Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.12 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................... 2
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.....................................2
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VKSND
3
1.1.1 Khái niệm VKSND...................................................................................................................................3
1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của VKSND..........................................................................................................3
1.2 CHỨC NĂNG CỦA VKSND QUA CÁC THỜI KỲ
4

CHƯƠNG 2................................................................................................................... 9
CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN................................................9
2.1 CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
9
2.1.1 Định nghĩa thực hành quyền công tố......................................................................................................9
2.1.3 Nội dung chức năng thực hành quyền công tố của VKSND.................................................................10
2.2 CHỨC NĂNG KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
16
2.2.1 Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp..................................................................................................16
2.2.2 Nội dung chức năng kiểm sát các hoạt động Tư pháp..........................................................................16

CHƯƠNG 3................................................................................................................. 23
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VỀ CHỨC NĂNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.................................................................................23
3.1 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
23
3.1.1 Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự........24
3.1.2 Thực trạng kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và
những việc khác theo quy định của pháp luật................................................................................................28


3.1.3 Thực trạng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự....................................................29
3.1.4 Thực trạng kiểm sát thi hành án dân sự................................................................................................30
3.1.5 Thực tiễn kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp
và giải quyết khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền viện kiểm sát nhân dân.....................................................32
3.2 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
32

KẾT LUẬN.................................................................................................................35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................36

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp đã góp phần hạn chế, khắc phục các vi phạm của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, quyền và lợi ích hợp

1


pháp của Nhà nước, các tổ chức xã hội, đạt được những thành tựu to lớn, đáng khích lệ,
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế song song với việc phát triển
kinh tế, xã hội là tình hình tội phạm ngày một gia tăng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan
bảo vệ pháp luật là việc làm cần thiết. Với lí do đó, Đảng và Nhà nước ta từ khi hội
nhập đã có sự quan tâm đặc biệt đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp, trong đó có VKSND.
Sau khi có Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/03/2005 về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng 2020 và Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

của bộ Chính trị, đã có nhiều ý kiến cho rằng chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp tuy là chức năng hiến định nhưng Viện kiểm sát chỉ nên
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tức là nên chuyển đổi VKSND thành mô
hình viện công tố như ở một số nước trên thế giới. Việc chuyển đổi này cần phải được
suy xét thấu đáo về những lợi ích tích cực cũng như những khó khăn tiêu cực mà nó
đem lại, nếu tiến hành cần phải có lộ trình và tính toán hợp lí. Để làm được điều đó ta
cần đánh giá đúng chức năng của VKSND cả về lí luận lẫn thực tiễn.
Cải cách VKSND là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp nhằm
mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc tìm hiểu rõ hơn về
chức năng của VKSND về lý luận và thực tiễn góp phần bảo đảm Viện kiểm sát thực
hiện tốt chức năng được giao và kiến nghị giải pháp tích cực nhằm khắc phục phần nào
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cải cách VKSND là rất cần thiết và quan
trọng.

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

2


1.1 Khái quát chung về VKSND
1.1.1 Khái niệm VKSND
- Viện kiểm sát Nhân Dân (cùng với Tòa án) là cơ quan thuộc nhánh Tư pháp
trong bộ máy Nhà nước do Quốc hội – Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất lập ra
nhằm kiểm soát quyền lực. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập trong Hiến
pháp, được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước
nói chung, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
- Theo quy định của luật tổ chức VKSND 2014 vị trí, vai trò của VKSND trong
mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm sát quyền lực nhà nước đã được xác định rõ
ràng, với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND

được xác định là thiết chế kiểm sát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng
thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành
án và các cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp.
- Hệ thống VKSND gồm có:
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
+ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
+ Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện).
+ Viện kiểm sát quân sự các cấp.

1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của VKSND
- Chức năng: VKSND có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nhiệm vụ: VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

3


pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất
Đây là nhiệm vụ phù hợp với chức năng VKSND vì trong hoạt động của mình ngoài
vai trò buộc tội, VKSND bảo đảm các hoạt động Tư pháp được thực hiện đúng quy
định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, đảm bảo quyền con người, quyền công dân và các quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ.


1.2 Chức năng của VKSND qua các thời kỳ
1.2.1 Giai đoạn từ 1945 đến 1959
- Từ tháng 9/1945 đến trước năm 1958 sự hình thành và phát triển của ngành
công tố gắn với quá trình xây dựng và phát triển của ngành Tòa án, cơ quan công tố
được tổ chức bên trong hệ thống Tòa án. Ngày 29/4/1958, Quốc hội thông qua Đề án
của Hội đồng chính phủ nhằm tăng cường thêm một bước cho chính phủ và bộ máy
Nhà nước ở cấp trung ương trong đó có việc thành lập Viện công tố độc lập, tách khỏi
sự quản lý của Bộ tư pháp. Viện công tố có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ và chấp
hành pháp luật của nhà nước, thực hành chức năng công tố.
Theo Nghị quyết số 256 – TTg ngày 01/7/1959 của Thủ tướng chính phủ quy
định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của ngành công tố thì chức năng của Viện
công tố thời gian này vẫn thực hiện chức năng công tố, thẩm quyền của Viện công tố
được tăng lên thông qua thẩm quyền kháng cáo các vụ án dân sự.

1.2.2 Giai đoạn từ 1960 đến 1980
- Chức năng VKSND được quy định trong Hiến pháp năm 1959: “Viện kiểm sát
nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân
viên cơ quan nhà nước và công dân” (Điều 105, Hiến pháp 1959).

4


- VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định,
thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan
Nhà nước địa phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà
nước và của công dân; Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà
án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra của cơ quan Công an và của cơ quan điều tra khác; Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Toà án nhân dân và trong việc chấp hành

các bản án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;
Khởi tố, hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi
ích của Nhà nước và của nhân dân. (Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960)
Như vậy, chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn này chỉ là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, đảm bảo cho sự thực thi đúng đắn của pháp luật.

1.2.3 Giai đoạn từ 1980 đến 1992
- Chuyển sang thời kỳ mới, ngành Kiểm sát nhân dân có bước phát triển mới cả
về tổ chức và hoạt động. Hiến pháp 1980 xác định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quản lý Nhà nước. Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 1981 một lần nữa đã khẳng định vị trí, vai trò, trách
nhiệm của ngành kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất trong cả
nước.
- Trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, chức năng,
nhiệm vụ công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát nhân dân đã được xác định rõ hơn.
Theo Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi năm 1981 Các Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố bằng những công
tác dưới đây: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các văn bản pháp quy và biện
pháp của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hành vi của các nhân viên Nhà nước và công dân; Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và các cơ quan điều tra khác; Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân
5


theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã
có hiệu lực pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo.
Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng được đề cập trong các văn kiện Đại hội
lần thứ VI và các Nghị quyết khác của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, ngành

Kiểm sát nhân dân đã có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động nhằm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn mới. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
được sửa đổi, bổ sung năm 1988 bổ sung VKSND: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra của các cơ quan điều tra, của Bộ đội biên phòng, Hải quan và Kiểm
lâm.
Bổ sung điểm 6 và Điều tra tội phạm trong những trường hợp quy định tại khoản 3,
Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự; Khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự khi
xét thấy cần thiết.
Đến giai đoạn này, VKSND đã có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật và
thực hành quyền công tố.

1.2.4 Giai đoạn từ 1992 đến 2013
Ngày 15/4/1992, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến
pháp 1992. Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác
thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân, nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ
tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để

6


mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.

Trên cơ sở đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi và Quốc hội
đã thông qua vào ngày 07/10/1992, quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố bằng những công tác
sau đây: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các Bộ,
các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và các cơ quan chính quyền
địa phương; kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước nói trên, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án,
quyết định đó có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc giam, giữ và cải tạo; Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp
luật tố tụng hình sự quy định.
Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Hiến pháp 1992 (sửa
đổi). Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng, nhiệm vụ và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và
những quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa mà sẽ thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (theo Điều 137 Hiến
pháp và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
Các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã có những tiến bộ
đáng kể, nhất là công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự.

7


1.2.5 Giai đoạn từ 2013 đến nay
Năm 2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ

họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới vào ngày 28/11/2013 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2014. Hiến pháp 2013 đã có những nội dung mới quan trọng về chế định
Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có nhiều quy định mới, trong
đó, có những quy định như: Đã xác định rõ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Với chức
năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân
được xác định là thiết chế kiểm sát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng
thời kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi
hành án và các cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp
“Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức
VKSND 2014)
“VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” (Khoản 1 Điều 107
Hiến Pháp 2013)
Viện kiểm sát vẫn duy trì chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Trong phạm vi quyền hạn của mình VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

8


CHƯƠNG 2
CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

2.1 Chức năng thực hành quyền công tố
2.1.1 Định nghĩa thực hành quyền công tố

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền năng này thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để phát hiện
tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội1
Ở nước ta hiện nay vẫn quan niệm quyền công tố thuộc nhánh quyền tư pháp
nên VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố dưới góc độ thực hiện chức
năng Nhà nước là thực hiện chức năng Tư pháp2.
Pháp luật đã quy định các quyền hạn pháp lý khác nhau để VKSND áp dụng
trong từng giai đoạn khác nhau để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Trên cơ sở đó, có thể nói thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự 3.

2.1.2 Phạm vi thực hành quyền công tố của VKSND
Việc xác định đúng phạm vi thực hành quyền công tố có ý nghĩa quan trọng, vì
có xác định đúng đắn phạm vi thực hành quyền công tố thì mới nâng cao chất lượng
Lê Hữu Thể, Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra, Nxb tư pháp
2
Chức năng của VKSND trong bộ máy nhà nước - Võ Phước Long - Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 12 (173)
3
Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014
1

9



thực hành quyền công tố. Để có thể xác định phạm vi thực hành quyền công tố thì
không thể không xem xét đến phạm vi của quyền công tố.
Về mặt nguyên tắc thì chúng đồng nhất với nhau, nhưng trên thực tế thì giữa hai
phạm vi này còn có một khoảng cách. Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp có căn cứ do
pháp luật quy định làm quyền công tố bị triệt tiêu trước khi bản án có hiệu lực pháp
luật: căn cứ đình chỉ điều tra (Điều 164 BLTTHS 2003); đình chỉ vụ án (Điều 169
BLTTHS 2003)…). Vì vậy, khi có tội phạm xảy ra đòi hỏi quyền công tố phải được
phát động. Nhưng không phải lúc nào tội phạm xảy ra thì việc khởi tố vụ án hình sự
luôn được tiến hành cho nên còn rất nhiều hành vi phạm tội còn tồn tại trong đời sống
xã hội. Thế nhưng quyền công tố luôn tồn tại đối với tất cả những người đã thực hiện
tội phạm nhưng chưa bị phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nên có thể nói
phạm vi quyền công tố rộng hơn so với phạm vi thực hành quyền công tố.
Để đảm bảo thực hiện quyền công tố một cách có hiệu quả trong thực tế đấu
tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật đã có các quy định trao cho VKSND các quyền
năng pháp lý thuộc về quyền công tố. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi
khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc
vụ án được đình chỉ khi có một trong những căn cứ do Luật tố tụng hính sự quy định 4.

2.1.3 Nội dung chức năng thực hành quyền công tố của VKSND
VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng để thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố của mình nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội
phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.

4

Lê Tuyết Hoa, Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, 2002 tr.45

10


Thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
VKSND phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Hủy bỏ quyết định tạm giam, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ
quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác.
Khi cần thiết VKSND đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong
trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.

Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự
Khởi tố vụ án là việc nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự được biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự, chính
thức công khai vấn đề có tội phạm xảy ra, bắt đầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người đã thực hiện tội phạm.
Khởi tố bị can: Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định bằng văn bản để khởi tố bị
can. Về mặt pháp lý, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức công khai một người
nào đó có dấu hiệu phạm tội và tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự người đó.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, tuỳ từng
trường hợp mà Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tự mình khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Viện
kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ


11


quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội
đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Đối với việc khởi tố bị can thì Viện kiểm sát chỉ
trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra
mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án
nhưng chưa bị khởi tố, trong các trường hợp khác, việc khởi tố bị can do Cơ quan điều
tra thực hiện và Viện kiểm sát có trách nhiệm phê chuẩn việc khởi tố.
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan
điều tra tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt động điều tra có kết quả thì Viện kiểm sát
với vai trò là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải đề ra yêu cầu
điều tra ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn của quá trình
điều tra, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
phải bám sát việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra để kịp thời đề ra các yêu cầu điều
tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết, để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có
thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Bộ luật tố tụng hình
sự.
Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tư
của những người tiến hành tố tụng, đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm, khi phát
hiện Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay
đổi theo qui định tại Điều 43 và Điều 44 Bộ luật tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát phải
kịp thời yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên. Trong trường hợp
xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì yêu cầu Cơ quan điều tra có
thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có quyền
quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nới cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự qui định

12


phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như: Phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; phê chuẩn
quyết định tạm giữ; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt bị can để
tạm giam; phê chuẩn lệnh tạm giam… thì Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét, quyết
định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Mọi trường hợp từ chối phê chuẩn của
Viện kiểm sát đều phải nêu rõ lý do của việc không phê chuẩn.
Để thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bảo đảm
việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền ra
quyết định huỷ bỏ các quyết định đó như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị
can; quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ
điều tra vụ án của Cơ quan điều tra… thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ các quyết
định đó theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự; trong trường hợp bị can trốn
hoặc không biết bị can đang ở đâu mà Cơ quan điều tra không ra quyết định truy nã thì
Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can theo
qui định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự.
Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị
truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn này mà không cơ quan nào khác có thể thay thế được là quyết
định việc có truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử hay không. Qua nghiên cứu hồ sơ
vụ án, nếu xét thấy có đủ căn cứ để truy tố bị can thì Viện kiểm sát thực hiện việc truy
tố bị can ra trước Toà án bằng bản cáo trạng. Trong những trường hợp qui định tại Điều
168 Bộ luật tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ

sung. Trong những trường hợp qui định tại Điều 169 Bộ luật tố tụng hình sự thì Viện
kiểm sát ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố của nước ta do vậy
các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của các cơ quan tiến hành tố tụng khác
không hoàn toàn độc lập mà chỉ thực sự có hiệu lực sau khi được kiểm sát tính có căn
cứ, hợp pháp bởi Viện kiểm sát.

13


Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Truy tố bị can: khi xác định có đầy đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với một người nào đó thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng bản cáo
trạng buộc tội bị can với một tội danh cụ thể nhất định để đề nghị Tòa án xét xử.
VKSND thực hành quyền công tố thông qua:
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện
pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu
Cơ quan điều tra truy nã bị can.
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong
trường hợp cần thiết.
Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét
thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ
án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được, có căn cứ để khởi tố bị can về
một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng (Điều 168 BLTTHS 2003)
Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp

dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn.
Quyết định truy tố, không truy tố bị can.

14


Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục hồi vụ án, bị
can: Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS 2003 hoặc tại Điều 19, Điều 25 và
khoản 2 Điều 69 của Bộ luật Hình sự; Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án khi
bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng
giám định pháp y, khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu (trong trường
hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can).
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố xuyên suốt từ khi khởi tố vụ án hình sự
đến khi quyết định truy tố bị can ra Tòa hoặc khi có quyết định đình chỉ vụ án. Trong
giai đoạn này tuy Cơ quan điều tra trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra (trừ một
số trường hợp Viện kiểm sát là cơ quan trực tiếp tiến hành điều tra), nhìn chung Viện
kiểm sát giữ vai trò chủ đạo bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội.

Thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự
Sự có mặt của kiểm sát viên Viện kiểm sát là bắt buộc tại phiên tòa (Điều 189
BLTTHS 2003), VKSND thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự thông
qua:
Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác
về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa: Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội,
gỡ tội bị cáo. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời

luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết
luận về tội nhẹ hơn (nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy
tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội).
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan sai,
bỏ lọt tội phạm, người phạm tội: Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 232 BLTTHS
2003)

15


2.2 Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
2.2.1 Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là tổng thể những công việc cụ thể do cơ quan tư pháp thực
hiện trong tố tụng theo quy định của pháp luật, trực tiếp liên quan và hướng tới mục
đích giải quyết các vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm
Kiểm sát hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các
cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình
tố tụng. Có thể nói:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ
án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, các hoạt
động tư pháp khác theo quy định của pháp luật

2.2.2 Nội dung chức năng kiểm sát các hoạt động Tư pháp
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của cơ quan điều tra đối
với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Về nguyên tắc sau khi tiến hành
kiểm tra, xác minh nguồn tố giác, tin báo về tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết
định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án và trong vòng 24 giờ kể từ khi
ra quyết định, cơ quan điều tra phải gửi đến Viện kiểm sát để xem xét.
VKSND có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thông qua:

16


Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho
VKSND cùng cấp.
Trực tiếp kiểm sát; kiểm sát việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ và kết quả
, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

Kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án
của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng, yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham
gia tố tụng vi phạm pháp luật
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra
Yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết

Kiến nghị, yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra
Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thay đổi điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp
luật trong hoạt động tố tụng

17


Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện xuyên suốt quá trình điều tra,
điều này giúp cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ
được quyền và lợi ích của công dân, phát hiện kịp thời, khắc phục những vi
phạm mà trong quá trình điều tra cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có thể vi phạm, đóng góp vào việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm.

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố
Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố bằng cách:
Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng, yêu cầu, kiến
nghị cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia
tố tụng vi phạm pháp luật
Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm vi
phạm pháp luật

Kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án
Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến

nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm mình người tham gia tố tụng
vi phạm pháp luật
Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét,
quyết định việc kháng nghị

18


Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng
Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự quy
định cụ thể như sau:
Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử: kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án, về thời gian chuẩn
bị xét xử; về việc ra các quyết định: quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ vụ
án và việc giao các quyết định này theo Điều 182 BLTTHS 2003
Kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa của Hội đồng xét xử, thư
ký Tòa án và những người tham gia tố tụng khác ngay từ khi bắt đầu phiên tòa
đến khi kết thúc phiên tòa , nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được công minh, đúng pháp
luật (Điều 20)
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự: Kiểm tra biên bản phiên tòa, kiểm tra bản án, quyết định của Tòa
án và việc giao nhận bản án, quyết định hình sự sơ thẩm của Tòa án cho bị cáo
và Viện kiểm sát cùng cấp
Sự có mặt của Viện kiểm sát trong các phiên tòa này là bắt buộc nhằm thực hiện
chức năng kiểm sát với đối tượng kiểm sát là sự tuân thủ pháp luật của người
tiến hành tố tựng, ngừoi tham gia tố tụng


Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền
trong việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự

19


Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, tạm giam, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về
việc tạm giữ, tạm giam
Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam
Yêu cầu trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc giam giữ,
tạm giam và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên
quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tnaj giữ, tạm giam, trả lời
về biện pháp, quyết định hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam
Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và
trái pháp luật
Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm
giữ, tạm giam, đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bõ quyết định có vi phạm
pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và
yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật
Khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ
việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam tho quy định của pháp luật
Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc
tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật

20


Kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật, kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật:Kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu ; kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án , vụ việc; thu thập tài
liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định; tham gia phiên tòa, phiên họp,
phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án , vụ việc theo quy định của
pháp luật; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát hoạt động tố tụng của
người tham gia tố tụng ; yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý
nghiêm minh ngừơi tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kiến nghị bản án quyết định
của tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức cá nhân
thực hiện hoạt động tố tụng
- Nhiệm vụ quyền hạn của VKSND khi kiểm sát thi hành án dân sự, án hành chính:
+ Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của
Tòa án.
+ Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và
cấp dưới, chấp hành viên, cơ quan tổ chức và cá nhân có liên quan
+ Kiểm sát hồ sơ thi hành án
+ Tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về việc xét miễn, giảm
nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
+ Kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án

21


+ Yêu cầu Tòa án cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, chấp hành
viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án thực hiện các

việc sau đây:
Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật
Thi hành bản án quyết định theo quy định của pháp luật
Tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả cho VKSND
Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án
+ Kiến nghị Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, chấp
hành viên, cơ quan tổ chức cá nhân thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thi
hành án
+ Kháng nghị quyết định của Tòa án, quyết định hành vi của Thủ trưởng, chấp
hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo quy định của
pháp luật
Yêu cầu đình chỉ thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật

Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
Viện kiểm sát kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp:
- Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động Tư pháp tại
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận
nội dung tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp
của câp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho VKSND.

22


- Ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật

Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và người tham
gia hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang

chấp hành hình phạt tù.
Tham gia phiên họp của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân.
Kháng nghị quyết định có vi phạm pháp luật của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao
người đang chấp hành hình phạt tù.
Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt
động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật.

CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VỀ CHỨC NĂNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
(Thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao lãnh)

3.1 Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Tình hình tội phạm tại thành phố Cao lãnh năm 2015
Tội phạm mới khởi tố năm 2015: 85 vụ/104 bị can (giảm 14/vụ/47 bị can so với cùng
kỳ năm 2014). Căn cứ vào số lượng và tính chất các vụ án đã khởi tố thấy diễn biến
tình hình tội phạm như sau:
- Tội phạm về an ninh: Không pháp sinh
- Tội phạm về kinh tế và môi trường: khởi tố 02 vụ/02 bị can
23


- Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp: Không phát sinh
- Tội phạm về ma túy: Khởi tố 07 vụ/09 bị can
Tội phạm xảy ra phổ biến là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy.
Về tính chất và qui mô các vụ án không lớn, số lượng ma túy không nhiều, mang tính
nhỏ, lẻ. Người phạm tội thường là người nghiện ma túy, mua ma túy đá về bán lại cho
các con nghiện khác


3.1.1 Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao lãnh xác định nhiệm vụ trọng tâm của
Ngành trong năm 2015 là: Nâng cao trách nhiệm và chất lượng công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, đảm bảo việc phát
hiện, điều tra, xử lý tội phạm theo đúng quy định của pháp luật; Tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra; Phối hợp
cùng cơ quan điều tra kiểm sát ngay từ đầu công tác tiếp nhận , giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, không để xáy ra oan sai; hạn chế đến mức thấp
nhất bỏ lọt tội phạm. Trong đó, đơn vị xác định khâu đột phá là “Tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm trong công tác kiểm sát việc tiếp nhận, xử lý tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”. Tăng cường công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án
dân sự; nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, các
vụ án hành chính. Thực hiện đồng bộ các biện pháp trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Tăng cường giáo dục, rèn luyện cề chính trị,
tư tưởng, đạo đức và nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, từng
bước xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ,
tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện kế hoạch công
tác của đơn vị được thực hiện thường xuyên. Qua đó, tập trung phối hợp cơ quan điều

24


tra, Tòa án giải quyết nhanh các vụ án lớn, án trọng điểm và những vụ án phức tạp, bức
xúc được dư luận xã hôi quan tâm.
Viện kiểm sát phối hợp chặc chẽ với cơ quan Công an, Tòa án từ việc tiếp nhận

tố giác, tin báo về tội phạm, xác định có tội phạm xảy ra hay không để quyết định khởi
tố vụ án hay quyết định không khởi tố vụ án. Từ đó tiến hành thu thập, đánh giá chứng
cứ xác định tội phạm và người phạm tội để phân công điều tra viên, kiểm sát viên có
đủ năng lực, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ tiến hành thụ lý giải quyết các vụ án
hình sự ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can nên không xảy ra trường hợp
oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Viện kiểm sát đã kiểm sát 139 tin báo (cũ 10, mới 129). Đã giải quyết 133 tin
(khởi tố vụ án 94 tin, không khởi tố 39 tin), đạt 95,68%.
Qua kiểm sát khâu công tác này, đơn vị đã ban hành 03 kiến nghị đối với cơ
quan Cảnh sát điều tra thành phố Cao Lãnh yêu cầu khắc phục vi phạm về chậm thụ lý,
để quá hạn tin báo, chậm phân công giải quyết và vi phạm điều tra án tai nạn giao
thông (đã tiếp thu khắc phục xong). Đơn vị đã tổ chức Hội thảo chuyên đề “Tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra” theo yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời phối hợp triển khai thực hiện quy chế
khám nghiệm hiện trường, tử thi; quy chế tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố. Đơn vị đã xây dựng và ký kết ban hành thực hiện quy chế
phối hợp về tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và giải quyết án hình sự giữa
Công an và VKSND thành phố Cao Lãnh. Phối hợp mặt trận tổ quốc Việt Nam thành
phố Cao Lãnh kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động tư pháp; tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an thành phố Cao Lãnh. Qua kiểm sát đã ban hành 01 kiến nghị về việc
chậm phân công giải quyết tố giác, tin báo theo quy định tại khoản 1, Điều 9 Thông tư
liên tịch số 06/2013 (kiến nghị được chấp nhận).
Viện kiểm sát đã thụ lý kiểm sát điều tra 110 vụ/154 bị can (cũ 25 vụ/50
bị can, mới 85 vụ/104 bị can), xác định 10 vụ án trọng điểm. Đã giải quyết 95 vụ/129
bị can (đạt 86,36%), trong đó: Cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra chuyển Viện kiểm
sát đề nghị truy tố 90 vụ/124 bị can, đình chỉ 02 vụ/04 bị can (do bị hại rút đơn yêu

25



×