Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hoạt động quản lý điều hành công ty của giám đốc theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.21 KB, 91 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên
cứu luận văn đạt được là trung thực và chưa được ai công bố tại bất kì một công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm 2016.
Học viên

Lê Thị Vân Hà


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Vân
Anh – người đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Luật Thương
mại - Khoa Pháp luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội đã ân cần dạy dỗ và
giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Học viên thực hiện

Lê Thị Vân Hà


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CTCP

: Công ty cổ phần

CTHD



: Công ty hợp danh

CTTNHH

: Công ty trách nhiệm hữu hạn

DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân

LDN

: Luật doanh nghiệp


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

3

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

4

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

5

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

5

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6

8. Bố cục các chương của luận văn

6

CHƯƠNG 1:

7

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỦA GIÁM ĐỐC


7

1.1. Khái quát về hoạt động quản lý công ty

7

1.2. Khái niệm Giám đốc công ty, đặc điểm hoạt động của Giám đốc và vai trò
của Giám đốc trong công ty

15

1.3. Khái quát pháp luật về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc
21
Tiểu kết chương 1

34

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH CỦA
GIÁM ĐỐC CÔNG TY Ở VIỆT NAM

35

2.1. Những quy định chung về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám
đốc …………………………………………………………………………… 35
2.2. Những quy định riêng về hoạt động quản lý điều hành của Giám đốc trong
các hình thức công ty cụ thể

45


2.3. Nhận xét tình hình thực thi pháp luật về hoạt động quản lý điều hành công
ty của Giám đốc ở Việt Nam
Tiểu kết chương 2

58
70


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH CÔNG TY
CỦA GIÁM ĐỐC Ở VIỆT NAM

71

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động quản lý điều hành
của Giám đốc

71

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động quản lý điều hành
của Giám đốc

74

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Việt Nam trong hoạt động
quản lý điều hành của Giám đốc

78

Tiểu kết chương 3


83

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giám đốc (Tổng Giám đốc), sau đây được gọi tắt là Giám đốc, có vai trò và vị
trí quan trọng trong mô hình quản trị của bất kỳ công ty nào. Giám đốc là người dẫn
dắt, điều hành công ty trong mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày. Vì vậy, kết quả
sản xuất kinh doanh của công ty có diễn ra theo đúng mục tiêu, chính sách do chủ
sở hữu công ty đặt ra hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự dẫn dắt và điều hành
của Giám đốc. Điều này được hiểu rằng Giám đốc là một trong những người quyết
định sự thành bại của một công ty. Sự thành bại của mỗi một công ty tạo nên sự
thành bại của hệ thống các công ty, từ đó góp phần quyết định đến sự thành bại của
cả nền kinh tế.
Nhận thức được điều đó, ngay trong luật công ty năm 1990 (LCT 1990), các
nhà làm luật đã ghi nhận vai trò, nhiệm vụ của Giám đốc. Tuy nhiên, trải qua nhiều
lần sửa đổi, ban hành mới, từ luật doanh nghiệp 1999 (LDN 1999), đến luật doanh
nghiệp 2005 (LDN 2005) và gần đây là luật doanh nghiệp 2014 (LDN 2014), các
qui định của luật vẫn chủ yếu mang tính chất ghi nhận địa vị pháp lý của Giám đốc

trong cơ cấu tổ chức quản lý điều hành của công ty mà chưa có hướng dẫn cụ thể
về cách thức áp dụng các quy định này trên thực tế.
Chính vì chưa có cơ chế, hướng dẫn trong việc giám sát, đôn đốc Giám đốc
nói riêng, những người quản lý doanh nghiệp nói chung trong việc thực hiện hoạt
động quản lý điều hành công ty nên hoạt động này của Giám đốc thường không
được kiểm soát chặt chẽ, các hành vi mang tính chất tư lợi thường không được phát
hiện sớm và ngăn chặn kịp thời mà chỉ bị đưa ra xét xử khi đã gây ra những tổn thất
to lớn cho nền kinh tế, như các vụ đại án tham nhũng gần đây của Vinashin và
Vinalines chẳng hạn. Điều này không những gây nên thiệt hại trực tiếp, nghiêm
trọng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn đến tâm lý của nhà đầu tư cũng như
các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường nói chung.


7

Với mong muốn đi sâu tìm hiểu các quy định liên quan đến hoạt động quản lý
và điều hành của Giám đốc trong công ty từ đó đề ra một số giải pháp khắc phục
nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp, góp phần ổn
định, phát triển nền kinh tế xã hội; tác giả luận văn đã chọn đề tài “Hoạt động quản
lý điều hành công ty của Giám đốc theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc không
phải là vấn đề mới mẻ vì đây là một trong những chức danh quản lý trong cơ cấu tổ
chức của doanh nghiệp, được nghiên cứu rất nhiều trong các đề tài về quản lý nội
bộ doanh nghiệp. Tuy nhiên, do cũng chỉ là một chức danh quản lý doanh nghiệp
nên thường được nghiên cứu chung với các chức danh quản lý khác, và thường bị
bỏ qua trong những doanh nghiệp mà người chủ sở hữu công ty đồng thời làm Giám
đốc. Vậy nên, các đề tài, bài viết đi sâu nghiên cứu hoạt động quản lý điều hành
công ty của Giám đốc theo pháp luật không nhiều. Với những phạm vi, mức độ

khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới hoạt động quản lý
điều hành công ty của Giám đốc, điển hình như:
- Bài viết “Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam” của tác
giả Lê Đức Nghĩa, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2014. Bài viết chủ
yếu tập trung chủ yếu vào nghĩa vụ của người quản lý nói chung, có so sánh, phân
tích với nghĩa vụ quản lý doanh nghiệp của pháp luật Hoa Kỳ.
- Bài viết “Một số nghĩa vụ của người quản lý công ty trong công ty cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp 2005 ” của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Tạp chí nghề
Luật, Học viện tư pháp, số 2. Đúng như tên bài viết, tác giả chủ yếu tập trung vào
nghĩa vụ chung của người quản lý, tức là có bao gồm cả Giám đốc, nhưng trong một
loại hình doanh nghiệp cụ thể là công ty cổ phần, theo luật doanh nghiệp 2005.
- Luận văn “Những vấn đề về công ty Trách nhiệm hữu hạn và nghĩa vụ của
Giám đốc/tổng Giám đốc trong công ty Trách nhiệm hữu hạn” của tác giả Nguyễn
Tuấn Hải, bảo vệ thành công tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Trong luận
văn này, tác giả có đề cập trực tiếp đến nghĩa vụ của Giám đốc nhưng chỉ giới hạn
trong một loại hình doanh nghiệp cụ thể là công ty trách nhiệm hữu hạn.


8

- Luận văn “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Hoàng Duy, bảo vệ thành công tại Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2015. Luận văn này đã đưa ra được cái nhìn tương đối toàn diện và sâu sắc thông
qua việc so sánh các quy định tương ứng của Việt Nam với các quy định trong luật
công ty Anh, Úc. Tuy nhiên, luận văn cũng chỉ đề cập đến nghĩa vụ của người quản
lý công ty nói chung mà không nghiên cứu trực tiếp các quy định về hoạt động quản
lý điều hành của Giám đốc.
- Khóa luật tốt nghiệp “ Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc/ tổng Giám đốc
công ty theo pháp luật hiện hành” của tác giả Cao Thùy Linh, bảo vệ thành công tại
Đại học Luật Hà Nội, năm 2016. Khoá luận đã đề cập khá trực tiếp về quyền và

nghĩa vụ của Giám đốc nói chung nhưng còn khá chung chung, chưa tập trung vào
hoạt động quản lý điều hành của Giám đốc.
Như vậy, về cơ bản những bài viết, công trình nghiên cứu trên tuy đã đề cập
đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của Giám đốc nhưng lại chưa chuyên sâu, chưa cụ thể
và toàn diện. Đặc biệt, chưa có một đề tài hay công trình nào nghiên cứu riêng về
“Hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc theo pháp luật Việt Nam”.
Chính vì vậy, đây được coi là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về hoạt động
quản lý điều hành công ty của Giám đốc theo pháp luật Việt Nam – thực trạng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động quản lý
điều hành công ty của Giám đốc theo LDN 2014, so sánh với các quy định trong
LDN 2005 có liên hệ với thực tiễn thông qua việc phân tích các tình huống, vụ án
trong thực tế.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các văn bản pháp luật về doanh nghiệp, kết hợp với việc nghiên
cứu các công trình đã được công bố, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, tác giả
nhận thấy các quy định liên quan đến hoạt động quản lý điều hành công ty của


9

Giám đốc được quy định chủ yếu trong luật Doanh nghiệp 2014 và các Nghị định
hướng dẫn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu
quyền và nghĩa vụ của Giám đốc được quy định trong Luật doanh nghiệp 2014, ý
nghĩa của các quy định này trong hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám
đốc, đồng thời đánh giá hiệu quả thực thi cũng như đề xuất các biện pháp khắc phục
những hạn chế còn tồn tại. Các số liệu liên quan sử dụng trong luận văn được tổng
hợp trên cả nước giai đoạn 2010 – 6/2016, đặc biệt chú trọng đến thực tiễn hoạt

động của doanh nghiệp trên các địa bàn trọng điểm như Hà Nội, Hồ Chí Minh, ….
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn đặt ra mục tiêu nghiên cứu rõ các quy định về hoạt động quản lý
điều hành công ty của Giám đốc; phân tích những quy định pháp luật hiện hành so
với các quy định của LDN 2005 về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám
đốc, cũng như đánh giá các tác động và dự báo những bất cập trong quá trình thực
hiện, trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị, phương hướng thực hiện, thi hành hiệu
quả những quy định mới về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc theo
LDN 2014.
Để đạt được mục tiêu trên, khi nghiên cứu đề tài này, luận văn tập trung làm
rõ các nội dung sau:
- Chỉ ra cơ sở lý luận về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc,
khái niệm Giám đốc và đặc điểm hoạt động của Giám đốc.
- Thực trạng về chất lượng Giám đốc, hiệu quả thực hiện hoạt động quản lý
điều hành công ty của Giám đốc, cơ chế giám sát tình hình thực hiện hoạt động này,
chỉ rõ những mặt làm được và chưa làm được, nguyên nhân.
- Chỉ ra, đánh giá những quy định mới về hoạt động quản lý điều hành công ty
của Giám đốc theo LDN 2014, phân tích hiệu quả, hạn chế và tác động của những
quy định đó.
- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý điều hành
công ty của Giám đốc nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trong thực
tiễn.


10

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết ba câu hỏi sau:
- Các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động quản lý điều hành của
Giám đốc công ty là như thế nào?

- Quá trình thực hiện các quy định về hoạt động quản lý điều hành công ty của
Giám đốc trên thực tiễn thu được kết quả gì? Những hạn chế nào còn tồn tại?
- Giải pháp để khắc phục những hạn chế còn tồn lại liên quan đến các quy
đinh của pháp luật về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc là gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
khác nhau, trong đó chủ yếu tập trung ở các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Theo
đó, các quy định của pháp luật hiện hành được xem xét trong mối quan hệ với các
hiện tượng, quá trình khác của sự phát triển kinh tế, xã hội chung của đất nước, trên
cơ sở đó, xem xét đánh giá mức độ phù hợp của các quy định với thực tiễn phát
triển chung của kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới. Đây là phương pháp cơ bản
được áp dụng xuyên suốt luận văn.
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn đề liên
quan đến hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc như: nội dung các quy
định của pháp luật, mức độ phù hợp của các quy định đó trên thực tế, dự báo tính
khả thi của các quy định này. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương
1 và chương 2 khi tập trung giải thích cách hiểu về nội dung cơ bản của đề tài cũng
như các quy định của luật, đánh giá mức độ hài hoà giữa luật công ty của Việt Nam
và luật công ty các nước trên thế giới về vấn đề này.
Phương pháp thống kê và phân tích số liệu được sử dụng để đánh giá hiệu quả
thực thi các quy định về hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc, chủ
yếu được sử dụng trong chương 2 và chương 3 khi đánh giá các tình huống, số liệu
thực tiễn trong việc thực thi các quy định của luật trong thực tế.


11

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thứ nhất, luận văn phân tích một cách sâu sắc các vấn đề chung về các quy

định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Giám đốc trong quản lý công ty; từ đó chỉ
ra hiệu quả áp dụng các quy định đó trong việc đánh giá hoạt động quản lý điều
hành công ty của Giám đốc.
Thứ hai, luận văn đã sử dụng các số liệu và tình huống thu thập được trên thực
tế, tập trung phân tích, đánh giá, từ đó đưa ra cái nhìn tương đối đầy đủ và toàn diện
thực trạng thực thi các quy định liên quan đến hoạt động quản lý điều hành công ty
của Giám đốc hiện nay.
Thứ ba, luận văn đã đưa ra những nhận xét, đánh giá trên cơ sở phân tích
những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình thực thi các quy
định của LDN 2014 trong thực tiễn.
Thứ tư, luận văn đã đưa ra những giải pháp khắc phục hạn chế và hoàn thiện
hơn nữa các quy định về Giám đốc công ty nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động quản
lý điều hành công ty của chủ thể này. Theo đó, giải pháp quy định rõ chế tài đối với
Giám đốc công ty khi thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình đối với công ty.
8. Bố cục các chương của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh lục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về hoạt động quản lý điều
hành công ty của Giám đốc
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý điều hành công ty của Giám
đốc ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về quản lý điều hành công ty của Giám đốc ở Việt Nam


12

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG

QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỦA GIÁM ĐỐC
1.1. Khái quát về hoạt động quản lý công ty
1.1.1. Khái niệm công ty và các loại hình công ty ở Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm công ty
Hiện nay, có rất nhiều lý thuyết luận giải về sự ra đời của công ty. Dưới góc độ
kinh tế và pháp luật, hầu hết các quan điểm đều cho rằng công ty xuất hiện như một
công cụ, giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro và chi phí giao dịch khi thực hiện
hoạt động kinh doanh. Điều này cũng được lý giải thông qua sự phát triển các hoạt
động giao thương hàng hóa ngày càng nhộn nhịp giữa các quốc gia, xảy ra tại vùng
Địa Trung Hải cách ngày nay 3000 năm trước Công nguyên, kết quả là sự xuất hiện
các hội xã, phường hội, rồi dần trở thành các công ty có quy mô lớn và được cấp
phép hoạt động.
Thực tiễn tình hình kinh tế thế giới hiện nay cho thấy, công ty đang là loại
hình doanh nghiệp phổ biến và được ưa chuộng nhất tại hầu hết các quốc gia. Đối
với nước ta, do đặc thù của nền kinh tế bao cấp sau Cách mạng tháng tám 1945, nên
trước năm 1990 chỉ có doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Chỉ sau chủ trương đổi mới tại Đại hội Đảng VI (tháng
12/1986), khi đường lối đổi mới kinh tế toàn diện được đề ra, các chủ trương chính
sách mới phục vụ chiến lược này mới được ban hành, trong đó có Luật công ty và
Luật doanh nghiệp tư nhân (DNTN) (1990). Lúc này, các khái niệm doanh nghiệp
tư nhân (DNTN), Công ty trách nhiệm hữu hạn ( CTTNHH) và công ty cổ phần
(CTCP) mới bắt đầu xuất hiện. Công ty hợp danh (CTHD) xuất hiện muộn nhất (từ
năm 2000 khi LDN 1999 có hiệu lực thay thế Luật công ty và Luật DNTN) và cũng
là loại hình doanh nghiệp ít phổ biến nhất.
Trên thế giới, có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về công ty, trong đó phải
kể đến nhà luật học Kubler Cộng hòa Liên bang Đức quan niệm rằng: “ Khái niệm
công ty đươc hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng


13


một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào
đó.”1Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học giải thích: “ Công ty là tổ chức được
thành lập hợp pháp trên cơ sở liên kết nhiều người nhằm tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận”.2Các luật doanh nghiệp trước, cũng như LDN
2014 không đưa ra khái niệm về công ty mà chỉ đưa ra khái niệm về doanh nghiệp
như sau: “ Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,
được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.3
Như vậy, pháp luật coi công ty là một loại hình doanh nghiệp nên về cơ bản công ty
cũng bao gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, công ty là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch.
Thứ hai, công ty là sự liên kết và hợp tác của nhiều cá nhân hoặc tổ chức,
được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, lợi nhuận là mục tiêu của việc thành lập và hoạt động của các công ty.
Thứ tư, công ty có tư cách pháp nhân.
Tựu chung lại, công ty được hiểu là sự liên kết của một hay nhiều cá nhân
hoặc tổ chức thông qua một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động vì một
mục tiêu nào đó. Công ty có các đặc điểm cơ bản chung của một doanh nghiệp: có
tên riêng, có tài sản và trụ sở giao dịch, được đăng ký kinh doanh, có tư cách pháp
nhân và hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
1.1.1.2. Các loại hình công ty ở Việt Nam hiện nay
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Mô hình CTTNHH là một trong những loại hình doanh nghiệp phổ biến trên
thế giới hiện nay. Ở Việt Nam cũng như ở hầu hết các nước khác, loại hình công ty
này được các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn so với các hình thức công ty khác vì
vậy mà số lượng doanh nghiệp loại này cũng được thành lập nhiều hơn. Theo pháp
luật doanh nghiệp hiện hành, chúng ta thừa nhận hai loại CTTNHH bao gồm:
CTTNHH hai thành viên trở lên và CTTNHH một thành viên.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại, tập I, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015,

tr.109
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.31
3
Khoản 7 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014
1


14

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: CTTNHH hai thành viên
trở lên là mô hình công ty có sự liên kết góp vốn từ hai hay nhiều tổ chức, cá nhân
trở lên (tối thiểu là 2, tối đa là 50)4. Các thành viên trong hình thức công ty này
thường quen biết nhau, có thể là người trong dòng họ, gia đình hay bạn bè thân
thiết, đủ để có thể tin cậy và chia sẻ lợi ích trong kinh doanh. Đây chính là điểm
giống nhau giữa loại hình công ty này và công ty đối nhân. Các thành viên trong
công ty cùng nhau góp vốn, cùng nhau quản lý công ty. Tuy nhiên, việc phân chia
lợi nhuận và chia sẻ rủi ro được căn cứ theo tỉ lệ phần vốn góp vào công ty, (đây là
tính chất đối vốn của mô hình công ty này). CTTNHH theo mô hình này ít có sự
xáo trộn về thành viên vì: (i) thứ nhất, là do các thành viên đã có đủ độ tin tưởng để
hợp tác cùng nhau nên ít khi thay đổi, (ii) thứ hai, là do quy định chặt chẽ của pháp
luật mỗi khi thay đổi thành viên. Việc gia nhập thành viên mới phải có được sự
chấp thuận của hội đồng thành viên. Đây là điểm thể hiện rõ nhất tính khép kín của
loại hình công ty này. CTTNHH hai thành viên trở lên không được phát hành cổ
phiếu để huy động vốn từ công chúng nhưng vẫn được phát hành trái phiếu. Tuy
nhiên, dù khả năng huy động vốn từ công chúng lớn đến đâu, việc thay đổi tư cách
và số lượng thành viên của công ty là điều không thể khi chưa có sự đồng ý của hội
đồng thành viên. Đây là điểm khác biệt cơ bản của mô hình công ty này so với hình
thức công ty cổ phần, đặc trưng của công ty đối vốn.

Các thành viên trong CTTNHH hai thành viên trở lên, thể hiện tính trách
nhiệm hữu hạn về tài sản khi chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty, tương ứng với phần vốn góp vào công ty. Còn công ty phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng toàn bộ
tài sản của công ty. CTTNHH hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ thời
điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
CTTNHH một thành viên
CTTNHH một thành viên là hình thức đặc biệt của CTTNHH. Đây là doanh
nghiệp do một tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu phải chịu trách
4

Khoản 1 Điều 47 Luật doanh nghiệp 2014


15

nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn điều
lệ của công ty. CTTNHH một thành viên là cá nhân về cơ bản được xếp vào loại hình
doanh nghiệp một chủ nhưng lại có sự khác biệt đáng kể so với DNTN. Loại doanh
nghiệp này đã khắc phục cơ bản yếu điểm của doanh nghiệp tư nhân đó là có tư cách
pháp nhân. Hơn nữa, tính chịu trách nhiệm hữu hạn của loại hình doanh nghiệp này
giúp hạn chế đáng kể rủi ro cho chủ doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Tuy
nhiên, chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã
góp vào công ty mà chỉ được rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. CTTNHH một thành viên cũng có thể tăng
vốn điều lệ của công ty thông qua việc tăng phần vốn góp của chủ sở hữu hoặc huy
động từ những người khác. Song, trường hợp chủ sở hữu chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ vốn góp dẫn đến tình trạng có nhiều hơn một người sở hữu phần vốn
góp của công ty hoặc huy động vốn từ người khác không phải là chủ sở hữu thì
CTTNHH một thành viên phải chuyển đổi hình thức sang CTTNHH hai thành viên

trở lên hoặc CTCP, không còn bản chất của CTTNHH một thành viên.
* Công ty cổ phần
Công ty cổ phần được cho là xuất hiện vào thế kỷ XVIII, XIX, khi cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nước Châu Âu và Bắc Mỹ phát triển mạnh mẽ, nhu cầu
tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản ngày một lớn, mô hình sản xuất kinh doanh
ngày càng được mở rộng, mức độ cạnh tranh và độc quyền giữa các nhà tư bản ngày
càng khốc liệt, buộc họ phải tìm cách thỏa hiệp nhằm thu hút tối đa lợi nhuận cũng
như bành trướng thế lực kinh tế của mình. CTCP được cho là đã thỏa mãn được các
nhu cầu đó của nhà đầu tư. Vì vây, thông qua mô hình CTCP, sự tập trung kinh tế
đã được thực hiện nhanh chóng. Công ty Đông Ấn ( tên tiếng Anh là The East India
Commpany hay East India Trading Company, English East India Company, sau này
là British East India Company) được ghi nhận là một trong những CTCP đầu tiên
trên thế giới, được thành lập theo sắc lệnh ngày 31/12/1960 của Nữ hoàng Elizabeth
đệ nhất5. Mô hình CTCP du nhập vào nước ta khi nền kinh tế phát triển theo định
5

Sắc lệnh có tên gọi: Governor and Company of Merchants of London tradinh into the East Indies


16

hướng mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự định hướng của nhà nước
cuối thập niên 1980. CTCP lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong Luật công
ty năm 19906, và ngày càng được quy định hoàn thiện hơn trong các văn bản luật
doanh nghiệp sau này.
CTCP là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bẳng
nhau gọi là cổ phần7, mỗi cổ phần có mệnh giá khác nhau phụ tùy thuộc vào từng
công ty và được thể hiện thông qua cổ phiếu. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất của
công ty cổ phần so với các loại hình công ty khác. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ
đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không

hạn chế số lượng tối đa. Đây là lợi thế giúp CTCP dễ dàng huy động được nguồn
vốn lớn thông qua việc phát hành cổ phần và theo đó số lượng cổ đông của công ty
cũng ngày càng tăng lên. Cổ phiếu được coi là một loại tài sản của các cổ đông và
có quyền tự do chuyển nhượng trừ một vài trường hợp chịu sự giới hạn được quy
định trong luật8. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế huy động vốn dễ dàng là cùng với
sự gia tăng nhanh về vốn thông qua phát hành cổ phần, quyền quản lý của các cổ
đông sáng lập sẽ bị chia sẻ nhiều hơn qua các lần phát hành cổ phần, cũng như
không có khả năng kiểm soát được những người sẽ cùng hàng ngũ lãnh đạo của
mình, vì vậy, nguy cơ họ dần mất đi quyền quản lý công ty cũng vì thế mà tăng lên
so với các mô hình công ty khác.
Về bản chất, tính chịu trách nhiệm của CTCP cũng là hữu hạn. Công ty chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi tài
sản của công ty. Cổ đông công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty thông qua việc
mua cổ phần của mình mà không liên quan tới bất kì tài sản riêng nào khác của họ.
Phần tài sản của công ty, phần vốn đã góp vào công ty của các cổ đông hoàn toàn
tách biệt với phần tài sản riêng của họ. CTCP cũng có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Luật công ty năm 1990 được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990
Điều 110 Luật doanh nghiệp 2014
8
Các trường hợp này được quy định tại Khoản 3 Điều 119 và Khoản 1 Điều 126
6
7


17

* Công ty hợp danh
Đây là mô hình công ty cổ điển và xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhưng lại là

loại hình doanh nghiệp mới xuất hiện tại Việt Nam9. Cho đến nay, số lượng CTHD
trên thực tế cũng không nhiều. Đây là loại hình công ty đối nhân điển hình, được
thành lập trên sự tín nhiệm gần như tuyệt đối giữa các thành viên trong công ty. Vì
vậy, số lượng thành viên của công ty thường rất ít nhưng pháp luật quy định tối
thiểu phải có hai thành viên là cá nhân cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung,
được coi là thành viên hợp danh. Thành viên này phải là cá nhân và cùng nhau chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của
công ty (trách nhiệm vô hạn). Đây là sự khác biệt giữa CTHD với ba loại hình công
ty đã được đề cập ở trên. Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm
thành viên góp vốn và các thành viên này có thể là cá nhân hoặc tổ chức, chỉ phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty. CTHD không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
CTHD kinh doanh dựa trên uy tín của các thành viên hợp danh trong công ty.
Thành viên góp vốn trong CTHD chỉ được góp vốn vào công ty nhưng không được
quyền quản lý hoạt động của công ty và quản lý hiệu quả sử dụng phần vốn góp của
mình. CTHD có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Đây là đặc điểm hiện vẫn còn gây nhiều tranh cãi do tính chịu trách
nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh, nghĩa là không có sự tách biệt giữa tài
sản cá nhân thành viên hợp dnah với tài sản công ty, điều này mâu thuẫn với các
điều kiện để một tổ chức được gọi là pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự10.
1.1.2. Quan niệm về quản lý công ty
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã hội.
Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ
không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý cũng
hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới
những mục tiêu chung. Quản lý có nội hàm tương đối rộng, tuy nhiên cách hiểu phổ
9

Bắt đầu từ năm 2000 theo quy định của LDN năm 1999
Điều 84 Bộ luật dân sự 2005


10


18

biến hiện nay về quản lý là cách hiểu về quản lý xã hội. Đây là dạng quản lý phức
tạp nhất, bao gồm nhiều lĩnh vực như: quản lý Nhà nước, quản lý hành chính công,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý ngành. Quản lý nói chung theo nghĩa tiếng
Anh là Administration vừa có nghĩa quản lý (hành chính, chính quyền), vừa có
nghĩa là quản trị (kinh doanh). Trong văn bằng Thạc sỹ kinh doanh Mỹ thường ghi
là Master of Business Administration (MBA). Ngoài ra, trong tiếng Anh còn có một
thuật ngữ khác là management vừa có nghĩa quản lý, vừa có nghĩa quản trị, nhưng
hiện nay được dùng chủ yếu với nghĩa là quản trị. Xét về từ ngữ, thuật ngữ “quản
lý” (tiếng Việt gốc Hán) có thể hiểu là hai quá trình tích hợp vào nhau; quá trình
“quản” là sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” là sửa
sang, sắp xếp, đổi mới để đưa tổ chức vào thế “phát triển”. Theo Mary Parker
Follet: “ Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được thực hiện thông qua người
khác”. Như vậy, về cơ bản, quản lý được hiểu là việc tổ chức, lập kế hoạch, lãnh
đạo và kiểm tra các nguồn lực của một chủ thể nhất định nhằm đạt tới mục đích một
cách hiệu quả.
Quản lý công ty là một nội hàm rất nhỏ trong quản lý xã hội, có thể xếp vào
nội hàm của quản lý kinh tế vì các chủ thể thực hiện nhiệm vụ quản lý công ty đều
hướng đến mục tiêu kinh tế là chủ yếu. Quản lý công ty được hiểu là cách thức mà
chủ thể quản lý thực hiện để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt
được mục đích đã được chủ sở hữu công ty đề ra. Chủ thể thực hiện hoạt động này
có thể là chủ sở hữu công ty cũng có thể là cá nhân khác (Giám đốc) được chủ sở
hữu thuê để thực hiện nhiệm vụ thay mình. Vì vậy, nhiệm vụ chính của Giám đốc là
đảm bảo hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng.
Tuy nhiên, trong một công ty có rất nhiều lĩnh vực cần quản lý, đó có thể là nhân

sự, tài chính, kinh doanh, … Vì vậy, những công ty, những tập đoàn có quy mô lớn,
mỗi lĩnh vực đều có Giám đốc riêng, gọi là Giám đốc bộ phận, như: Giám đốc nhân
sự, Giám đốc tài chính, Giám đốc bán hàng … Người quản lý chung nhất các Giám
đốc này gọi là Tổng Giám đốc. Trong phạm vi luận văn, Giám đốc được đề cập đến
ở đây chính là người quản lý chung nhất mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày của
một công ty, bao gồm việc lãnh đạo và kiểm soát việc thực hiện các chính sách phát
triển của chủ sở hữu công ty.


19

Ngoài ra, trong các công ty, bên cạnh sự quản lí trực tiếp, hàng ngày của Giám
đốc còn có sự quản lý của những người quản lý doanh nghiệp được đề cập đến
trong luật doanh nghiệp 2014 như: thành viên hợp danh, Chủ tịch hội đồng thành
viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị,
thành viên Hội đồng quản trị và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền
nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty11.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các chức danh kể trên chủ yếu là sự lãnh đạo về mặt chủ
trương, chính sách chung của công ty, thực hiện chức năng quản lí không thường
xuyên mà thông qua các cơ chế cụ thể được nêu trong điều lệ công ty như cơ chế tổ
chức họp, cơ chế ra quyết định của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị …Ví dụ
như trong công ty cổ phần, cơ chế quản trị công ty chính là xác định rõ nội dung
phân chia các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa cổ đông, ĐHĐCD (CTCP),
HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS và những chủ thể có liên quan khác của công ty (người
lao động, chủ nợ,...); đồng thời lập ra các nguyên tắc và thủ tục để ra quyết định về
những vấn đề của công ty. Như vậy ở đây, sự quản lý của các chức danh trên manh
tính chất quản trị là chủ yếu, tức là hoạt động của các chủ thể nêu trên không liên
quan đến hoạt động tác nghiệp điều hành các công việc hàng ngày của công ty mà
chủ yếu chỉ xác định quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể quản lý, giám sát
công ty cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện nó. Tuy nhiên, các chủ thể đã nêu lại là

người trực tiếp đề ra, thông qua các nội dung phân quyền đó, Giám đốc chính là
người đảm bảo hiện thực hoá các nội dung đã nêu, còn về cơ bản, nhất là Giám đốc
được thuê, có thể không tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành các cơ chế
phân quyền đó. Vì vậy, hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc ở đây
thực chất là việc quản lý thực hiện các chủ trương, chính sách của chủ sở hữu công
ty. Hoạt động này chủ yếu tập trung vào nội dung điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của công ty, tính chất quản lý ở đây chính là việc phân chia, điều phối
các hoạt động, nhiệm vụ giữa các bộ phận trong công ty để những nội dung công
việc cụ thể hàng ngày được tiến hành một cách hiệu quả nhất.
11

Khoản 18 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014


20

1.2. Khái niệm Giám đốc công ty, đặc điểm hoạt động của Giám đốc và vai
trò của Giám đốc trong công ty
1.2.1. Khái niệm Giám đốc công ty
Giám đốc là một khái niệm phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Khái niệm này được hiểu theo cách phổ biến nhất là một chức danh lãnh đạo chủ
yếu trong hầu hết các doanh nghiệp. Từ điển tiếng Việt định nghĩa “Giám đốc” có
nghĩa là giám sát và đôn đốc, là người đứng đầu lãnh đạo một cơ quan chuyên môn
cấp tỉnh, thành hoặc một cơ quan, xí nghiệp, công ty, …sở văn hóa. Chẳng hạn như
Giám đốc nhà xuất bản, Giám đốc nhà máy, Giám đốc công ty. Tuy nhiên, nghiên
cứu khái niệm này trong lịch sử đời sống kinh tế đất nước, chúng ta thấy nội hàm
của nó có thể được hiểu theo các cách sau:
Trước đây, trong nền kinh tế quan liêu bao cấp, chỉ có Nhà nước mới có quyền
thành lập doanh nghiệp và những doanh nghiệp được thành lập ra đều là doanh
nghiệp Nhà nước, chính vì vậy Giám đốc được quan niệm như là một chức vụ vì nó

được Nhà nước bổ nhiệm và cử người nhà nước đảm nhiệm. Do đó, tiêu chuẩn lựa
chọn Giám đốc doanh nghiệp chủ yếu là phẩm chất chính trị và tư cách đạo đức.
Kết quả là đại bộ phận đội ngũ Giám đốc đều ở lứa tuổi cao, hoặc thiếu hoặc nợ
bằng cấp. Chính vì vậy, khái niệm Giám đốc doanh nghiệp chỉ được giới hạn trong
phạm vi doanh nghiệp nhà nước như các công ty, xí nghiệp nhà nước … Các Giám
đốc đều là người nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm và mọi hoạt động phải theo sự
chỉ đạo của nhà nước.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, khái niệm Giám đốc được tiếp cận theo
quan điểm của lí thuyết về quản trị nội bộ doanh nghiệp. Giám đốc trong một số
trường hợp có thể là chủ sở hữu nhưng cũng có thể chỉ đơn thuần là người quản lý
doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ trong các qui định về Giám đốc trong
LDN 201412. Theo đó, pháp luật Việt Nam thừa nhận hai hình thức Giám đốc, Giám
đốc đi thuê và Giám đốc đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu
của Giám đốc là quản lý điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty.
12

Các điều 4.18, 64.1, 81.1, 99.1, 157, 179, 185 Luật Doanh nghiệp 2014


21

Nhìn ra hệ thống pháp luật công ty trên thế giới chúng ta nhận thấy, về cơ bản,
thuật ngữ “Giám đốc/tổng Giám đốc” được dịch ra chủ yếu từ các từ tiếng Anh khác
nhau như: “director”, “manager”, “president”, “officer” … Vậy đâu là từ Giám đốc/
Tổng Giám đốc theo ý nghĩa pháp lý được các văn bản pháp luật của Việt Nam thừa
nhận? Để hiểu được cách dịch này chúng ta cần phải tìm hiểu mô hình công ty của
các nước và bản chất của từng chức danh trong mô hình quản trị của các loại hình
công ty đó.
Ở các nước châu Âu và châu Mỹ, việc quản lý, điều hành công việc kinh
doanh hàng ngày sẽ do các nhân viên làm công ăn lương (salaried employees) đảm

nhiệm. Căn cứ vào năng lực và vị trí của các nhân viên trong công ty, họ sẽ được
sắp đặt vào một hệ thống tổ chức gồm nhiều tầng mà cao nhất là tổng Giám đốc.
Tổng Giám đốc có quyền tổ chức bộ máy công ty, được tự mình lựa chọn các phó
tổng Giám đốc, không nhất thiết phải đợi quyết định của HĐQT, quan trọng là hiệu
quả mà bộ máy điều hành đó mang lại. Tổng Giám đốc là người phải chịu trách
nhiệm trực tiếp đối với HĐQT.
Ở Mỹ, vấn đề chức vị được phân biệt rất rõ ràng trong cách tổ chức công ty.
Hội đồng quản trị (HĐQT)13 gồm nhiều thành viên (directors), đứng đầu là chủ tịch
HĐQT (chairman). Trong thành phần quản lý công ty (management) cao nhất là
tổng Giám đốc (president), bên dưới là các phó tổng Giám đốc (vice president) phụ
trách các ban ngành, và dưới nữa có các cấp Giám đốc (manager)… Trong một
công ty lớn với nhiều nhân viên, người ta lại chia mỗi cấp ra làm nhiều thứ bậc nhỏ
hơn với các chức danh khác nhau, như: President còn có thể gọi là chief executive
officer (gọi tắt là CEO). Đây là người quản lý điều hành cao nhất của một công ty
và thường là người đại diện cho công ty về mặt pháp luật. Cấp trên của CEO là hội
đồng quản trị hay hội đồng cổ đông (nếu là công ty cổ phần) hoặc hội đồng thành
viên (nếu là công ty TNHH). Cấp dưới của CEO là các Giám đốc chức năng và toàn
bộ bộ máy nhân sự của công ty. Với vị trí và quyền hạn rất cao như vậy, công việc
của một CEO là lập chiến lược hoạt động cho công ty (hoạch định, chỉ đạo thực

Board of directors

13


22

hiện và đánh giá chiến lược), thiết lập bộ máy quản lý, xây dựng văn hóa công ty,
thực hiện các hoạt động tài chính (huy động, sử dụng, kiểm soát vốn) và một nhiệm
vụ rất quan trọng nữa của CEO là dụng nhân, xây dựng và vận hành bộ máy nhân

sự hiệu quả… Vậy nên, nếu nói công ty như một cỗ máy thì CEO là người vận
hành, sửa chữa, bảo trì, nâng cấp để bộ máy ấy luôn hoạt động một cách trơn tru và
hướng đến chỉ số công suất cao nhất14.
Như vậy, sự khác biệt ở đây giữa director, president và manager trong luật
công ty Mỹ liên quan đến vấn đề sở hữu. Director gắn liền với quyền sở hữu vốn
của cá nhân đó trong doanh nghiệp, nhưng president và manager chỉ là các chức
danh điều hành.
Các công ty tổ chức theo lối châu Âu thường ít có chức vị hơn và đôi khi
ngược với các công ty kiểu Mỹ nên thường gây hiểu nhầm. HĐQT cũng có một
hình thức tương tự, tuy nhiên trong các công ty Pháp thì người chủ tịch HĐQT được
gọi là chủ tịch hội đồng cố vấn quản trị (president du conseil d’administration).
Chairman là chữ tiếng Anh nên người Pháp không dùng. Trong thành phần quản lý
công ty, người châu Âu không hay dùng các chức vị như Giám đốc, phó Giám đốc
(president, vice president) theo lối Mỹ, mà lại dùng chức tổng Giám đốc (director
general) và nhất là có nhiều người mang chức vị Giám đốc (director), nên nếu theo
tiêu chuẩn Mỹ thì lại cho rằng những người này là thành viên HĐQT. Trong một số
các công ty có quy mô nhỏ hơn, thì tổng Giám đốc được gọi là general manager,
còn thủ trưởng các ban ngành được gọi là manager (tương đương với president
trong hệ thống Mỹ).
Tuy nhiên, không một luật nào bắt buộc các công ty phải dùng các chức vị nói
trên. Vì vậy, rất nhiều công ty nhỏ muốn khuếch trương tên tuổi thường đặt cho
nhân viên của họ những chức vị rất kêu. Điều này giả thích tại sao phần đông các
công ty Mỹ đều sử dụng chức vị president, trong khi đó ở một ngân hàng Anh có
những nhân viên hàng chục năm kinh nghiệm, làm việc đến lúc bạc đầu, cũng chỉ là
một officer hay manager.
Bài viết “Phác thảo chân dung một CEO chuyên nghiệp”, The Unicom/Marketing, đăng trên website:
/>14


23


Tóm lại, về cơ bản nghĩa của từ Giám đốc trong tiếng Việt được dịch chủ yếu
từ các từ tiếng Anh sau: “president”, “director”, “manager”, “officer”… Luật Mỹ
chủ yếu dùng “president” và “manager” cho chức danh quản lý, Luật các nước châu
Âu chủ yếu dùng “director”, (tuy nhiên, Giám đốc trong nội hàm nghiên cứu của
luận văn này chính là Giám đốc điều hành (CEO) như đã đề cập ở trên).Tựu chung
lại, Giám đốc theo quan điểm của các nước châu Âu hay Mỹ đều là chức danh quản
lý, dù người đó có nắm giữ phần vốn góp trong doanh nghiệp hay không, nghĩa vụ
chủ yếu của người đó là quản lý điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của
doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoạt động của mình.
Vì vậy, theo quan điểm cá nhân, việc dịch nghĩa “Giám đốc” từ ba thuật ngữ tiếng
Anh nêu trên là hợp lý. Tuy nhiên, theo phân tích ở trên về cách thức sử dụng và
bản chất của các thuật ngữ đã nêu là khác nhau trong các hệ thống pháp luật khác
nhau. Do vậy, trước khi dịch cần chú thích đầy đủ mô hình doanh nghiệp và quốc
tịch doanh nghiệp để đối tượng tiếp nhận dễ hình dung.
Quay lại khái niệm “Giám đốc” theo pháp luật Việt Nam, mặc dù LDN không
đưa ra khái niệm thế nào là Giám đốc mà chỉ có những quy định về quyền và nghĩa
vụ của Giám đốc trong các loại hình doanh nghiệp cụ thể. Hiện nay khái niệm
Giám đốc được tiếp cận chủ yếu theo quan điểm của lí thuyết về quản trị nội bộ
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Theo đó, Giám đốc doanh nghiệp được
khái niệm: “Giám đốc doanh nghiệp là người được chủ sở hữu doanh nghiệp giao
cho quyền quản lý điều hành doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách
nhiệm trước người chủ sở hữu về mọi hoạt động của doanh nghiệp cũng như kết
quả của các hoạt động đó, đồng thời được hưởng thù lao tương xứng với kết quả
mang lại”15. Như vậy, về cơ bản định nghĩa này đã khái quát được thế nào là Giám
đốc doanh nghiệp ở các loại hình sở hữu khác nhau. Trong thực tế, có nhiều chủ sở
hữu đồng thời là Giám đốc doanh nghiệp. Ở nước ta, Giám đốc doanh nghiệp nhà
nước do nhà nước bổ nhiệm và hưởng lương theo chế độ quy định. Tuy nhiên, định
nghĩa này chưa khái quát được các hoạt động chủ yếu của Giám đốc là quản lý điều
Khái niệm “Giám đốc doanh nghiệp”, giáo trình Quản trị doanh nghiệp, trường Đại học Kinh tế quốc dân,

trang 93, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2013.
15


24

hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Hơn nữa, cụm từ “chế độ một
thủ trưởng” mang nặng tính chất quản lý hành chính nhà nước, trì trệ. Trong khi đó,
doanh nghiệp hiện nay chủ yếu được thành lập mới là doanh nghiệp thuộc khối tư
nhân, nhanh nhạy, linh hoạt và luôn biến động. Hơn nữa, trong thực tế, quản lý một
doanh nghiệp không phải chỉ có mình Giám đốc, Giám đốc chỉ quản lý điều hành
các công việc kinh doanh của công ty trong phạm vi được uỷ quyền của chủ sở hữu
doanh nghiệp, vì vậy việc qui cho Giám đốc phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt
động của doanh nghiệp cũng như kết quả của các hoạt động đó là điều hoàn toàn
không hợp lí. Còn dĩ nhiên, Giám đốc (dù sở hữu vốn góp trong doanh nghiệp hay
chỉ là chức danh quản lý), đã là lao động chân chính, quyền được hưởng thù lao
tương xứng là lẽ tất nhiên nên thiết nghĩ không cần thiết phải nêu trong khái niệm.
Căn cứ trên những phân tích về các điều luật liên quan đến Giám đốc của LDN
2014 và hệ thống các chức danh quản trị doanh nghiệp theo mô hình các quốc gia
trên thế giới, tác giả luận văn đưa ra định nghĩa về Giám đốc như sau:“ Giám đốc là
người quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh
nghiệp, được bổ nhiệm hoặc thuê bởi chủ sở hữu doanh nghiệp, chịu trách nhiệm
trước chủ doanh nghiệp và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được giao”.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của Giám đốc công ty
Thứ nhất, Giám đốc là một nghề: Giám đốc, ngày nay, về cơ bản được xác
định là một nghề hơn là một chức danh quản lý, nhất là trong giai đoạn phát triển
của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, khi mà nhu cầu về Giám đốc điều hành
(CEO) đang ngày một nhiều, nhiều công ty trong nước thậm chí sẵn sàng chi tiền để
thuê CEO nước ngoài. Hoạt động của Giám đốc chủ yếu là hoạt động trí óc, mang

tính quản lý, có tính chất phức tạp và đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng.
Thứ hai, hoạt động của Giám đốc là hoạt động quản lý điều hành công việc
kinh doanh: Với cương vị là người đứng đầu công ty, hoạt động của Giám đốc trước
hết là hoạt động quản lý mà đầu tiên và chủ yếu là quản lý việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của công ty. Giám đốc đề ra các cách thức, biện pháp để các bộ


25

phận trong công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đối tượng chủ yếu của quản
lý ở đây là hoạt động thực thi các chiến lược kinh doanh được cụ thể hoá theo sự
phân công nhiệm vụ của từng bộ phận và cá nhân trong công ty. Về cơ bản, bộ phận
nhân sự tuyển nhân viên theo đúng khả năng của họ, phù hợp với nhu cầu của công
ty. Tuy nhiên, thực tiễn kinh doanh không phải lúc nào cũng tiến hành thuận lợi
theo sự phân công sẵn có. Trong những trường hợp cần thiết, dựa vào kinh nghiệm
quản lý của mình và tính chất hoạt động của từng bộ phận trong công ty, Giám đốc
phải có chính sách yêu cầu các bộ phận có liên quan hỗ trợ bộ phận chủ quản để có
thể hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh đúng thời hạn. Sự phân công, điều phối nhiệm
vụ của Giám đốc ở đây chính là hoạt động điều hành. Bởi vậy, nhiệm vụ quản lý
công ty của Giám đốc ở đây được hiểu là hoạt động quản lý điều hành, chứ không
phải là sự quản lý vĩ mô thông qua các chính sách, đường lối nói chung. Đích đến ở
đây không đơn giản mang tính tầm nhìn mà là mục tiêu cụ thể đạt được đến đâu,
phải làm gì để đạt được.
Thứ ba, hoạt động của Giám đốc mang tính chất định hướng, khơi nguồn cảm
hứng của một nhà sư phạm, nhà hoạt động xã hội: Hoạt động quản lý của Giám đốc
không đơn giản chỉ là sự quản lý thông thường, đó là sự phức hợp giữa một nhà sư
phạm, một nhà hoạt động xã hội trong hình hài của một doanh nhân. Người Giám đốc
phải là người vừa biết viết, vừa biết truyền đạt, không chỉ kiến thức mà cả cảm hứng
cho đội ngũ nhân viên của mình, để những người dưới trướng mình luôn sử dụng
không chỉ 100% mà thậm chí 200% sức lực và tài năng của họ để kiếm tiền cho công

ty. Để làm được điều đó, Giám đốc phải là người giỏi chuyên môn, nắm vững những
vấn đề về luật pháp, hiểu rõ chính sách kinh tế và chế độ của nhà nước đối với lĩnh vực
kinh doanh của công ty, vì một lẽ đơn giản, muốn mọi bàn thắng của anh đều được tính
điểm, anh phải hiểu rõ luật chơi, nếu không mọi nỗ lực đều là vô nghĩa.
Thứ tư, kết quả của hoạt động quản lý điều hành công ty của Giám đốc được
thể hiện qua các quyết định: Sản phẩm hoạt động của Giám đốc là các quyết định và
lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ các quyết định đó. Quyết định công
việc hàng ngày của Giám đốc được đánh giá là hành vi sáng tạo mang tính chỉ thị,


×