Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu hiệp ước vốn basel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.51 KB, 17 trang )

Đề tài: Tìm hiểu Hiệp ước vốn Basel
Giảng viên hướng dẫn: Đặng Thị Lan Phương

Lời mở đầu:
Trong xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng thương mại Viêt Nam cần
phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến
những thử thách thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế thì mới có thể đứng
vững trên thị trường. Để làm được những điều đó, Ngân hàng thương mại Việt Nam cần
tuân thủ một số hiệp ước quốc tế. Một trong những hiệp ước quốc tế được các nhà quẩn
trị ngân hàng quan tâm là hiệp ước vốn Basel về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng.
Hiệp ước này đã được rất nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam áp dụng làm chuẩn mực
để đánh giá và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng nước mình.
Trên thực tế, hiệp ước Basel cos rất nhiều quy tắc và chuẩn mực liên quan đến quy
trinh giám sát hoạt động gân hàng đặc biệt là các chuẩn mực giám sát hoạt động của các
tập đoàn tài chính-ngân hàng. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài “tìm hiểu về Basel” này,
trong nghiên cứu của mình nhóm chỉ thực hiện tìm hiểu và giới thiệu ngắn gọn về hiệp
ước Basel, lộ trình áp dụng Basel ở các nước. Do khả năng còn hạn chế, nên dù đã cố
gắng nhưng bài làm của nhóm không thể tránh khỏi những sai sót. Nhóm rất mong nhận
được sự góp ý và chỉ baỏ của thầy để bài làm được hoàn thiện hơn. Nhóm xin chân thành
cảm ơn!


A. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ
quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách
ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành
viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động
ngân hàng của Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây
Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế
ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp


được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các
tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ
ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân
hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những
hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ
vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù
hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc
áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ
thuật giám sát của các nước thành viên.
Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động
ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban.
Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng
trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ
bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và


(2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy
ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề này.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được
đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này
cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không
chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các
nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với
rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất
khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel
I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài
chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị

trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước
quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel: (1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên
(Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992. (2) Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro
thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). (3) Tháng 6/1999, đề xuất một
khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative Package
- CP1). (4) Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2). (5) Tháng 4/2003,
chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3). (6) Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn
(Basel II) được hoàn thiện. (7) Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. (8) Năm 2010, chấm
dứt quá trình chuyển đổi.
Ngày 12/9/2010, chuẩn mực vốn Basel III được BCBS đưa ra trong bối cảnh các
cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn cầu những năm 2007 - 2010, nhằm
bổ sung, khắc phục những hạn chế của Basel II, chủ yếu về quản lý thanh khoản, yêu cầu
vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế, giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn. Basel III có hiệu lực từ
năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018, sau đó thực hiện đầy đủ
kể từ 1/1/2019

I.

Basel I


1. Giới thiệu Basel I
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt một văn
bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital Accord hay Basel I),
yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể
đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất
định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối
thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Basel I không chỉ được phổ biến trong
các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng

hoạt động quốc tế. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và
cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì
vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo
rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi
ro tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ
ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động
kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996,
Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ
thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến
động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại
tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi
suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2
phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu
rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu
ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
2. Mục đích của Basel I:
- Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa
- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế;
- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm
cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.


3. Tiêu chuẩn của Basel I:
(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”:
Tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống
ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc
tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn
này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được
tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của

chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) =
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức
vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi
CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3:
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc
tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của
ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn tự có = Vốn cấp 1+ Vốn cấp 2
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Trong đó:
Các loại vốn
Vốn cấp 1

Nguốn vốn
1. Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn;
2. Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại);
3. Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất
báo cáo tài chính;
4. Lợi thế kinh doanh (goodwill).

Vốn cấp 2

1.
2.
3.
4.

Lợi nhuận giữ lại không công bố;

Dự phòng đánh giá lại tài sản;
Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung;
Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công
ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.

Vốn cấp 3

Vay ngắn hạn ( đành cho thị trường rủi ro)


(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân
đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh
nghiệp 100%... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi
loại này.
5. Những hạn chế của Basel I:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi
năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của
Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với
mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp (không có yêu cầu vốn dự
phòng rủi ro tác nghiệp).
Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: Không phân biệt theo loại
rủi ro; Việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi
ích từ việc đa dạng hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thông qua
đa dạng hóa danh mục đầu tư…).
II.
Basel II
1. Giới thiệu


Để khắc phục những hạn chế của Basel I và đối mặt với cuộ khủng hoảng kinh
tế, Ủy ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính. Ngày
26/6/2004, Basel II chính thức được ban hành. Cấu trúc của Basel II tập trung vào
định lương rủi ro cho các mục đích phân bổ vốn.
Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên
tắc chung và các luật ngân hàng của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước
về vốn Basel II được trình bày như một tập hợp các quy định được đề xuất mà có
thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ cho các ngân hàng trên thế
giới.
Tuy nhiên điều quan trọng hơn là hàng loạt các tác động kinh doanh và các
thách thức về quản lý rủi ro Basel II có thể mang đến cho các ngân hàng, đối thủ
cạnh tranh phi ngân hàng, khách hàng, cơ quan đánh giá và cuối cùng là các thị
trường vốn toàn cầu của họ.


Sự phức tạp của Hiệp Ước Mới, cũng như phụ thuộc lẫn nhau của nó với
Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế và các quy định của từng nơi trên toàn thế
giới, làm cho triển khai Basel II là một dự án có độ phức tạp cao.

2. Mục tiêu của Basel II:
- Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế;
- Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình
diện quốc tế;
- Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý
rủi ro. ( Đảm bảo vốn theo hướng nhạy cảm, phân biệt rủi ro hoạt động và rủi ro tín dụng,
thu hẹp khoảng cách giữa vốn quy định và vốn kinh tế)
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel
I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều
tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà
sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.

2. Các đặc điểm chủ yếu của Basel II


Vốn tối thiểu vẫn là 8% của tài sản có rủi ro.



Trọng số rủi ro sẽ phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng của từng khách hàng.



Chứng khoán sẽ được xem xét khi tính toán mức vốn yêu cầu.



Càng nhiều phương pháp phức tạp thì càng ít vốn an toàn.



Vốn phải bù đắp cho tất cả các loại rủi ro kể cả rủi ro hoạt động.



Hiệp ước vốn mới nhạy cảm hơn với rủi ro và quản lý rủi ro tốt hơn.



Hiệp ước mới bắt đầu có hiệu lực từ 31-12-2006.
3. Tác động của Basel II đến vốn
Hiệp ước mới cho biết chúng ta cần bao nhiêu vốn :




Vốn để chia cổ tức, bù đắp chi phí cơ hội đã mất.



Vốn không phải lúc nào cũng có thể tăng một cách dễ dàng.




Vốn cần cho hoạt động hơn là để bù đắp các rủi ro. VD: các hoạt động M&A, tăng
trưởng nội bộ, củng cố xếp hạng tín dụng.



Áp dụng Basel II mang lại cơ hội cho các ngân hàng



Sử dụng ít vốn một cách tiềm năng để bù đắp các rủi ro.



Quản lý kinh doanh tốt hơn.



Quản lý vốn hiệu quả hơn.




Nâng cao lợi nhuận trên vốn - một biện pháp quản lý chủ yếu.
Tác động của Basel II



Trên phạm vi quốc tế : Ở Châu Âu, mọi ngân hàng và công ty tư vấn dịch vụ đầu tư
(đặc biệt là các công ty có hoạt động quốc tế) phải tuân thủ các quy định mới về vốn và
quản trị rủi ro đối với mọi thành phần kinh doanh.



Lợi thế cạnh tranh : Các công ty có các danh mục rủi ro đa dạng và mở rộng có cơ hội
nâng cao vị thế trên thị trường.



Báo cáo minh bạch : Các quy tắc mở về vốn và quản trị rủi ro sẽ tác động trực tiếp đến
xếp hạng tín dụng và giá cổ phiếu.



Hoạt động kinh doanh hổn hợp : Các quy định mới về vốn và quản trị rủi ro có tác
động trực tiếp đến các quyết định đầu tư hay không đầu tư.
 Giám sát : Các nhà lập pháp có lẽ hy vọng các thể chế dẫn đầu sẽ đạt đến các phương
pháp tiên tiến nhất.
 Quản trị rủi ro : Sẽ có quy định và thị trường tiến bộ hơn rất nhiều chú trọng vào quản
trị rủi ro hiệu quả.

 Nỗ lực thực thi Basel II : Mặc dù các ngân hàng quản trị rủi ro ở nhiều cấp độ phức
tạp khác nhau, kiến trúc dữ liệu và hạ tầng cơ sở khác nhau, nhưng Basel II sẽ đưa ra
một chương trình thay đổi chủ yếu với chi phí có thể chấp nhận được.
4. Ba trụ cột chính của Basel II
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc.
Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có
rủi ro như Basel I.


Trong đó rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối
mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị
trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự
sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là
phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm
nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
CAR= >= 8%
(2) Trụ cột thứ II: Giám sát
Liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng. Trụ cột này cũng
cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi
ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
- Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ
vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì
mức vốn đó.
- Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội
bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ
vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ
không hài lòng với kết quả của quy trình này.
- Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức

tối thiểu theo quy định.
- Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của
ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay
lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III:Quy luật thị trường


Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc
thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai
thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên
quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận
hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Bảng về trọng số rủi ro
Trọng số rủi ro

Phân loại tài sản

0%

Tiền mặt và vàng năng trong ngân hàng
Các nghĩa vụ trả nợ của chính phủ và bộ tài chính

20 %

Các khoản trả nợ cho Ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan nhà nước

50%

Các khoản vay thế chấp nhà ở


100%

Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản trừ nọ
từ chúng khoán kém phát triển, các khoản vay thế chấp cổ phiếu kém phát
triển

Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch
hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro.
7. Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi
họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.


- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và
sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation
and Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa

nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo,
phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
III. Basel 3
1. Giới thiệu
Ngày 12/9/2010, chuẩn mực vốn Basel III được Uỷ ban Basel về Giám sát Ngân
hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) đưa ra trong bối cảnh các cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn cầu những năm 2007-2010. Basel III có
hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018, sau đó thực
hiện đầy đủ kể từ 1/1/2019.
2. Mục đích của Basel III
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lại một lần nữa khiến BCBS nhận
ra những "lỗ hổng" của Basel II dù từng được coi là một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh
cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính. Chuẩn mực vốn
Basel III ra đời nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Basel II, chủ yếu về quản lý
thanh khoản, yêu cầu vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế, giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn.
3. Nội dung của Basel III


Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất
lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ
tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối
thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường
hợp xảy ra khủng hoảng. Cụ thể, Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có
mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính
toán tài sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 )

Tóm tắt những thay đổi
(1) Yêu cầu về tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu

Chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng
lên. Trong đó, chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi nhuận
giữ lại. Hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn được giữ ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn vốn
cấp I phải đạt 6% trên 8% đó. Đáng chú ý là trong 6% vốn cấp I đó phải có 4.5% là vốn


của các cổ đông thông thường. Thời hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày
1/1/2015, với một lộ trình rõ ràng và chi tiết hơn. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu
từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Ngoài ra, các công cụ vốn cấp 2 sẽ
được cân đối hài hòa và vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ.
(2) Mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường: Tăng cường các
yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh, các nghiệp vụ bảo đảm
cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao dịch tài chính. Đồng thời, nâng cao
vốn dự phòng cho các rủi ro, giảm các chu kỳ và cung cấp các ưu đãi bổ sung để di
chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân
hàng (trung tâm thanh toán bù trừ). Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng
đối ứng.
(3) Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi ro
được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy nhằm
đạt được các mục tiêu. Một là, xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực
Ngân hàng. Hai là, đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo
bằng cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng
thể.
(4) Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm
vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm
chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ").
( 5) Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu
cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong
30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là Tỷ lệ dự
phòng bình ổn. Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các

biện pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan
trọng được thành lập có hệ thống.Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là:
7-9,5% (4,5%- 2,5% (bảo tồn vùng đệm), + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ
thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và 10,5-13 cho tổng số vốn.
4. Basel III đã khắc phục hạn chế của Basel II


Tiêu chí

Basel II

Basel III

Tỉ lệ vốn cấp 1

4%

6%

Tỉ lệ vốn cốt lõi trong 2%

4.5 % ( từ ngày 1/1/2015)

vốn cấp 1
CAR

>=8%

>=8% nhưng phân ra: Mức vốn tốt (>10%), Mức vốn thích
hợp(>8%),Thiếu vốn (<8%), Thiểu vốn rõ rệt(<6%), Thiểu

vốn trầm trọng(<2%)

Vốn bảo tồn vùng đệm

K có

2.5%( bắt đầu áp dụng từ 2019)

Vốn đếm ngươc chu kì

K có

2.5%( bắt đầu áp dụng từ 2019)

Trong khi Basel II chỉ quan tâm đến vấn đề an toàn vốn (hay vốn dựa vào rủi ro - Riskbased capital), Basel III tập trung vào 2 vấn đề: gia tăng tiêu chuẩn về an toàn vốn và đưa
ra các tiêu chuẩn về thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Như vậy,
điểm khác biệt quan trọng giữa 2 hiệp ước là Basel III chú ý nhiều hơn đối với vấn đề
thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cho thấy chính việc không chú trọng vấn đề thanh
khoản, đã khiến nhiều ngân hàng phải phá sản. Với Basel III, để có được sự ổn định trong
hệ thống tài chính, phải đáp ứng các quy định về tính thanh khoản và an toàn vốn. An
toàn vốn tạo nên tấm đệm vốn để sống sót trong dài hạn, còn thanh khoản là để sống sót
trong ngắn hạn. Một hệ thống tài chính vững mạnh không thể thiếu 1 trong 2 yếu tố này.
Vậy Basel III đã khắc phục được những khuyết điểm của Basel II nhờ vào:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn.
Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn.
Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân hàng
áp dụng.
B. Áp dụng Hiệp ước vốn Basel ở Việt Nam
Hiện tại Việt nam đang áp dụng Basel II và hướng tới sẽ áp dụng Basel III trong

tương lai
I.

Nguyên nhân áp dụng Basel II tại Việt Nam
Khảo sát một số quốc gia và châu lục cho thấy, trong khi các ngân hàng Việt
Nam mới áp dụng Basel I thì các ngân hàng trong khu vực đã áp dụng Basel II


hoặc Basel III. Việc áp dụng tiêu chuẩn Basel II vì vậy là một xu thế tất yếu và bắt
buộc khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với khu vực và trên thế giới.
Áp dụng thành công Basel II giúp các ngân hàng Việt Nam không chỉ dễ
dàng thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài mà sẽ tự mình mở rộng vươn xa ra thị
trường các nước phát triển.
II.

Việt nam đang áp dụng Basel II như thế nào
Để thúc đẩy các ngân hàng tiến tới áp dụng Basel II, NHNN đã ban hành
Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các TCTD; Thông tư 06 sửa đổi một số điều của Thông tư 36 nhằm
đưa các ngân hàng vào quỹ đạo hoạt động ngày càng an toàn hơn theo chuẩn mực
quốc tế. Điều này cho thấy hướng thay đổi chính sách của NHNN trong thời gian
gần đây đều đưa ra yêu cầu cao hơn đối với các ngân hàng.
Trước đây, khi điều kiện chung còn khó khăn, NHNN tạm thời giảm yêu cầu
về các chỉ số an toàn để hỗ trợ ngân hàng, hỗ trợ thị trường và nền kinh tế, tránh sự
sụp đổ, thiệt hại cho thị trường. Hiện các chuẩn mực được đưa ra đã thông dụng
trên thế giới và NHTM cũng đã lường trước việc NHNN sẽ đưa ra những chuẩn
mực cao như vậy để tiến tới áp dụng Basel II. Vấn đề là hiện nay nhiều ngân hàng
tại Việt Nam vẫn chưa đạt chuẩn Basel I. Nếu muốn áp dụng Basel II, các ngân
hàng phải cố gắng rất nhiều để tăng vốn, kiểm soát rủi ro, nâng cao trình độ quản
lý, điều hành và nâng cao an toàn hệ thống. Các vấn đề này là không hề dễ dàng

đối với các ngân hàng trong điều kiện hiện nay!
NHNN cũng đã vạch ra một lộ trình áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM một
cách cẩn trọng. Cụ thể:
Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng (Vietcombank,
VietinBank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và
Maritime Bank). Chương trình thí điểm bắt đầu từ tháng 2/2016, mục tiêu là đến
cuối năm 2018 các ngân hàng này phải cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II.
Giai đoạn 2: Đến năm 2020 cơ bản các NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực
của Basel II, trong đó có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (theo


nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020
ngày 8/11/2016).
Đánh giá về tính khả thi khi yêu cầu các NHTM tuân thủ theo chuẩn Basel II,
Công ty Kiểm toán EY Việt Nam cho rằng, mục tiêu hướng tới chuẩn Basel II vào
năm 2018 không phải quá xa vời. Việc ban hành các quy tắc tính toán vốn theo
phương pháp tiêu chuẩn của Basel II không phức tạp mà cái khó là ở các hệ số rủi
ro cần được thiết lập ở Việt Nam ở mức nào là phù hợp.
Hơn nữa, các NHTM đều đã thực hiện phân tích hiện trạng và đưa ra lộ trình
triển khai Basel II. Vì vậy, thách thức lớn nhất hiện nay là việc NHNN có kịp ban
hành các văn bản theo đúng thời hạn để các NHTM áp dụng hay không; NHNN sẽ
thiết lập các tỷ lệ an toàn ở mức độ như thế nào để phù hợp với mặt bằng các
NHTM trong nước và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi áp dụng
các tiêu chuẩn trên.
III.

Vì sao Việt Nam chưa áp dụng Basel III

Với nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới,
ngày 12/9/2010, hiệp định Basel III ra đời thay thế cho Basel II với những quy định

nghiêm ngặt hơn dành cho các ngân hàng thuộc 27 thành viên đã được Ủy ban Giám sát
ngân hàng Basel ban hành . Đã có rất nhiều nước trên thế giới áp dụng Basel III tuy nhiên
theo nhận định của nhiều chuyên gia, chấp nhận khuôn khổ Basel III cho toàn hệ thống
ngân hàng Việt Nam trong tương lai gần vẫn còn gặp nhiều khó khăn với những lí do sau
+ Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề không chỉ tồn tại ở ngân
hàng thương mại mà còn tồn tại ở chủ thể giám sát làm ngân hàng nhà nước.
+ Basel III đỏi hỏi cao hơn về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, hạ tầng, trihf độ công nghệ
thông tin cao hơn,… mà không phải NHTM nào cũng có thể đáp ứng được
+ Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp. Kết quả đánh giá nhóm tài sản
rủi ro và nhóm khách hàng,.. mang lặng tính chủ quan vì chưa có một tổ chức riêng biệt
đứng ra đánh giá
+ Vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo. Các NHTM còn bối rối trong việc xử lí báo
cáo dựa vào tiêu chuẩn kế toán của Việt nam và quốc tế
+ So với các ngân hàng trên thế giới có lịch sử tồn tại lâu đời, các NHTM Việt Nam vẫn
còn khá non trẻ, ít kinh nghiệm, ít vốn khó long để có thể đáp ứng và xử lí được những
yêu cầu khắt khe của Basel III


Tuy nhiên, trong tương lai các ngân hàng ở Việt Nam đặc biệt là những ngân hàng
hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ phải tuân thủ các chuẩn của Basel III để hoàn thiện
chính hệ thống quản trị rủi do ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, bản
thân mỗi ngân hàng cần thiết phải ngiên cứu thật sâu và nắm rõ các quy định trong Basel
III cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân vì sao chưa ứng dụng
được Basel III vào hoàn cảnh thực tế của chính ngân hàng mình. Từ đó, giải quyết các
vấn đề và xây dựng lộ trình thực hiện hợp lý.



×