Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

giáo trình sinh ly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.34 KB, 58 trang )

SINH LÝ HỆ TUẦN HOÀN
1. Sinh lý tim.
Tim có chức năng như là một cái bơm vừa hút vừa đẩy máu trong hệ thống tuần
hoàn. Tim là động lực chính của hệ thống tuần hoàn. Tim có chức năng đặc biệt
quan trọng trong tuần hoàn, do vậy tim cũng có cấu trúc đặc biệt phù hợp với chức
năng riêng của mình.
1.1. Cấu trúc và chức năng cơ tim.
Cơ tim gồm rất nhiều sợi cơ, mỗi sợi cơ là một tế bào cơ. Sợi cơ tim vừa giống
cơ trơn vừa giống cơ vân. Giống cơ vân ở chỗ có các sợi tơ cơ actin và myosin nên
có khả năng co giãn như cơ vân. Giống như cơ trơn đó là nhân của tế bào cơ cũng
nằm ở giữa trục của sợi cơ. Do cơ tim có cả hai tính chất trên nên sợi cơ tim co bóp
rất khoẻ. Mỗi sợi cơ đều có màng bao bọc riêng, dọc hai bên của những sợi cơ kề
nhau, màng sợi cơ hoà vào nhau một đoạn, làm thành cầu lan truyền hưng phấn từ
sợi cơ này sang sợi cơ khác, do đó tim hoạt động như một hợp bào. Cả quả tim có
hai khối hợp bào là hợp bào nhĩ và hợp bào thất. Trong sợi cơ tim có chứa nhiều
glycogen. Nhu cầu oxy của cơ tim cao hơn các tế bào khác do tim phải hoạt động
liên tục với cường độ cao.
1.2. Hệ thống nút tự động của tim.
Tim có khả năng tự động co bóp là nhờ hệ thống thần kinh tự động - hệ thống
nút.
Nút xoang là trung tâm tự động chính của tim. Nằm ở tâm nhĩ phải chỗ tĩnh
mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải. Nút xoang nhận sự chi phối của các sợi thần
kinh thuộc hệ giao cảm và phó giao cảm ( dây thần kinh X), từ đây phát ra luồng
xung động làm tim co bóp, điều khiển nhịp tim.
Nút nhĩ thất ra là trung tâm tự động phụ của tim. Nó nằm ở cơ tâm nhĩ phải cạnh
lỗ xoang tĩnh mạch vành đổ vào tâm nhĩ phải. Chịu sự chi phối của thần kinh giao
cảm và dây X. Nút này sẽ điều khiển tim đập khi nút Keith- Flack bị tổn thương và
khi đó tim sẽ đập chậm hơn, cả hai tâm nhĩ và hai tâm thất cùng co bóp một lúc.
Bó His có chức năng chủ yếu là dẫn truyền xung động từ nhĩ đến thất đi từ nút
Tavara tới vách liên thất thì chia thành hai nhánh phải và trái, chạy dưới nội tâm
mạc tới hai tâm thất. Đến tâm thất chúng lại chia thành các nhánh nhỏ chạy giữa




các sợi cơ tim tạo thành mạng lưới Purkinzer. Bó His chỉ nhận các sợi của hệ thần
kinh giao cảm.
Từ nút Keith- Flack xung động theo các thớ cơ lan dần đến tâm nhĩ phải, sang
tâm nhĩ trái và đến nút Tavara từ đây xung động theo bó His truyền đến hai tâm
thất. Vì vậy nếu bó này bị tổn thương tâm thất sẽ đập châm lại không ăn khớp với
nhịp của tâm nhĩ.
1.3. Các đặc tính sinh lý của cơ tim.
1.3.1. Tính hưng phấn.
Tính hưng phấn là khả năng đáp ứng với kích thích của cơ tim nhờ cơ chế phát
sinh điện thế hoạt động làm cho cơ tim co.
- Bình thường lúc tim nghỉ có điện thế màng khoảng -85mv đến - 95mv, còn các
sợi dẫn truyền là -90mv đến -100mv, lúc này gọi là trạng thái phân cực.
- Khi có điện thế hoạt động sẽ xuất hiện sự khử cực tức là mất trạng thái phân
cực làm cho điện thế tăng từ -85mv tới 0mv tức là trạng thái không phân cực.
Điều đặc biệt ở cơ tim khi khử cực điện thế tăng không chỉ đến 0mv mà tiếp tục
tăng đến +20mv, phần dương này gọi là điện thế quá đà, trạng thái quá đà này còn
được duy trì trong khoảng 0,2 - 0,3s do đó được gọi là cao nguyên. Sau cao nguyên
thì điện thế giảm xuống đột ngột và đánh dấu lúc kết thúc điện thế hoạt động.
- Hoạt động điện của cơ tim khác với cơ vân ở 2 diểm sau:
+ Cơ tim có kênh Ca chậm
Cơ xương có kênh Na+ nhanh khoảng vài phần 10000s khi mở thì lượng lớn ion
Na+ ồ ạt vào trong sợi cơ rất nhanh. Sau đó kênh đóng đột ngột. Quá trình tái cực
cũng xảy ra rất nhanh trong vài phần 10000s.
Cơ tim cũng có kênh Na+ nhanh như cơ xương ngoài ra còn có kênh Canxi
chậm gọi là kênh Na+ - Ca2+, kênh này mở rất dài tới vài phần 10s làm cho lượng
lớn ion Ca2+ vào sợi cơ tim do đó duy trì trạng thái khử cực khá dài. Trạng thái
khử cực dài này biểu hiện bằng đường ghi cao nguyên của điện thế.



+ Sự giảm tính thấm ion kali ở màng cơ tim . Trong khi có điện thế hoạt động,
tính thấm giảm chỉ còn 1/5 so với cơ khác do đó Kali ra ngoài màng rất chậm lên
không gây hiện tượng tái cực ngay được ( đặc điểm này không có ở cơ xương)
Do 2 yếu tố: kênh Na+ - Ca2+ chậm và giảm tính thấm kali ở màng cơ tim làm
cho cơ tim có hoạt động điện dài thể hiện ở đường cao nguyên của điện thế do đó
thời gian co cơ tim dài nhờ đó mà thực hiện được chức năng bơm máu của cơ tim.
Nhờ tính hưng phấn đặc biệt của cơ tim mà hoạt động co cơ tim theo quy luật tất
hoặc không nghĩa là khi cơ tim đáp ứng với kích thích tới hoặc trên ngưỡng thì
toàn bộ các sợi cơ tim trong khối cơ tim cùng co, nếu kích thích dưới ngưỡng thì
cơ tim không đáp ứng. Ngược lại với cơ vân thì: khi đáp ứng kích thích nó phụ
thuộc vào cường độ kích thích và số sợi cơ bị kích thích mà không đáp ứng tối đa
ngay.
1.3.2. Tính dẫn truyền
Trong sợi cơ tim, điện thế hoạt động được dẫn truyền với tốc độ 0,3 - 0,5m/s, chỉ
bằng 1/10 ở sợi cơ xương và 1/250 ở sợi thần kinh to. Tốc độ dẫn truyền trong hệ
thống nút và lưới Purkinje khác nhau khoảng từ 0,02 - 4m/s tuỳ từng phần tim.
1.3.3.Tính trơ có chu kỳ.
Tính trơ là tính không đáp ứng với kích thích, thể hiện là sau khi vừa hưng phấn
co cơ thì nếu có xung điện mới xuất hiện sẽ không có thể kích thích gây hưng phấn
mới được. Thời gian trơ ở tâm thất là 0,25 - 0,3s được gọi là trơ tuyệt đối, sau đó là
thời gian trơ tương đối nghĩa là có thể gây hưng phấn mới được tuỳ theo từng trạng
thái cụ thể. Nhờ tính trơ của tim giúp giải thích được hiện tượng ngoại tâm thu.
1.3.4. Tính nhịp điệu.
Tính nhịp điệu là khả năng phát xung động một cách nhịp nhàng làm cho tim có
tấn số nhất định. Cơ tim co, giãn, nghỉ rồi lại co, giãn, nghỉ, cứ thế gọi là nhịp tim
theo chu kỳ. Bình thường nhịp tim có tần số 70 - 80lần/phút, nhịp này được bắt đầu
khởi động do nút xoang phát xung truyền đi và lan toả khắp cơ tim.
Bình thường tim hoạt động theo sự dẫn nhịp của nút xoang nên có tần số 70 80lần/phút do đó nút xoang được gọi là nút dẫn nhịp tim ( Pacemaker). Khi nút
xoang bị tổn thương hoặc tắc nghẽn dẫn truyền xung động do mọi nguyên nhân thi

khi đó tim hoạt động theo nhịp của nut A-V hay bó His với tần số thấp hơn so với


nút xoang, khi đó gọi là nhịp nút do sự dẫn nhịp tim lạc chỗ, không phải là nút
xoang.
* ý nghĩa của các tính chất sinh lý của cơ tim
- Nhờ tính hưng phấn, tính dẫn truyền, tính nhịp điệu của cơ tim mà tim có khả
năng tự động co bóp đều đặn, nhịp nhàng ngay cả khi tim bị tách rời khỏi cơ thể và
được nuôi dưỡng trong một dung dịch thích hợp.
- Nhờ tính trơ có chu kỳ của cơ tim mà khi bị kích thích vào tim với tần số lớn,
tim vẫn không bị co cơ liên tiếp và không bị co cứng do đó giúp cho tim thực hiện
được chức năng bơm máu của mình trong cơ thể.
1.4. Chu kỳ hoạt động của tim
1.4.1. Giai đoạn tâm nhĩ thu.
Do xung động diện xuất phát từ nút xoang lan toả khắp cơ tâm nhĩ, lúc này van
nhĩ-thất vẫn còn đang mở, cơ tân nhĩ co có tác dụng đẩy nốt lượng máu còn lại
( khoảng 1/4 thể tích tâm thu) từ tâm nhĩ xuống tâm thất, làm cho áp suất tâm nhĩ
và tâm thất cùng tăng. Thời gian tâm nhĩ thu kéo dài khoảng 0,1s, sau khi co, cơ
tâm nhĩ giãn và nghỉ suốt thời kỳ còn lại của một chu kỳ tim.
1.4.2. Giai đoạn tâm thất thu.
Sau khi xung động điện lan toả khắp cơ tâm thất kích thích làm chơ cơ tâm thất
co. Tâm thất thu làm cho áp suất buồng tâm thất tăng vọt lên. Giai đoạn tâm thất
thu được phân thành 2 thời kỳ là tăng áp và tống máu
- Thời kỳ tăng áp: Bắt đầu từ khi áp suất tâm thất tăng vượt áp suất tâm nhĩ làm
cho van nhĩ thất đóng lại và kết thúc lúc áp suất tâm thất tăng vượt áp suất động
mạch làm cho van tổ chim mở. Thời kỳ tăng áp kéo dài khoảng 0,02 - 0,03s. Thời
kỳ này còn gọi là thời kỳ cơ tim co đẳng tích do cơ tâm thất co nhưng thể tích
buồng tâm thất không thay đổi do đó tạo ra sức dồn ép máu trong buồng tim.Mới
đầu áp suất buồng tâm thất chưa lớn hơn áp suất động mạch, van tổ chim chưa mở
làm cho áp suất trong buồng tim tăng lên rất cao.

- Thời kỳ tống máu: Ngay sau khi áp suất tâm thất tăng vọt lên và cao hơn áp
suất động mạch làm cho van tổ chim mở ra, máu được tống vào động mạch. Thời
kỳ tống máu bắt đầu từ khi van tổ chim mở đến khi van tổ chim đóng lạivà kéo dài
khoảng 0,25 - 0,3s. Cơ tâm thất co tống máu vào động mạch, khi cơ tâm thất bắt


đầu giãn làm cho áp suất buồng tâm thất giảm thấp hơn áp suất động mạch khi đó
van tổ chim đóng lại.
Như vậy giai đoạn tâm thất thu gồm 2 thì là thì tăng áp và thì tống máu với tổng
thời gian khoảng 0,3s.
1.4.3. Giai đoạn tâm trương toàn bộ.
Đây là giai đoạn cả tâm thất và tâm nhĩ đều giãn và nghỉ hoàn toàn không có
sóng điện thế, giai đoạn này kéo dài khoảng 0,4s bắt đầu từ lúc đóng van tổ chim
và kết thúc lúc cơ tâm nhĩ bắt đầu co. giai đoạn này gồm 3 thời kỳ: giãn đẳng tích,
máu về tâm thất nhanh và máu về tâm thất chậm.
- Thời kỳ giãn đẳng tích tức là cơ tim vẫn giãn nhưng thể tích buồng tâm thất
không thay đổi do van tổ chim đóng nhưng van nhĩ thất chưa mở, máu chưa vào
buồng tâm thất được do áp suất buồng tâm thất chưa thấp hơn áp suất buồng tâm
nhĩ.
- Thời kỳ máu về nhanh và máu về chậm liên tục nhau bắt đầu từ khi van nhĩ
thất mở do áp suất buồng tâm thất giảm thấp hơn áp suất buồng tâm nhĩ.
Dưới ảnh hưởng của xung động điện hoạt động của nút xoang phát sinh ở chu kỳ
tiếp theo làm cho cơ tâm nhĩ bắt đầu lại co để khởi đầu cho chu kỳ hoạt động tim
tiếp theo.
1.5. Lưu lượng tim.
Lưu lượng tim là lượng máu tim bơm vào động mạch trong một phút. Lưu lượng
tim trái bằng lưu lượng tim phải. Lưu lượng tim được tính theo công thức.

Q = Qs


Trong đó:
Q: Lưu lượng tim.
Qs: Thể tích tâm thu.

x

f


f: Tần số tim.
- Thể tích tâm thu tăng thì lưu lượng tim tăng. Trong lúc nghỉ ngơi thể tích tâm
thu khoảng 60 - 70ml, tần số tim khoảng 70 - 80 nhịp tính theo phút. Vì vậy lưu
lượng tim bình thường khoảng 4 - 5 lít/phút
- Tần số tim: Theo công thức tính lưu lượng tim thì khi tần số tăng làm cho lưu
lượng tim tăng và ngược lại. Tuy nhiên nghiên cứu động học tuần hoàn cho thấy
nếu tần số tim tăng quá cao trên 160l/phút làm cho thời gian tâm trương ngắn lại,
máu về tim ít do đó thể tích tân thu giảm làm cho lưu lượng tim giảm.
1.6. Điều hoà hoạt động của tim.
1.6.1. Điều hoà theo cơ chế Frank - Starling.
Theo cơ chế này thì khi máu đổ về các buồng tim càng nhiều thì các buồng tim
càng giãn căng. Các sợi cơ tim càng căng thì lực co càng lớn. Nhưng nếu như các
sợi cơ giãn quá mức thì các đầu sợi cơ không còn gối được lên nhau nữa làm giảm
hoặc mất trương lực cơ làm cho lưu lượng tim lại giảm.
1.6.2. Điều hoà theo cơ chế thần kinh và thể dịch.
* Vai trò của thần kinh thực vật.
+ Thần kinh giao cảm.
Thí nghiệm: Kích thích thần kinh giao cảm tới tim làm cho lưu lượng tim tăng
nguyên nhân là do tăng các hoạt động tim như tần số tim ( có thể tần số tim lên tới
200l/phút ở người trẻ), tăng thể tích tâm thu, tăng áp suất tống máu của tim. Ngược
lại nếu ức chế thần kinh giao cảm đến tim thì làm cho hoạt động tim giảm tới 30%

nguyên nhân là do giảm tần số tim, giảm lực co bóp của tim…
+ Thần kinh phó giao cảm.
Thí nghiệm: kích thích thần kinh phó giao cảm ( TK X) tới tim thì làm cho tim
đập chậm lại có khi ngừng đập nếu tiếp tục kích thích thì tim có thể đập trở lại do
hiện tượng thoát ức chế nhưng với tần số tim chậm ( 20-30l/phút), làm cho lưu
lượng tim giảm có khi tới 50%.
* Vai trò thể dịch điều hoà hoạt động tim.


+ Ion K+ ngoại bào mà tăng sẽ làm giảm điện thế nghỉ của màng sợi cơ tim dẫn
đến giảm dẫn truyền xung động thần kinh tim và hậu quả là tim dập chậm và yếu.
+ Ion Ca2+ ngoại bào tăng sẽ làm tăng co cơ tim, ngược lại khi ion Ca2+ giảm
sẽ làm giảm hoạt động tim. Chính vì lẽ đó mà nồng độ Ca2+ máu luôn rất ổn định
góp phần duy trì hoạt động của tim.
+ Nhiệt độ: Khi nhiệt độ cơ thể tăng sẽ làm tăng tần số tim và ngược lại, điều
này được ứng dụng để hạ nhiệt nhân tạo ( thân nhiệt xuống 25 -300C) trong phẫu
thuật tim, não, thận…
+ Hoocmon ( H): Một số hoocmon có tác dụng làm tăng hoạt động tim như
hoocmon tuỷ thượng thận, tuyến giáp. Ngược lại một số chất có tác dụng giống
phó giao cảm làm cho tim đập chậm lại.
2. Sinh lý mạch máu.
2.1. Sơ đồ tuần hoàn mạch máu :
Toàn bộ mạch máu cùng với tim tạo thành vòng kín: Đại tuần hoàn và tiểu tuần
hoàn.
2.2. Vòng đại tuần hoàn :
Vòng đại tuần hoàn bắt đầu từ tâm thất trái qua động mạch chủ đến lưới mao
mạch rồi qua tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới trở về tâm nhĩ phải.
Vòng này mang máu có nhiều Oxy và chất dinh dưỡng theo động mạch chủ đến
khắp các nơi trong cơ thể để nuôi tế bào, và nhận thêm chất tế bào bài tiết ra đưa
vào 2 tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới đi tới các bộ phận và bài tiết ra

ngoài.
2.3. Vòng tiểu tuần hoàn :
Vòng tiểu tuần hoàn bắt đầu từ tâm thất phải qua động mạch phổi lên 2 phổi rồi
qua 4 tĩnh mạch phổi trở về tâm nhĩ trái.
Vòng này mang máu có nhiều khí cacbonic và ít Oxy lên phổi để trao đổi khí ở
phế nang (nhả khí cacbonic vào phổi để theo đường dẫn khí thải ra ngoài và nhận
Oxy từ phổi vào máu) để thành máu có nhiều Oxy và ít khí cacbonic đưa về tâm
nhĩ trái qua 4 tĩnh mạch phổi.


2.4. Sự chuyển động của máu trong mạch máu :
Mỗi lần tâm thu, tim co bóp tống máu từ tâm thất vào động mạch gặp sức cản
của động mạch và làm căng giãn thành động mạch. Đến thì tâm trưưng không có
sức đẩy của tim nữa mà máu vẫn lưu thông liên tục là nhờ tính đàn hồi làm thành
động mạch thu lại gây áp lực đẩy máu đi, máu chảy từ nơi có áp lực cao đến nơi có
áp lực thấp nên máu chảy từ động mạch tới mao mạch rồi qua tĩnh mạch. Khi đến
tĩnh mạch dòng máu trở nên đều đặn theo hướng đổ về tim.
2.5. Huyết áp:
Huyết áp là áp lực của máu tác động vào thành mạch, huyết áp giảm dần từ đầu
hệ thống mạch máu (các động mạch lớn từ tâm thất ra). Đến cuối hệ thống mạch
máu (các tĩnh mạch lớn đổ vào tâm nhĩ) vì vậy ta có 2 loại huyết áp: Huyết áp
động mạch và huyết áp tĩnh mạch.
2.5.1. Huyết áp động mạch :
- Nhân tố tuần hoàn: Huyết áp động mạch là kết quả tổng hợp của 4 nhân tố tuần
hoàn.
+ Sức co bóp của tim: Tim co bóp mạnh sẽ làm cho huyết áp cao.
+ Sức cản ngoại biên: Sức cản lớn (khi mạch máu co hoặc thành mạch máu xơ
cứng) làm cho huyết áp cao.
+ Khối lượng máu: Nhiều thì huyết áp cao và ít thì huyết áp thấp vì vậy khi bị
chảy máu nhiều thì huyết áp sẽ tụt xuống nhiều.

+ Độ quánh của máu: So với nước có độ quánh là 1, thì độ quánh của máu là 4,5
đến 4,7. Độ quánh của máu tăng như khi hồng cầu tăng, các chất Protit trong huyết
tương tăng sẽ cản trở sự lưu thông máu làm cho huyết áp cao.
- Đo huyết áp: ở động mạch cánh tay, động mạch cỡ trung bình ta thấy huyết áp
thay đổi giữa 2 trị số tối đa và tối thiểu.
+ Huyết áp tối đa (hay huyết áp tâm thu): Khi tâm thu, tim co bóp đẩy máu với
một áp lực cao nhất. ở người lớn, huyết áp tối đa bình thường là 110 - 120 mmHg.


+ Huyết áp tối thiểu (hay huyết áp tâm trương): Khi tâm trương, sức đàn hồi của
động mạch đẩy máu với một áp lực thấp nhất vừa đủ thắng được sức cản ngoại
biên. ở người lớn, huyết áp tối thiểu bình thường là 70 - 80 mmHg.
Ta thường viết trị số huyết áp động mạch dưới dạng phân số 120/70 mmHg (tử
số là huyết áp tối đa, mẫu số là huyết áp tối thiểu).
Huyết áp động mạch có thể thay đổi theo sinh lý và theo bệnh lý; theo sinh lý,
huyết áp thấp hơn ở nữ giới (110/60 mmHg), ở trẻ sơ sinh (70/40 mmHg) hoặc lúc
ngủ. Huyết áp cao hơn ở người già (140/90 mmHg) hoặc thời gian lao động chân
tay. Theo bệnh lý, nếu huyết áp tối đa trên 140 mmHg và huyết áp tối thiểu trên 90
mmHg là tăng huyết áp. Tăng huyết áp tối đa ít nguy hiểm hơn tăng huyết áp tối
thiểu vì huyết áp tối đa là do phản ứng nhất thời của tim, còn huyết áp tối thiểu
tăng là do tuần hoàn ngoại biên đã có những rối loạn lâu dài và trầm trọng như xơ
cứng động mạch v.v...
Nếu huyết áp tối đa thấp hơn 100 mmHg và tối thiểu thấp hơn 60 mmHg là hạ
huyết áp. Hạ huyết áp tối đa là do giảm sức co bóp của tim và hạ huyết áp tối thiểu
là do giãn động mạch nhất là những động mạch nhỏ, do chảy máu, v.v...
2.5.2. Huyết áp tĩnh mạch:
Đo huyết áp tĩnh mạch trên các tĩnh mạch cỡ trung bình (như tĩnh mạch khuỷu
tay) bằng áp kế ta thấy huyết áp tĩnh mạch chỉ có một trị số trung bình ở người lớn
là 12 - 13 cm nước vì dòng máu đã chảy đều đặn.
Trị số này giảm dần từ đầu hệ thống tĩnh mạch (giáp mao mạch) đến cuối hệ

thống tĩnh mạch và trở thành âm tính ở các tĩnh mạch lớn trong lồng ngực vì các
tĩnh mạch lớn này chịu sức hút của tâm nhĩ và lồng ngực.
Huyết áp tĩnh mạch tăng trong suy tim phải, tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
2.6. Mạch đập :
Khi ta ấn nhẹ ngón tay lên vùng động mạch nằm trên xương và dưới lớp da,
thường ở cổ tay, ở thái dương, ở cổ, bẹn ta sẽ thấy mạch đập. Tần số mạch đập
tương đương với tần số tim đập tức là 70 - 80 lần trong 1 phút ở người lớn. Mạch
đập là do làn sóng rung động phát sinh ở động mạch chủ do ảnh hưởng của tâm
thất thu lan truyền tới chứ không phải là do máu chảy tới nơi bắt mạch, làn sóng
rung động càng lan ra xa càng yếu dần và tới đầu lưới mao mạch thì không còn nữa
nên ta không thấy hiện tượng mạch đập ở trên tĩnh mạch.


2.7. Những nguyên nhân chuyển máu từ tĩnh mạch trở về tim :
Tĩnh mạch là nơi có áp lực thấp. Máu từ tĩnh mạch trở về tim được là do các
nguyên nhân sau :
2.7.1. Sức co bóp của tim :
Thì tâm thu, tim co bóp đẩy một lượng máu mới, động mạch dồn lượng máu cũ
đi tới. Thì tâm trương, tim giãn ra hút máu từ các tĩnh mạch về.
2.7.2. Sức hút của lồng ngực :
Khi hít vào, lồng ngực nở rộng ra làm giãn rộng các tĩnh mạch lớn ở trong lồng
ngực gây ra sức hút máu về tâm nhĩ.
2.7.3. Sức ép của cơ hoành :
Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp xuống ép lên các cơ quan ở bụng dồn máu từ các
tĩnh mạch trong bụng về các tĩnh mạch trong lồng ngực để về tâm nhĩ phải.
2.7.4. Động mạch đập:
Động mạch và tĩnh mạch thường nằm cạnh nhau trong một bao không co giãn
nên khi động mạch đập sẽ ép vào tĩnh mạch làm chuyển động máu trong tĩnh
mạch. Máu trong tĩnh mạch chỉ chảy theo một chiều về tim nhờ các van tĩnh mạch.
2.7.5. Sức co cơ:

Các cơ co sẽ ép vào tĩnh mạch dồn máu chảy theo hướng về tim nhờ có các van
tĩnh mạch đặc biệt là các van tĩnh mạch ở chi dưới. Nhưng nếu co cơ lâu mà không
giãn ra thì sẽ cản trở tuần hoàn.
2.7.6. Trọng lực :
Là một yếu tố thuận lợi cho tuần hoàn đối với các tĩnh mạch ở trên tim nhưng lại
bất lợi cho tuần hoàn đối với các tĩnh mạch phía dưới tim nhưng nhờ có các van
tim làm máu khỏi chạy ngược lại.


SINH LÝ MÁU
I - KHỐI LƯỢNG VÀ THÀNH PHẦN CỦA MÁU :
1. Khối lượng máu :
Lượng máu trong cơ thể chiếm khoảng 8% so với trọng lượng. Trong đó:
- 50 % là máu lưu thông; nằm trong tim, động mạch, tĩnh mạch và mao
mạch
- 50% là máu dự trữ : ở gan, lá lách và ở dưới da
2. Thành phần của máu :
Trong máu có 2 thành phần chính :
- Huyết cầu (chiếm 45%) gồm có hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
- Huyết tương (chiếm 55%) gồm huyết thanh và fibrinogen.

3. Huyết tương


là chất lỏng màu vàng nhạt gồm nước, muối khoáng (muối Na+, Ca 2+, K+, Cl- …)
và các chất hữu cơ hoà tan (Albumin, Fibrinogen…). Huyết tương có những chức
năng sau :
* Vận chuyển các chất dinh dưỡng từ ruột non đến các cơ quan, vận chuyển chất
bả từ các cơ quan đến thận và các tuyến mồ hôi
* Vận chuyển các kích thích tố ( hocmon ) từ các tuyến nội tiết đến các cơ quan để

kích thích và điều hoà hoạt động.
* Điều hoà nhiệt độ cơ thể:
Máu có khả năng làm tăng giảm nhiệt độ cơ thể một cách nhanh chóng là nhờ
trong máu có nhiều nước, tỉ nhiệt của nước rất cao. Nước bốc hơi làm giảm nhiệt
cho cơ thể lúc chống nóng. Nước chuyển đến các cơ quan lúc chống lạnh.
* Điều hoà pH nhờ có chứa các chất đệm : (pH của máu : # 7,3)
Thí dụ : HCl + NaHCO3



NaCl + H2CO3

NaOH + H2CO3  NaHCO3 + H2O
4. Huyết cầu :
* Hồng cầu :
- Số lượng hồng cầu khoảng hơn 4 triệu trong 1mm3 máu. Phụ nữ có ít hơn
nam, khoảng 3.800.000.
- Hồng cầu là những tế bào không nhân, hình đĩa lõm 2 mặt, đường kính
khoảng 7 micromet, dày 1-2 micromet
- Hồng cầu có huyết cầu tố Hemoglobin ( Hb ) có khả năng kết hợp với O2
và CO2 nên nó vận chuyển O2 từ phổi đến các cơ quan và vận chuyển CO2 từ các
cơ quan về phổi.
Hemoglobin là một protein có màu gồm có một sắc tố chứa đựng sắt ( Fe ) gọi là
hem kết hợp với một protein không màu gọi là globin.
- Hồng cầu được sản sinh từ tuỷ xương, thời gian sống của mỗi hồng cầu từ
100 đến 120 ngày.


5. Bạch cầu :
- Số lượng : có 8.000 / 1mm3 máu (nam ), 6.000 (nữ )

- Bạch cầu là những tế bào có nhân, có hình dạng thay đổi, kích thước rất khác
nhau tuỳ theo loại bạch cầu
+ Bạch cầu có hạt : chiếm 2/3, trong nguyên sinh chất có nhiều hạt bắt màu,
đường kính khoảng 10 micromet, có nhân chia thành nhiều thuỳ. Có vai trò thực
bào và tạo chất hêparin chống đông máu. Có 3 loại bạch cầu hạt :
Bạch cầu hạt trung tính
Bạch cầu hạt ưa axit
Bạch cầu hạt ưa kiềm
+ Bạch cầu không hạt : chiếm 1/3, trong nguyên sinh chất không có những hạt bắt
màu, có một nhân. Có 2 loại :
Bạch cầu đơn nhân : có đường kính 15 micromet, có khả năng thực bào.
Bạch cầu limpho : đường kính 8 micromet, có khả năng tạo ra kháng thể.
Bạch cầu có khả năng chui qua thành mao mạch để di chuyển đến các cơ quan bị
nhiễm trùng, tiết ra kháng thể để tiêu diệt và thực bào các vi trùng và các vật lạ.
Bạch cầu được sản sinh từ tủy xương, hạch bạch huyết, lá lách. Thời gian sống
khoảng 4 ngày tùy theo loại bạch cầu.
6. Tiểu cầu :
- Số lượng : 200.000 đến 400.000 /1mm3 máu
- Tiểu cầu được tạo ra từ những mảnh vỡ của tế bào nhân khổng lồ ở tủy xương
nên hình dáng không nhất định ( hình tròn, hình thoi, hình sao … ), đường kính
khoảng 3 micromet.
- Tiểu cầu tiết ra men thrombokinaza và giải phóng chất thromboplastin góp phần
trong quá trình đông máu . Tiểu cầu còn giải phóng serotonin là một chất gây co
mạch, đóng miệng vết thương, cầm máu.


- Đời sống khoảng 8- 12 ngày.
II. SỰ ĐÔNG MÁU
1 - Các chất cần thiết cho sự đông máu :
- Fibrinogen là protein hoà tan trong huyết tương, thromboplastin do tiểu cầu

vỡ giải phóng ra.
- Prothrombin là 1 loại protein do gan tạo ra nhờ vitamin K
- Ion Ca++ từ thức ăn đưa vào máu
- Thrombokinaza là một loại men do tiểu cầu tạo ra
2 - Các giai đoạn đông máu :
- Các tổ chức bị tổn thương và huyết tương sản xuất thromboplastin. Sau đó
được hoạt hóa thành thromboplastin dạng hoạt động ( thrombokinaza)
- Chất prothrombin trong huyết tương mỗi khi chịu tác dụng của các chất
thromboplastin, ion Ca++và thrombokinaza là biến thành thrombin.
- Dưới tác dụng phối hợp của thrombin, Ca ++, chất fibrinogen là protein hoà
tan trong huyết tương biến thành tơ huyết fibrin không hoà tan tạo thành một mạng
lưới dầy đặc bao lấy khối huyết cầu thành cục huyết, chất lỏng còn lại gọi là huyết
thanh.
3 – Các chất ảnh hưởng đến sự đông máu :
- Muối Ca2+, vitamin K : làm nhanh đông máu.
- Heparin (do gan và bạch cầu tiết ra), muối Na+, Hidurin (do con đỉa tiết ra)
… : làm chậm đông máu.
- Một số người không có khả năng tạo ra Thromboplastin ( bệnh máu khó
đông).
III. CÁC NHÓM MÁU :
1 - NHÓM OAB : (Landsteiner 1901 )


- Màng của hồng cầu có 2 loại kháng nguyên gọi là ngưng kết nguyên A và
B.
- Huyết tương có 2 loại kháng thể gọi là các ngưng kết tố : ( anti A ) và
( anti B ) .
- Dựa vào sự có mặt của các kháng nguyên và các kháng thể người ta chia
máu người thành 4 nhóm :


SƠ ĐỒ TRUYỀN MU
Tỷ lệ các nhóm máu ở người Việt Nam
Nhóm máu

A

B

AB

O

Tỷ lệ

19.8 %

28.6%

4.2%

47.3%

Nguyn tắc truyền máu :


- Nguyên tắc chung : người có nhóm máu nào truyền cho đúng nhóm máu đó.
- Nếu khơng có nhóm máu cùng loại thì có thể truyền khác nhóm theo nguyên
tắc sau : ngưng kết nguyên trên hồng cầu máu người cho không bị ngưng kết
bởi ngưng kết tố tương ứng trong huyết tương máu người nhận.
Như vậy :

- Máu O : không có ngưng kết nguyên A v B, nên không bị ngưng kết tố
trong huyết tương người nhận làm ngưng kết  máu O có thể cho tất cả các
nhóm.
- Máu AB : không có ngưng kết tố trong huyết tương, nên không ngưng kết
hồng cầu của máu người cho  máu AB nhận được máu của tất cả cc nhóm.
- Máu A có thể truyền cho máu AB và cho chính nó, khơng thể truyền cho
máu O và B vì trong máu O và B có chứa ngưng kết tố gây ngưng kết hồng
cầu của máu A.
- Máu B có thể truyền cho máu AB và cho chính nó, không thể truyền cho
máu O và A vì trong máu O và A có chứa ngưng kết tố gây ngưng kết hồng
cầu của máu B.
Xác định nhóm máu : chuẩn bị 2 mẫu huyết thanh của nhóm máu A và B. Lấy giọt
máu muốn thử nhỏ vào 2 mẫu huyết thanh trên :
• - Nếu không đông ở cả 2 mẫu huyết thanh : máu thử là máu O.
• - Nếu đông ở cả 2 mẫu huyết thanh : máu AB
• - Nếu chỉ đông ở mẫu huyết thanh A : máu B
• - Nếu chỉ đông ở mẫu huyết thanh B : máu A.
2 - Nhóm Rhésus : ( Rh )
(Theo Landsteiner và Wiener, 1940)
- Những người có kháng nguyên Rh được gọi là Rh+
- Những người không có kháng nguyên Rh được gọi là Rh-


Máu người VN 99,93% là máu Rh+ ; 0,07% là máu Rh Nếu truyền máu nguời có Rh+ cho người có Rh- thì sẽ xảy ra ngưng
kết . Vì máu người có Rh- sẽ sản xuất 1 kháng thể đặc biệt goị là
ngưng kết tố Anti Rh , do đó nếu truyền 2 lần thì tai nạn sẽ xảy ra.
- Ngưng kết nguyên Rh còn gây bệnh hoại huyết ở trẻ sơ sinh :
Nếu cha là Rh+ và mẹ là Rh- thì theo qui luật tính trội các con thường là
Rh+ . Ở lần mang thai đầu tiên thì sự qua lại giữa máu con và máu mẹ làm sinh ra
ngưng kết tố AntiRh trong máu mẹ, lần mang thai thứ 2 thì AntiRh truyền từ mẹ

sang làm cho hồng cầu của máu con bị ngưng kết và hủy hoại.
IV . SỰ THAY ĐỔI THÀNH PHẦN MÁU TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG
- Nồng độ của máu tăng là do mất nước qua đường mồ hôi.
- Lượng axit lactic tăng do co cơ yếm khí làm giảm độ pH.
- Số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu đều tăng.


SINH LÝ NỘI TIẾT
Nội dung
Chức năng của cơ thể được điều hoà bằng hai hệ thống chủ yếu đó là hệ thống thần kinh và hệ
thống thể dịch. Vai trò điều hoà của hệ thống thần kinh sẽ được đề cập đến trong bài Sinh lý thần
kinh.
Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm nhiều yếu tố như thể tích máu, các
thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các loại khí, nồng độ các ion và đặc biệt là nồng độ
các hormon nội tiết. Chính vì vậy, hệ thống thể dịch còn được gọi là hệ thống nội tiết.
Nhìn chung, hệ thống nội tiết chủ yếu điều hoà các chức năng chuyển hoá của cơ thể như điều
hoà tốc độ các phản ứng hoá học ở tế bào, điều hoà sự vận chuyển vật chất qua màng tế bào hoặc
các quá trình chuyển hoá khác của tế bào như sự phát triển, sự bài tiết. Tuy nhiên, tác dụng điều
hoà của các hormon thì không giống nhau. Một số hormon, tác dụng xuất hiện sau vài giây trong
khi một số hormon khác lại cần vài ngày nhưng sau đó tác dụng có thể kéo dài vài ngày, vài tuần,
thậm chí vài tháng.
1. Đại cương về hệ nội tiết và hormone
1.1. Định nghĩa
1.1.1. Định nghĩa tuyến nội tiết
Khác với tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến tụy ngoại tiết, tuyến dạ dày... là những
tuyến có ống dẫn, chất bài tiết được đổ vào một cơ quan nào đó qua ống tuyến; tuyến nội tiết lại
là những tuyến không có ống dẫn, chất bài tiết được đưa vào máu rồi được máu đưa đến các cơ
quan, các mô trong cơ thể và gây ra các tác dụng ở đó.
Các tuyến nội tiết chính của cơ thể gồm vùng dưới đồi, tuyến tùng, tuyến yên, tuyến giáp,
tuyến cận giáp, tuyến tụy nội tiết, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục nam và nữ, rau thai.

1.1.2. Định nghĩa hormon
Hormon là những chất hoá học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài tiết vào máu
rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc mô khác trong cơ thể và gây ra các tác dụng sinh lý ở đó.
1.2. Phân loại hormon
Dựa vào nơi bài tiết và nơi tác dụng, người ta phân các hormon thành hai loại đó là hormon
tại chỗ (hormon địa phương) và hormon của các tuyến nội tiết.
1.2.1. Hormon tại chỗ


Hormon tại chỗ là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết vào máu rồi được máu đưa đến
các tế bào khác ở gần nơi bài tiết để gây ra các tác dụng sinh lý.
Ví dụ: Secretin, cholecystokinin, histamin, prostaglandin...
1.2.2. Hormon của các tuyến nội tiết
Khác với các hormon tại chỗ, các hormon của các tuyến nội tiết thường được máu đưa đến
các mô, các cơ quan ở xa nơi bài tiết và gây ra các tác dụng sinh lý ở đó.
Các hormon do các tuyến nội tiết bài tiết lại được phân thành hai loại khác nhau:
- Một số hormon có tác dụng lên hầu hết các mô ở trong cơ thể như hormon GH của tuyến
yên; T3, T4 của tuyến giáp, cortisol của vỏ thượng thận, insulin của tuyến tụy nội tiết...
- Một số hormon chỉ có tác dụng đặc hiệu lên một mô hoặc một cơ quan nào đó như hormon
ACTH, TSH, FSH, LH... của tuyến yên. Các mô hoặc cơ quan chịu tác dụng đặc hiệu của những
hormon này được gọi là mô hoặc cơ quan đích.
1.3. Bản chất hoá học của hormon
Các hormon thường có bản chất hoá học thuộc một trong ba loại sau đây:
- Steroid: Đây là những hormon có cấu trúc hoá học giống cholesterol và hầu hết được tổng
hợp từ cholesterol như hormon của vỏ thượng thận (cortisol, aldosteron), từ tuyến sinh dục
(estrogen, progesteron, testosteron).
- Dẫn xuất của acid amin là tyrosin: Hai nhóm hormon được tổng hợp từ tyrosin đó là hormon
của tuyến tủy thượng thận (adrenalin, noradrenalin) và hormon của tuyến giáp (T3, T4).
- Protein và peptid: Hầu như tất cả các hormon còn lại của cơ thể là protein, peptid, hoặc dẫn
xuất của hai loại này như các hormon vùng dưới đồi, hormon tuyến yên, hormon tuyến cận giáp,

hormon tuyến tụy nội tiết và hầu hết các hormon tại chỗ.
1.4. Chất tiếp nhận hormon tại tế bào đích (receptor)
Khi đến tế bào đích, các hormon thường không tác dụng trực tiếp vào các cấu trúc trong tế
bào để điều hoà các phản ứng hoá học ở bên trong tế bào mà chúng thường gắn với các chất tiếp
nhận – các receptor ở trên bề mặt hoặc ở trong tế bào đích. Phức hợp hormon – receptor sau đó
sẽ phát động một chuỗi các phản ứng hoá học ở trong tế bào. Tất cả hoặc hầu như tất cả receptor
đều là những phân tử protein có trọng lượng phân tử lớn. Mỗi tế bào đích thường có khoảng
2.000 – 100.000 receptor.
Mỗi receptor thường đặc hiệu với một hormon, chính điều này quyết định tác dụng đặc hiệu
của hormon lên mô đích. Mô đích chịu tác dụng của hormon chính là mô có chứa các receptor


đặc hiệu tiếp nhận hormon đó. Các receptor tiếp nhận các loại hormon khác nhau có thể nằm trên
màng tế bào, trong bào tương hoặc trong nhân tế bào.
1.5. Cơ chế tác dụng của hormon
Sau khi hormon gắn với receptor tại tế bào đích, hormon sẽ hoạt hoá receptor, nói cách khác
là làm cho receptor tự nó thay đổi cấu trúc và chức năng. Chính những receptor này sẽ gây ra các
tác dụng tiếp theo như làm thay đổi tính thấm màng tế bào (mở kênh hoặc đóng các kênh ion),
hoạt hoá hệ thống enzym ở trong tế bào do hormon gắn với receptor trên màng tế bào, hoạt hoá
hệ gen do hormon gắn với receptor ở nhân tế bào. Tuỳ thuộc vào bản chất hoá học của hormon
mà vị trí gắn của hormon với receptor sẽ xảy ra trên màng, trong bào tương hoặc trong nhân tế
bào.
1.5.1. Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trên màng tế bào
Hầu hết các hormon có bản chất hoá học là protein, peptid, dẫn xuất của acid amin khi đến tế
bào đích đều gắn với các receptor nằm ngay trên màng tế bào. Phức hợp hormon - receptor này
sẽ tác động vào hoạt động của tế bào đích thông qua một chất trung gian được gọi là chất truyền
tin thứ hai.
1.5.1.1. Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là AMP vòng
Sau khi gắn với receptor trên màng tế bào, phức hợp hormon - receptor sẽ hoạt hoá một
enzym nằm trên màng tế bào là adenylcyclase. Enzym này xúc tác phản ứng tạo ra các phân tử

cyclic 3’ - 5’ adenosin monophosphat (AMP vòng) từ các phân tử ATP. Phản ứng này xảy ra ở
bào tương. Sau khi được tạo thành, ngay lập tức AMP vòng hoạt hoá một chuỗi các enzym khác
theo kiểu dây chuyền. Ví dụ: Enzym thứ nhất sau khi được hoạt hoá sẽ hoạt hoá tiếp enzym thứ
hai, rồi enzym thứ hai lại hoạt hoá tiếp enzym thứ ba, cứ thế tiếp tục enzym thứ tư, thứ năm...
Với kiểu tác dụng như vậy chỉ cần một lượng rất nhỏ hormon tác động trên bề mặt tế bào đích
cũng đủ gây ra một động lực hoạt hoá mạnh cho toàn tế bào. Hệ thống enzym đáp ứng với AMP
vòng ở tế bào đích có thể khác nhau giữa tế bào này với tế bào khác nhưng chúng có cùng một
họ chung là proteinkinase. Các tác dụng mà hormon gây ra ở tế bào đích có thể là tăng tính thấm
của màng tế bào, tăng tổng hợp protein, tăng bài tiết, co hoặc giãn cơ
1.5.1.2. Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trên màng tế bào
Sau khi gây ra các tác dụng sinh lý tại tế bào đích, AMP vòng bị bất hoạt để trở thành 5’AMP
dưới tác dụng của enzym phosphodiesterase có trong bào tương tế bào đích.
1.5.1.3. Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là ion calci và calmodulin


Một số hormon hoặc chất truyền đạt thần kinh gắn với receptor (protein kênh) trên màng tế
bào đích nó sẽ làm mở kênh ion calci và calci được vận chuyển vào trong tế bào. Tại bào tương,
calci gắn với một loại protein là calmodulin, phân tử calmodulin được hoạt hoá và gây ra một
loạt tác dụng trong tế bào theo cách như của AMP vòng. Một trong những tác dụng đặc hiệu của
calmodulin là hoạt hoá enzym myosinkinase là enzym tác dụng trực tiếp lên sợi myosin của cơ
trơn để làm co cơ trơn.
1.5.2. Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trong tế bào
Các hormon steroid đến tế bào đích thì khuếch tán qua màng vào bào tương gắn với receptor
trong bào tương để tạo thành phức hợp hormon – receptor, phức hợp này sẽ được vận chuyển từ
bào tương vào nhân tế bào. Tại nhân tế bào, phức hợp hormon – receptor sẽ gắn vào các vị trí
đặc hiệu trên phân tử DNA của nhiễm sắc thể và hoạt hoá sự sao chép của gen đặc hiệu để tạo
thành RNA thông tin. Sau khi được tạo thành, RNA thông tin sẽ khuếch tán ra bào tương và thúc
đẩy quá trình dịch mã tại ribosom để tổng hợp các phân tử protein mới. Những phân tử protein
này có thể là các phân tử enzym hoặc phân tử protein vận tải hoặc protein cấu trúc
Kiểu tác dụng này thường xuất hiện chậm sau vài chục phút đến vài giờ, thậm chí vài ngày

nhưng tác dụng kéo dài, điều này thường trái ngược với tác dụng xảy ra tức khắc của các hormon
tác dụng thông qua AMP vòng.
Hormon T3, T4 của tuyến giáp cũng tác động tại tế bào đích theo cơ chế này chỉ có khác là
T3, T4 khuếch tán vào nhân tế bào và gắn trực tiếp vào receptor nằm trên phân tử DNA chứ
không qua bước trung gian là gắn với receptor của bào tương.
1.6. Cơ chế điều hoà bài tiết hormon
Các hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển từ tuyến chỉ huy đến tuyến đích và theo cơ
chế điều hoà ngược (feedback) từ tuyến đích đến tuyến chỉ huy. Cơ chế điều hoà ngược là cơ chế
chủ yếu, nhanh và nhạy để duy trì nồng độ hormon luôn hằng định và thích ứng được với hoạt
động của cơ thể khi sống trong môi trường luôn thay đổi.
1.6.1. Điều hoà ngược âm tính
Điều hoà ngược âm tính là kiểu điều hoà mà khi nồng độ hormon tuyến đích giảm, nó sẽ kích
thích tuyến chỉ huy bài tiết nhiều hormon để rồi hormon tuyến chỉ huy lại kích thích tuyến đích
nhằm đưa nồng độ tuyến đích tăng trở lại mức bình thường. Ngược lại, khi nồng độ hormon
tuyến đích tăng lại có tác dụng ức chế tuyến chỉ huy làm giảm bài tiết hormon tuyến chỉ huy.


Ví dụ: Nồng độ hormon T3, T4 giảm thì ngay lập tức nó sẽ kích thích vùng dưới đồi tuyến
yên tăng bài tiết TRH và TSH. Chính hai hormon này quay trở lại kích thích tuyến giáp tăng bài
tiết để đưa nồng độ T3, T4 trở về mức bình thường
Rối loạn cơ chế điều hoà ngược âm tính sẽ dẫn đến rối loạn hoạt động của hệ thống nội tiết.
Trong thực hành điều trị các bệnh do rối loạn hoạt động của hệ thống nội tiết, nếu không lưu ý
đến đặc điểm này thì có thể dẫn từ rối loạn này sang rối loạn khác.
1.6.2. Điều hoà ngược dương tính
Khác với kiểu điều hoà ngược âm tính, trong một số trường hợp người ta thấy nồng độ
hormon tuyến đích tăng lại có tác dụng kích thích tuyến chỉ huy và càng làm tăng hormon tuyến
chỉ huy.
Ví dụ: Khi cơ thể bị stress, định lượng nồng độ hormon thấy nồng độ cortisol tăng cao đồng
thời nồng độ ACTH cũng tăng cao
Như vậy, kiểu điều hoà ngược dương tính không những không làm ổn định nồng độ hormon

mà ngược lại còn làm tăng thêm sự mất ổn định. Tuy nhiên, sự mất ổn định này là cần thiết nhằm
bảo vệ cơ thể trong trường hợp này.
Mặc dù kiểu điều hoà ngược dương tính trong điều hoà hoạt động hệ nội tiết ít gặp nhưng lại
rất cần thiết bởi vì nó thường liên quan đến những hiện tượng mang tính sống còn của cơ thể như
để chống stress, chống lạnh hoặc gây phóng noãn.
Tuy vậy, kiểu điều hoà này thường chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, sau đó lại trở lại kiểu điều
hoà ngược âm tính thông thường. Nếu kéo dài tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng
bệnh lý.
2. Vùng dưới đồi
2.1. Đặc điểm cấu tạo
Vùng dưới đồi (hypothalamus) là một cấu trúc thuộc não trung gian, nằm quanh não thất ba
và nằm chính giữa hệ viền (limbic).
Vùng dưới đồi có mối liên hệ mật thiết qua đường mạch máu và đường thần kinh với tuyến
yên (sẽ được trình bày ở phần tuyến yên). Các hormon do vùng dưới đồi bài tiết sẽ theo những
con đường này đến dự trữ hoặc tác động (kích thích hoặc ức chế) đến chức năng của tuyến yên.
2.2. Các hormon giải phóng và ức chế của vùng dưới đồi
TRH (Thyrotropin Releasing Hormon) là một peptid có 3 acid amin, có tác dụng kích thích
tuyến yên bài tiết TSH (Thyroid Stimulating Hormon).


CRH (Corticotropin-releasing hormon) là một polypeptid gồm 41 acid amin, có tác dụng kích
thích tuyến yên bài tiết ACTH (Adrenocorticotropic Hormon).
GnRH (Gonadotropin-Releasing hormon) là một peptid có 10 acid amin, có tác dụng kích
thích tuyến yên bài tiết FSH (Follicle-Stimulating Hormon) và LH (Luteinizing Hormon).
GRH (Growth Releasing Hormon) là một peptid có 10 acid amin, có tác dụng kích thích tuyến
yên bài tiết GH (Growth Hormon)
PIH (Prolactin Inhibitory Hormon) chưa biết rõ cấu trúc, có tác dụng ức chế tuyến yên bài tiết
Prolactin.
Sau cùng là các IRH (Somatostatin) là GIH (Growth Inhibitory Hormon) ức chế sự tổng hợp
và giải phóng GH.

Các hormon trên được điều hoà chủ yếu bằng cơ chế điều hoà ngược âm tính như đã trình bày,
tín hiệu điều hoà xuất phát từ tuyến yên hoặc các tuyến nội tiết khác.
3. Tuyến yên
3.1. Đặc điểm cấu tạo và mối liên hệ với vùng dưới đồi
3.1.1. Vị trí và mối liên hệ với vùng dưới đồi
Tuyến yên là một tuyến nhỏ đường kính khoảng 1 cm, nặng từ 0,5 - 1 gam. Tuyến yên nằm
trong hố yên của xương bướm thuộc nền sọ. Tuyến yên gồm hai thùy đó là thùy trước và thùy
sau. Tuyến yên liên quan mật thiết với vùng dưới đồi qua đường mạch máu và đường thần kinh
đó là hệ thống cửa dưới đồi - yên và bó sợi thần kinh dưới đồi - yên.
3.1.2. Đặc điểm cấu tạo của tuyến yên
3.1.2.1. Thùy trước tuyến yên (thùy tuyến)
Thùy trước tuyến yên được cấu tạo bởi những tế bào chế tiết. Những tế bào này có nhiều loại,
mỗi loại tổng hợp và bài tiết một loại hormon.
3.1.2.2. Thùy sau tuyến yên (thùy thần kinh)
Thùy sau tuyến yên được cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào giống tế bào thần kinh đệm (glial like
cell) xen kẽ các sợi trục và cúc tận cùng sợi trục khu trú ở thùy sau tuyến yên mà thân nơron nằm
ở nhân trên thị và nhân cạnh não thất. Trong cúc tận cùng của những sợi thần kinh này có các túi
chứa hai hormon là ADH và oxytocin.
3.2. Các hormon thùy trước tuyến yên
Thùy trước tuyến yên tổng hợp và bài tiết 6 hormon đó là:


- Hormon phát triển cơ thể - GH (Human Growth Hormone - hGH).
- Hormon kích thích tuyến giáp - TSH (Thyroid Stimulating hormone).
- Hormon kích thích tuyến vỏ thượng thận - ACTH (Adreno Corticotropin Hormone).
- Hormon kích thích nang noãn - FSH (Follicle Stimulating Hormone).
- Hormon kích thích hoàng thể - LH (Luteinizing Hormone).
- Hormon kích thích bài tiết sữa PRL (Prolactin).
Ngoại trừ GH là hormon có tác dụng lên hầu hết các tế bào của cơ thể, các hormon còn lại chỉ
tác dụng đặc hiệu lên một tuyến hoặc một mô nào đó của cơ thể như hormon TSH, ACTH, FSH,

LH, PRL.
3.2.1. Hormon phát triển cơ thể - GH (hGH)
3.2.1.2. Tác dụng
GH làm phát triển hầu hết các mô có khả năng tăng trưởng trong cơ thể. Nó vừa làm tăng kích
thước tế bào, vừa làm tăng quá trình phân chia tế bào, do đó làm tăng khối lượng cơ thể, làm
tăng kích thước các phủ tạng.
- Kích thích mô sụn và xương phát triển do tăng lắng đọng protein ở các tế bào sụn và tế bào
tạo xương, tăng tốc độ sinh sản các tế bào sụn và tế bào tạo xương, tăng chuyển các tế bào sụn
thành các tế bào tạo xương.
- Kích thích sinh tổng hợp protein do tăng vận chuyển acid amin qua màng tế bào, tăng quá
trình sao chép DNA và tăng tạo RNA thông tin.
- Tăng tạo năng lượng từ nguồn lipid do làm tăng thoái hoá lipid.
- Tác dụng lên chuyển hoá carbohydrat:
+ Giảm sử dụng glucose cho mục đích sinh năng lượng.
+ Tăng dự trữ glycogen ở tế bào.
+ Giảm vận chuyển glucose vào tế bào và tăng nồng độ glucose trong máu.
3.2.2. Hormon kích thích tuyến giáp - TSH
3.2.2.1. Bản chất hoá học:TSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử 28.000.
3.2.2.2. Tác dụng
- Tác dụng lên cấu trúc tuyến giáp: Tăng số lượng và kích thước tế bào nang giáp, tăng phát
triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.
- Tác dụng lên chức năng tuyến giáp
+ Tăng hoạt động bơm iod làm tăng khả năng bắt iod của tế bào tuyến giáp.


+ Tăng gắn iod vào tyrosin để tạo hormon tuyến giáp.
+ Tăng phân giải thyroglobulin được dự trữ trong lòng nang để giải phóng hormon tuyến giáp
vào máu và do đó làm giảm chất keo trong lòng nang giáp..
3.2.3. Hormon kích thích tuyến vỏ thượng thận - ACTH
3.2.3.1. Bản chất hoá học

ACTH là một phân tử polypeptid lớn gồm 39 acid amin.
3.2.3.2. Tác dụng
- Tác dụng lên cấu trúc vỏ thượng thận: ACTH làm tăng sinh tế bào vỏ thượng thận đặc biệt là
tế bào của lớp bó và lưới, là những tế bào bài tiết cortisol và androgen do đó làm hai lớp này nở
to. Thiếu ACTH vỏ thượng thận sẽ bị teo lại.
- Tác dụng lên chức năng vỏ thượng thận: ACTH có tác dụng kích thích vỏ thượng thận tổng
hợp và bài tiết hormon do hoạt hoá các enzym proteinkinase A là enzym thúc đẩy chặng đầu tiên
của quá trình sinh tổng hợp hormon vỏ thượng thận.
- Tác dụng lên não: ACTH có vai trò làm tăng quá trình học tập và trí nhớ, tăng cảm xúc sợ
hãi.
- Tác dụng lên tế bào sắc tố: ACTH kích thích tế bào sắc tố sản xuất sắc tố melanin rồi phân
tán sắc tố này trên bề mặt biểu bì da. Thiếu ACTH sẽ làm cho da không có sắc tố (người bạch
tạng). Ngược lại, thừa ACTH làm cho da có những mảng sắc tố.
3.2.4. Hormon kích thích tuyến sinh dục: FSH và LH
3.2.4.1. Bản chất hoá học
Cả FSH và LH đều là glycoprotein. FSH được cấu tạo bởi 236 acid amin với trọng lượng
phân tử 32.000, còn LH có 215 acid amin và trọng lượng phân tử là 30.000.
3.2.4.2. Tác dụng
- Tác dụng lên tuyến sinh dục nam (tinh hoàn).
+ FSH
• Kích thích ống sinh tinh phát triển.
• Kích thích tế bào Sertoli nằm ở thành ống sinh tinh phát triển và bài tiết các chất tham gia
vào quá trình sản sinh tinh trùng.
+ LH
• Kích thích tế bào kẽ Leydig (nằm giữa các ống sinh tinh) phát triển.
• Kích thích tế bào kẽ Leydig bài tiết testosteron.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×