pháp luật, kỷ cương gây mất ổn định và rối loạn xã hội chậm được
khắc phục, sửa chữa và xử lý không nghiêm minh, trách nhiệm thuộc về ai, có liên quan tới trách
nhiệm của cấp nào trong lãnh đạo và quản lý?
Quan liêu và tham nhũng, nhất là tham nhũng ở nước ta do nhiều nguyên nhân dẫn đến. Vấn nạn tham
nhũng ngày càng gay gắt, chưa giải quyết được có phải do dân chủ chậm phát triển? Hệ thống chính
trị đổi mới còn chậm và kém hiệu quả hay không? Đặc biệt là vai trò của Nhà nước pháp quyền trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu không có công khai minh
bạch, hoặc thiếu vắng chế độ trách nhiệm giải trình thì ở đó có tham nhũng. Trong những năm gần
đây, hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế ở nước ta có những diễn biến phức tạp và bộc lộ nhiều sơ hở,
yếm kém nghiêm trọng, nhất là trong các tập đoàn kinh tế nhà nước. Tình trạng thất thoát những
nguồn vốn to lớn của Nhà nước, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản, nợ công và nợ xấu cùng với lạm
phát gia tăng, sản phẩm hàng hóa tồn kho, ứ đọng, tốc độ tăng trưởng suy giảm... Dư luận xã hội ngày
càng bất bình trước những biểu hiện bất minh, bất chính của các lợi ích nhóm làm tổn hại tới lợi ích
chung của xã hội. Tham nhũng trong kinh tế ngày càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi. Đi
liền với tham nhũng kinh tế, còn có sự tham những trong chính trị với những biểu hiện lợi dụng chức
quyền để trục lợi, tình trạng chạy danh, chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, thậm chí chạy cả huân
chương đã và đang là một thực tế rất đáng lo ngại mà Đại hội XI đã nêu lên.

Cơ chế “xin - cho” là thứ cơ chế vô hình, bất thành văn nhưng đã gây ra những tổn hại nghiêm trọng,
đã hình thành một tập quán phổ biến rất khó sửa.
Trong bố trí cán bộ, cũng là một thực tế bất thành văn mà đã tạo nên một thứ định vị trật tự tiêu cực
rất không lành mạnh mà Tổng Bí thư đã phê phán “thứ nhất tiền tệ, thứ nhì hậu duệ, thứ ba quan hệ,
thứ tư mới đến trí tuệ”.
Rõ ràng, “cơ chế xin - cho”, “lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” đã can dự vào sự tăng tham nhũng, sự
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, sự suy giảm đà tăng trưởng kinh tế và làm
lệch lạc các quan hệ xã hội, các chuẩn mực giá trị xã hội.
Đây là những lực cản nặng nề đối với phát triển, đối với Hệ thống chính trị và đổi mới Hệ thống chính
trị ở nước ta.
Chính tham nhũng là lực cản lớn nhất đối với công tác vận động quần chúng, công tác dân vận, bởi
dân mất lòng tin khi họ nhìn vào tình trạng tham nhũng nặng nề, có tính phổ biến trong hệ thống các
cơ quan công quyền, thậm chí tham nhũng còn thâm nhập vào các cơ quan đảng và đoàn thể.
Muốn đẩy mạnh dân chủ hóa, xây dựng nền dân chủ, đổi mới Hệ thống chính trị phải đặc biệt chú
trọng đẩy lùi quan liêu tham nhũng bằng những giải pháp mạnh và đồng bộ.
Thứ hai, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển
mạnh mẽ KTTT và Nhà nước pháp quyền, mở cửa và hội nhập quốc tế.
Trong hơn 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có không ít nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, điển hình
là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, với điểm mấu chốt là
phải khắc phục tình trạng suy thoái trong Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao được
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

22


Có nhiều vấn đề đặt ra đối với xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, mà nổi bật là:
Phải có đột phá lý luận, phải chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, lối sống, nói rộng ra là xây dựng,
giáo dục và thực hành văn hóa trong Đảng, trong đời sống của Đảng, xây dựng và thực hành văn hóa
chính trị trong Đảng, trong Nhà nước và trong các tổ chức của Hệ thống chính trị ở nước ta.
- Phân biệt sự khác nhau về chức năng và nhiệm vụ, mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của

Đảng với Nhà nước và các đoàn thể. Thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng có gì khác so với Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước có gì khác so với Đảng lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể ?
- Vai trò và tư cách đảng viên, vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, của cấp ủy và người đứng đầu
cấp ủy. Mô hình và mối quan hệ giữa các tổ chức đảng với tổ chức nhà nước và các đoàn thể. Cần đổi
mới, tinh giản bộ máy và nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên, trong từng tổ chức và trong cả hệ
thống.
- Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, Nhà nước. Còn Mặt
trận, do những đặc thù của nó, lại không thực hiện tập trung dân chủ như trong Đảng và Nhà nước mà
áp dụng hiệp thương dân chủ, kết hợp giữa tập trung dân chủ với hiệp thương dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Mặt trận.
- Mối quan hệ giữa Đảng với dân là vấn đề vô cùng hệ trọng trong điều kiện Đảng cầm quyền, là điểm
nổi bật nhất trong công tác dân vận, thực hành dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội. Đây là tình
huống có vấn đề rất đáng lo ngại, do dân suy giảm lòng tin bởi không ít cán bộ đảng viên suy thoái,
biến chất.
- Công tác tổ chức cán bộ, quy hoạch cán bộ và chính sách cán bộ của Đảng, đặc biệt là quy hoạch đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, quy hoạch các chức danh chủ chốt của lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể,đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, khắc phục khuynh hướng hành chính hóa, hình thức hóa để Mặt trận và các đoàn thể thực sự
phát huy được vai trò tư vấn, giám sát, phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách, luật pháp của
Đảng và Nhà nước, làm tốt công tác vận động quần chúng, tạo ra sức sống, sức hấp dẫn đối với quần
chúng đoàn viên, hội viên, đẩy mạnh thực hành dân chủ, chống quan liêu, tham nhũng. Cùng với việc
chuẩn bị đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hệ thống chính trị, trong thời
gian qua, Ban Dân vận Trung ương đang tích cực xây dựng đề án, tờ trình và dự thảo quy chế để tăng
cường vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong hoạt động giám sát, phản biện và tư vấn cũng như cơ
chế để Mặt trận, các đoàn thể và quần chúng nhân dân tham gia đóng góp ý kiến đối với đường lối,
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Có cơ sở để hy vọng rằng, khi
quy chế và cơ chế nêu trên được Trung ương phê chuẩn, ban hành và đi vào thực hiện thì sẽ tạo ra
những bước tiến mới đối với việc phát huy vai trò làm chủ của quần chúng nhân dân. Đây chính là bản
chất và mục tiêu đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta.
Thứ tư, vấn đề cán bộ và chính sách cán bộ, tạo động lực nâng cao tính tích cực chính trị - xã hội của

quần chúng, phát huy sáng kiến, sáng tạo của nhân dân, phát hiện nhân tài, trọng đãi hiền tài để phát
triển kinh tế, văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Công tác cán bộ là công việc gốc của
Đảng. Công tác cán bộ là công tác có tầm quan trọng chiến lược, quyết định sức sống, sức mạnh của
tổ chức, quyết định thành bại của phong trào cách mạng. Chính sách cán bộ là một trong những mắt
xích trọng yếu nhất để thực hiện tư tưởng và chiến lược cán bộ của Đảng. Đó là cả một tập hợp các
chính sách đối với cán bộ, chính sách đối với con người, từ giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng - huấn luyện,
đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm, luân chuyển để rèn luyện thử thách làm cho cán bộ trưởng thành. Đó còn
là chính sách đãi ngộ công bằng hợp lý, trọng dụng nhân tài trọng đãi hiền tài, nó có liên quan trực
tiếp tới chính sách tiền lương và cải cách chế độ tiền lương.
Do đó, công tác cán bộ gắn chặt với công tác tổ chức, được bảo đảm bởi chính sách cán bộ, được thúc
đẩy bởi chính sách tiền lương.
Liên quan tới đổi mới Hệ thống chính trị là làm thế nào để định hình được và thực hiện được hệ tiêu
chí cán bộ đảng, công chức nhà nước với cán bộ Mặt trận và đoàn thể. Với cán bộ đảng, mặt trận, đoàn
thể có những đặc thù riêng, khác với công chức nhà nước nhưng từ bao lâu nay đều đã trở thành công
chức, trong khi nghề nghiệp và hoạt động của họ,thực chất là hoạt động chính trị và công tác xã
hội. Phải tìm tòi một hình thức trả công, đãi ngộ khác với công chức nhà nước để không rơi vào khuynh
hướng công chức hóa, hành chính hóa, quan liêu hóa kiểu Nhà nước. Giải quyết vấn đề này là chìa
khóa để Mặt trận có tiếng nói chủ động, độc lập phản biện cho Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả Hệ thống chính trị,củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và tăng cường đồng thuận xã hội. Dân chủ - đoàn kết - đồng thuận là vấn đề có tính quy luật để
phát triển xã hội dân chủ ở nước ta, là bảo đảm cho ổn định thực sự là ổn định tích cực. Do đó phải đặc

23


biệt chú trọng dân chủ, đoàn kết trong Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân
tộc trên cơ sở thấm nhuần và thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo ở nước ta, kể cả
đoàn kết cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dân chủ thực
chất để đoàn kết thực chất và đồng thuận thực chất bền vững.
Trên đây là 5 vấn đề nổi bật đang đặt ra về đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta, liên quan tới thành

tựu và hạn chế, tới quan điểm, nguyên tắc và giải pháp tiếp tục đổi mới và hoàn thiện Hệ thống chính
trị ở nước ta trong tình hình mới, trước yêu cầu mới.
______________

24



×