Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Người đại diện theo ủy quyền trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.29 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

VƢƠNG QUỐC HẢI

NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

VƢƠNG QUỐC HẢI

NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số

: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Anh Tuấn

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
đượcthực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Anh Tuấn
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Trong quá trình thực hiện, Luận văn có tham khảo một số chuyên đề,
các bài viết có liên quan và được trích dẫn đầy đủ, nguồn tài liệu trích dẫn
được liệt kê tại Danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối của Luận văn

TÁC GIẢ

Vƣơng Quốc Hải


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự


BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

TA

: Tòa án

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TCTAND

: Tổ chức tòa án nhân dân


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI
DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ........................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người đại diện theo ủy quyền trong TTDS .. 8
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS............... 8
1.1.2. Đặc điểm của người đại diện theo ủy quyền trong TTDS ............ 12
1.1.3.Vai trò của người đại diện theo ủy quyền trong TTDS ................. 14
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về người đại diện theo ủy quyền
trong TTDS ......................................................................................... 16
1.2.1.Cơ sở lý luận .................................................................................. 16
1.2.2.Cơ sở thực tiễn ............................................................................... 22
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về người đại diện theo ủy
quyền trong TTDS ở Việt Nam .......................................................... 22
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 ............................... 22
1.3.2. Giai đoạn từ Cách Mạng tháng Tám 1945 đến năm 1989 ............ 23
1.3.3. Giai đoạn từ 1989 đến năm 2004 .................................................. 26
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay .................................................... 27
1.4. Pháp luật một số nước về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... 30
1.4.1. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLTTDS Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa 2002...................................................... 30
1.4.2. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLTTDS Cộng
Hòa Liên Bang Nga 2003 ............................................................. 31
1.4.3. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLTTDS Cộng Hòa Pháp... 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TTDS
NĂM 2015 VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN .......................... 36


2.1. Thực trạng quy định về điều kiện trở thành người đại diện theo ủy

quyền trong TTDS .............................................................................. 36
2.2. Thực trạng các quy định về phạm vi tham gia tố tụng của người đại
diện theo ủy quyền trong TTDS ......................................................... 46
2.3. Thực trạng các quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo
ủy quyền trong TTDS ......................................................................... 49
2.4. Thực trạng các quy định về căn cứ phát sinh và chấm dứt đại diện theo
ủy quyền trong TTDS và hậu quả pháp lý .......................................... 51
2.5. Vướng mắc, bất cập của các quy định của pháp luật về ủy quyền trong
TTDS……………………………………………… ………………………54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2…………………. ……………………………...58
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTDS
NĂM 2015 VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN VÀ KIẾN NGHỊ
......................................................................................................................... 59
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về người đại diện theo ủy quyền
trong TTDS ......................................................................................... 59
3.1.1. Về kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định về
người đại diện theo ủy quyền trong TTDS ............................................. 59
3.1.2. Về vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thực hiện các quy định về
người đại diện theo ủy quyền trong TTDS ................................... 60
3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật người đại diện theo ủy
quyền trong TTDS…………………………………………………...77
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3…………………………………………………..82
KẾT LUẬN CHUNG…………..…………………………………………..83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Luật TTDS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được
hình thành nhằm giải quyết các tranh chấp, yêu cầu liên quan đến các quan hệ
phát sinh trong đời sống, xã hội như: quan hệ dân sự, quan hệ kinh doanh –
thương mại, quan hệ lao động và quan hệ hôn nhân và gia đình. Các quan hệ
này do pháp luật nội dung như pháp luật về dân sự, doanh nghiệp, thương
mại, lao động, hôn nhân và gia đình điều chỉnh và có điểm chung là hình
thành dựa trên sự bình đẳng, tự do tự nguyện và quyền tự định đoạt của các
đương sự. Quan hệ pháp luật TTDS phát sinh khi xuất hiện một hay nhiều bên
chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật. Khi tham gia vào quan hệ TTDS, những đặc điểm phản ánh quan
hệ pháp luật nội dung vẫn được giữ nguyên, đương sự sẽ được đặt vào vị trí
trung tâm trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vụ án được
khách quan, đúng quy định của pháp luật thì việc xác định tư cách, địa vị
pháp lý của các đương sự, quyền hạn và nghĩa vụ của các đương sự và mối
quan hệ giữa người tham gia tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng được xem
xét là vấn đề trọng tâm của pháp luật TTDS.
Với xu thế phát triển của xã hội văn minh, đại diện luôn là một nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như trong môi trường pháp lý. Đại
diện trong TTDS dần trở thành một chế định quan trọng trong pháp luật
TTDS Việt Nam. Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,
dân sự, kinh tế văn hóa xã hội”. Đó cũng là một trong những nguyên tắc quan
trọng của TTDS: mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ


2

TTDS (Điều 8 BLTTDS 2015). Theo đó, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã

hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước
TA.TA có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong TTDS. Các đương sự
đều được pháp luật trao cho các quyền tố tụng làm phương tiện để bảo vệ
quyền lợi của mình trước TA, đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ tố tụng
nhất định, hợp tác với TA trong giải quyết vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, trong những trường hợp đương sự vì các lý do khách quan,
chủ quan không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp, họ cũng cần thực hiện thông những chủ thể đại diện
cho mình được pháp luật thừa nhận. Do vậy, chế định đại diện, đặc biệt là đại
diện theo ủy quyền, cần phải được chú trọng để bảo đảm cho các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự được thực hiện trên thực tế.
Người đại diện theo ủy quyền là một trong những bộ phận không thể
thiếu trong pháp luật TTDS. Việc xác định đúng người đại diện theo ủy
quyền, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền có vai trò hết sức
quan trọng.
Các quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
BLTTDS năm 20151 kế thừa, phát triển đồng thời khắc phục được đáng kể
những hạn chế, bất cập trong các văn bản tố tụng trước đó2. Tuy nhiên, một số
quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS năm 2015 còn chưa
đầy đủ, nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng, có những vấn đề cần
1

Người đại diện của đương sự được quy định tại Mục 2 Chương VI (từ Điều 85 tới Điều 90) và tại Phần thứ
sáu Chương XXIII (Điều 367, Điều 368, Điều 369, 370) của BLTTDS năm 2015
2
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và
Bộ luật TTDS 2004, BLTTDS sửa đổi năm 2011.



3

thiết nhưng chưa được luật hóa…Các quy định về đại diện ủy quyền của
đương sự trong TTDS của BLTTDS năm 2015 chủ yếu được dẫn chiếu tới
các quy định chung về đại diện theo pháp luật trong BLDS 2015. Nhìn chung
các quy định về đại diện theo ủy quyền trong BLTTDS năm 2015 vẫn giữ
nguyên các quy định trong BLTTDS 2004 và phát triển trên cơ sở các quy
định về đại diện trong BLDS 2015.
Trong thực tiễn tố tụng đã phát sinh rất nhiều bất cập liên quan đến
người đại diện theo ủy quyền của đương sự như xác định sai về địa vị pháp lý
của người đại diện theo ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của người được đại diện
chưa cụ thể, chưa có các quy định rõ ràng về người đại diện theo ủy quyền của
pháp nhân, chưa quy định rõ các nội dung mà người đại diện theo ủy quyền đại
diện cho đương sự khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ, quyền kháng
cáo của người đại diện theo ủy quyền dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
tố tụng, đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia TTDS.
Xuất phát từ vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự,
thực tiễn pháp luật và thực tiễn trong quá trình tố tụng, việc nghiên cứu các
quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự là nhu cầu cần thiết.
Với những lý do trên, Luận văn đã đi vào nghiên cứu một cách chi tiết và cụ
thể về đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS Việt Nam, từ lý luận
đến thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các quy
định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy, trong thời gian qua đã có một vài công trình nghiên cứu có
liên quan về người đại diện của đương sự. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu về người đại diện của đương sự sau:
Về luận án, luận văn, khóa luận có những công trình sau đây: Luận án

tiến sĩ “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trongTTDS” của tác giả Nguyễn


4

Công Bình; Luận văn thạc sĩ “Vị trí, vai trò của Luật sư trong TTDS” của tác
giả Trần Phương Thảo; Luận văn thạc sĩ “Người đại diện của đương sự trong
TTDS” của tác giả Nguyễn Thu Hà năm 2012; Luận văn thạc sĩ „Người đại
diện của đương sự theo ủy quyền trong TTDS Việt Nam‟ của tác giả Lê Hùng
Nhân năm 2012; Luận văn thạc sĩ „Người đại diện theo pháp luật trong TTDS
Việt Nam‟ của tác giả Phạm Thị Thu Hoài năm 2016.
Về giáo trình, sách chuyên ngành tham khảo, chuyên khảo đã xuất bản
có đề cập tới vấn đề người đại diện của đương sự, bao gồm Giáo trình Luật
TTDS Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội) do TS. Nguyễn Công Bình
chủ biên năm 2005 được Nhà xuất bản Công an nhân dân tái bản năm 2017,
Giáo trình Luật TTDS (Học viện Tư pháp) do PGS. TS Phan Hữu Thư và TS.
Lê Thu Hà chủ biên được Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm
2007, sách “Pháp luật TTDS và thực tiễn thi hành” của tác giả Lê Thu Hà do
Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006. TS Lê Đình Nghị (2016), “Giáo
trình luật dân sự Việt Nam tập 1”, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Giáo
dục, Hà Nội. Bùi Thị Huyền (Chủ biên) (2016), “Bình luận Bộ luật TTDS
năm 2015”, Nxb Lao động, Hà Nội. PGS.TS Đỗ Văn Đại (2016), “Bình luận
khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015”, Hội Luật gia Việt Nam,
Nxb Hồng Đức, Tp Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn có các bài viết trên báo và tạp chí như bài viết “Một số
suy nghĩ về đại diện của đương sự TTDS” của tác giả Tưởng Duy Lượng
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2007; bài viết “Quyền của người đại
diện của đương sự được quy định tại Điều 243 BLTTDS” của tác giả Nguyễn
Văn Dũng đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 4/2006. Bài viết “Đại diện của
đương sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Minh Nhất (2015);

Bài viết “Người đại diện của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà; bài viết “Một số vấn đề liên quan đến


5

người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hình sự” của tác giả Lê Văn Sua
(2017).
Tuy nhiên, việc nghiên cứu các tài liệu này cho thấy hướng tiếp cận
nghiên cứu của những công trình nói trên chủ yếu được khai thác dưới góc độ
bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự, bảo đảm sự tham gia TTDS của luật sư,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà không trực tiếp
nghiên cứu chuyên sâu về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
TTDS. Một số công trình tuy có nghiên cứu trực tiếp về người đại diện của
đương sự nhưng chỉ tiếp cận dưới góc độ khái quát lý luận hoặc do giới hạn
cấp độ nghiên cứu nên chưa có điều kiện nghiên cứu sâu rộng hoặc chỉ đề cập
tới một vài khía cạnh về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
TTDS. Do vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong TTDS là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật TTDS hiện hành về người
đại diện theo ủy quyền của đương sự trongTTDS;
- Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTDS về người đại diện theo ủy
quyền của đương sự trong TTDS;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
TTDS về người đại diện theo ủy quyền của đương sự TTDS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Người đại diện của đương sự trong TTDS là một vấn đề nghiên cứu

tương đối lớn, có phạm vi nghiên cứu rộng, có thể được nghiên cứu dưới
nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Trong phạm vi nhất định, Luận văn
không nghiên cứu về người đại diện của đương sự trong TTDS nói chung mà


6

chỉ tập trung nghiên cứu về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án. Cụ thể, luận văn sẽ triển
khai nghiên cứu về những vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong TTDS;
- Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về người đại diện theo
ủy quyền của đương sự trong TTDS;
- Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành
về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận đề nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lê Nin, gắn kết tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của đảng và pháp luật của Nhà nước về chế
định người đại diện theo ủy quyền trong TTDS.
Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm một số phương pháp như
phương pháp phân loại pháp lý, so sánh pháp luật, phân tích quy phạm, mô
hình hóa và điển hình hóa các quan hệ xã hội, phương pháp phân tích lịch sử,
phân tích quan điểm, quan niệm, hệ thống hóa, thống kê, điều tra xã hội học.
Phương pháp phân loại pháp lý được sử dụng để xác định vấn đề cần làm rõ
thuộc điều chỉnh của ngành luật nào, chế định nào được sử dụng để xác minh
tính đúng đắn của vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu.
Phương pháp phân tích lịch sử, so sánh pháp luật được sử dụng trong
nghiên cứu đề tài. Bởi lẽ, chế định đại diện theo ủy quyền của đương sự, phải

được đặt trong mối liên hệ với lịch sử, với các quan điểm khác nhau về nó, so
sánh với pháp luật mỗi quốc gia, để nhận thấy những giá trị đích thực của các quy
phạm điều chỉnh về vấn đề đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS.


7

6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện các
quy định của Bộ luật TTDS năm 2015 về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS. Các công trình nghiên cứu khác chỉ dừng lại ở một
mức độ khái quát về chế định người đại diện nói chung.
Luận văn phân tích toàn diện, chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, vai
trò của người đại diện theo theo ủy quyền của đương sự trong TTDS, việc
phân loại đại diện, cơ sở xây dựng các quy định về người đại diện theo theo
ủy quyền của đương sự trong pháp luật TTDS Việt Nam.
Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về người
đại diện theo ủy quyền của đương sự cũng như thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật, từ đó rút ra những hạn chế và đề xuất một số giải pháp
nhằm kiến nghị và hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS. Luận văn còn có giá trị sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn với đề tài “Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
Bộ luật TTDS 2015” thuộc chuyên ngành luật dân sự và TTDS, được kết cấu
bởi ba chương ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Ba chương của luận văn bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS.
Chương 2: Thực trạng các quy định của Bộ luật TTDS 2015 về người

đại diện theo ủy quyền.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật TTDS 2015 về
người đại diện theo ủy quyền và kiến nghị.


8

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngƣời đại diện theo ủy quyền
trong TTDS
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS
Để xây dựng thành công khái niệm về người đại diện theo ủy quyền
trong TTDS, trước tiên ta cần hiểu rõ một số định nghĩa sau đây.
Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh, “tố
tụng”: “là việc thưa kiện”; “tố tụng pháp lý”: “là việc pháp luật quy định
những thủ tục về cách tố tụng”.
“Tố tụng” là một từ có nguồn gốc từ tiếng La tinh, được hiểu là một
quy trình phải tuân theo trong vụ kiện tụng. Ở Anh, các nhà nghiên cứu luật
học quan niệm: “tố tụng” là những bước tiến hành mang tính hình thức mà
thông qua đó vụ kiện được giải quyết. Các nhà nghiên cứu luật học Pháp lại
cho rằng: “tố tụng” là toàn bộ những thể thức phải tuân theo để đệ trình một
yêu cầu trước Thẩm phán.
Thuật ngữ “TTDS” được hiểu là trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt
động do pháp luật quy định để TA xem xét giải quyết và thi hành các vụ án
dân sự. Trình tự, thủ tục TTDS theo pháp luật Việt Nam bao gồm: khởi kiện,
yêu cầu và thụ lý giải quyết vụ án dân sự, lập hồ sơ, hòa giải, xét xử theo thủ
tục sơ thẩm, xét xử theo thủ tục phúc thẩm, xem xét lại bản án, quyết định của
TA đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Trong quá trình giải quyết các VADS tại TA, pháp luật quy định trường
hợp đương sự vì những lý do khác nhau (do sức khỏe, công việc, thiếu kiến
thức pháp luật, thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng,…) không thể hoặc gặp


9

khó khăn khi tham gia quá trình tố tụng có thể ủy quyền cho cá nhân hoặc
pháp nhân khác đại diện cho đương sự tham gia tố tụng tại TA để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đại diện là một quan hệ pháp lý theo đó người đại diện độc lập thực
hiện sự thể hiện ý chí làm phát sinh hệ quả pháp lý trực tiếp đối với người
được đại diện. Từ góc độ lý luận có thể thấy đại diện là một chế định pháp lý
thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự
của các chủ thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ủy quyền” “là giao quyền cho ai đó thay mặt
mình”. Như vậy, có thể hiểu ủy quyền là việc người ủy quyền giao cho người
được ủy quyền thay mặt mình thực hiện một số quyền hạn trong phạm vi pháp
luật quy định. Đến đây, ta cần phân biệt hai khái niệm “ủy quyền” và “ủy
nhiệm”. “Ủy nhiệm” là việc người ủy nhiệm giao cho người được ủy nhiệm
quyền được làm những công việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình bằng
văn bản ủy nhiệm.
Trong khoa học pháp lý, vấn đề ủy quyền trong TTDS được các nhà
nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới mỗi góc độ, người đại
diện theo ủy quyền trong TTDS lại đóng một vai trò khác nhau.
+ Ủy quyền trong TTDS là một quan hệ pháp luật
Trong đó, quan hệ giữa người được đại diện và người đại diện theo ủy
quyền được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Các bên tham gia quan hệ
pháp luật này phải đáp ứng những điều kiện cụ thể, có quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm theo thỏa thuận trên cơ sở những quy định của pháp luật để người

đại diện theo ủy quyền có thể nhân danh người được đại diện, trong phạm vi
ủy quyền, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện
trong quá trình tham gia TTDS tại TA.


10

Theo đó, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS là một chủ thể của
quan hệ pháp luật. Chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, thực hiện
nghĩa vụ thay mặt chủ thể ủy quyền tham gia TTDS tại TA. Người đại diện
theo ủy quyền trong TTDS phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Cá nhân, pháp nhân phải có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và
năng lực hành vi TTDS) phù hợp với phạm vi ủy quyền được xác lập. Cá
nhân là người đại diện theo ủy quyền trong TTDS phải là người từ đủ 18 tuổi
trở lên, có năng lực hành vi TTDS đầy đủ. Pháp nhân là chủ thể được ủy
quyền phải có đủ khả năng thực hiện công việc ủy quyền (có đăng ký kinh
doanh hoặc trong nhiệm vụ, quyền hạn của pháp nhân ghi rõ về việc có thẩm
quyền hoạt động dịch vụ tư vấn pháp lý, đại diện theo ủy quyền trong hoặc
ngoài tố tụng)
- Cá nhân, pháp nhân không thuộc các trường hợp không được làm
người đại diện theo ủy quyền là các trường hợp mà sự tham gia của các chủ
thể này có thể tác động đến những người tiến hành tố tụng, ảnh hưởng đến
quá trình giải quyết khách quan VADS nên họ không được tham gia với tư
cách người đại diện theo ủy quyền.
- Pháp nhân là chủ thể được ủy quyền trong TTDS phải đảm bảo đầy
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể, đối với pháp nhân được
ủy quyền tham gia TTDS là công ty trách nhiệm hữu hạn thì căn cứ vào điều
lệ công ty, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để xác định người đại diện
theo pháp luật nhân danh công ty đảm nhiệm vai trò là người đại diện theo ủy
quyền nếu công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật. Đối với pháp nhân

được ủy quyền tham gia TTDS là công ty hợp danh thì các thành viên trong
công ty đều có thể nhân danh công ty thực hiện vai trò là người đại diện theo
ủy quyền. Đối với pháp nhân được ủy quyền tham gia TTDS là cơ quan thì


11

người đại diện theo pháp luật của cơ quan sẽ thay mặt cơ quan đó thực hiện
việc đại diện theo ủy quyền.
Về mặt nội dung của quan hệ pháp luật, người đại diện theo ủy quyền
trong TTDS có quyền yêu cầu người được đại diện cung cấp các thông tin, tài
liệu, chứng cứ, phương tiện nhằm thực hiện công việc ủy quyền; có thể ủy
quyền lại cho người thứ ba nếu được người đại diện cho phép hoặc pháp luật
có quy định; có quyền được hưởng thù lao theo thỏa thuận; được thanh toán
chi phí khác. Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS có nghĩa vụ thực hiện
việc tham gia TTDS trong phạm vi ủy quyền theo thỏa thuận trên cơ sở những
quy định của pháp luật; phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vượt quá hoặc
không thực hiện đúng thỏa thuận. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý sẽ phòng
ngừa trường hợp người đại diện theo ủy quyền sử dụng quyền và nghĩa vụ
được giao làm vụ án chuyển biến theo chiều hướng không mong muốn của
người được đại diện.
+ Ủy quyền trong TTDS mang đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dân
sự. Nói cách khác, hợp đồng ủy quyền trong TTDS bao gồm các điều khoản
của một hợp đồng dân sự. Hợp đồng ủy quyền trong TTDS là sự tự nguyện
thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện
tham gia TTDS tại TA, nhân danh bên ủy quyền trong phạm vi văn bản ủy
quyền trên cơ sở không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức
xã hội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên ủy quyền trước TA.
Theo đó, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS là một chủ thể của
hợp đồng ủy quyền. Chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân có năng

lực chủ thể và đáp ứng các yêu cầu nhất định như đã phân tích ở trên. Hợp
đồng ủy quyền cho phép bên được ủy quyền là một hoặc nhiều người. Trên cơ
sở hợp đồng ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện
việc tham gia tố tụng tại TA trong phạm vi ủy quyền thay cho người được đại


12

diện. Việc thỏa thuận ủy quyền tham gia TTDS tại TA không được vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Theo quy định của pháp
luật, việc tham gia tố tụng trong vụ án hôn nhân gia đình, tham gia tố tụng
cho hai đương sự có quyền và lợi ích đối lập, … không là đối tượng của hợp
đồng ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về phạm vi ủy quyền, người ủy quyền có thể ủy quyền toàn bộ hoặc
một phần việc tham gia TTDS tại TA cho người đại diện thao ủy quyền như
ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự, ủy quyền tham gia hòa giải, ủy quyền tham
gia tranh tụng tại phiên tòa.v.v… Hợp đồng ủy quyền có thể là hợp đồng có
đền bù hoặc không có đền bù. Về hình thức của hợp đồng ủy quyền: bắt buộc
bằng văn bản. Các nội dung về thời hạn có hiệu lực của hợp đồng ủy quyền;
thời hạn ủy quyền; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên; căn cứ chấm
dứt việc ủy quyền; … tương tự như một hợp đồng dân sự thông thường.
1.1.2. Đặc điểm của người đại diện theo ủy quyền trong TTDS
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự mang đầy đủ các đặc điểm
của đương sự - Người tham gia tố tụng, ngoài ra còn có một số đặc trưng:
+ Người đại diện theo ủy quyền là kết quả của việc ủy quyền trên cơ sở
sự thỏa thuận của người được đại diện và người đại diện
Ủy quyền trong TTDS là một nhánh của ủy quyền nói chung do pháp
luật dân sự quy định. Ủy quyền trong TTDS phải tuân theo những nguyên tắc
chung của luật dân sự đó là sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong việc
thiết lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể. Cơ

sở đầu tiên hình thành nên mối quan hệ ủy quyền cũng như hình thành người
được ủy quyền trong TTDS là sự thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các
bên, tuy nhiên ý chí của các bên phù hợp với ý chí của nhà nước.
+ Người đại diện theo ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ TTDS của
người được đại diện trong phạm vi ủy quyền


13

Trong TTDS, các bên trong quan hệ ủy quyền sẽ thỏa thuận về việc
người đại diện nhân danh, vì lợi ích của người được đại diện tham gia tố tụng
tại TA. Theo đó, người được đại diện có thể ủy quyền toàn bộ hoặc một phần
quyền và nghĩa vụ TTDS cho người đại diện. Như vậy, người đại diện theo ủy
quyền trong TTDS chỉ được thực hiện quyền, nghĩa vụ của người được được
đại diện trong phạm vi thỏa thuận.
Trên thực tế, không phải bất cứ trường hợp nào khi thay mặt người
được đại diện tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền cũng có thể thực
hiện quyền, nghĩa vụ TTDS dù đã được thỏa thuận. Bởi vì, ý chí của người
được đại diện luôn được đặt lên hàng đầu, ý chí của người đại diện theo ủy
quyền phải được kiểm chứng, xác nhận, đồng ý của người được đại diện.
Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở đương sự phải là người tự quyết
định, thể hiện ý chí, ý chí của người đại diện theo ủy quyền phải là ý chí của
đương sự, người được đại diện. Đây là nguyên tắc phòng ngừa rủi ro cho phán
quyết của TA trong trường hợp trong trường hợp ý kiến của người đại diện
theo ủy quyền và người được đại diện không đồng nhất.
+ Người đại diện theo ủy quyền của đương sự nhân danh đương sự
tham gia TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Việc pháp luật cho phép đương sự được ủy quyền cho người khác thay
mặt mình tham gia tố tụng được xem là giải pháp tạo điều kiện cho cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác là đương sự trong TTDS tham gia vào hoạt

động tố tụng tại TA một cách thuận lợi. Thông qua ủy quyền, người đại diện
theo ủy quyền sẽ thay mặt người được đại diện tham gia vào một phần hoặc
toàn bộ quá trình trình tố tụng. Quyền, nghĩa vụ của người được đại diện được
thực hiện gián tiếp thông qua người đại diện theo ủy quyền, hiệu lực của việc
thực hiện tương đương với thực hiện trực tiếp.


14

Người đại diện theo ủy quyền là cầu nối trung gian của người được đại
diện nhưng cầu nối này không phải chịu tác động từ bản án, quyết định của
TA (trừ trường hợp họ cũng là một bên đương sự). Người đại diện theo ủy
quyền luôn nhân danh người được đại diện chứ không phải nhân danh chính
mình trong các mối quan hệ khác trong quá trình tố tụng. Khi bản án, quyết
định của TA có hiệu lực pháp luật sẽ tác động vào đối tượng là nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan chứ không bao gồm người đại
diện theo ủy quyền.
Trường hợp người đại diện theo ủy quyền là một bên đương sự, cần
phải tách biệt hai mối quan hệ, khi là người đại diện theo ủy quyền nhân danh
và vì lợi ích của người được đại diện và khi là một bên đương sự tham gia tố
tụng nhân danh và vì lợi ích của chính mình; họ sẽ chịu trách nhiệm đối với
phần quyết định, phán quyết liên quan đến mình, phần phán quyết, quyết định
tác động đến người được đại diện sẽ không ảnh hưởng đến người đại diện
theo ủy quyền.
1.1.3.Vai trò của người đại diện theo ủy quyền trong TTDS
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003, khái
niệm “vai trò” được hiểu là “tác dụng, chức năng của một vật, một cá thể,
một sự kiện một cái gì đó”[24, tr.1095]. Như vậy nói đến vai trò của người
đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS là nói đến những tác động,
ảnh hưởng của người đại diện theo ủy quyền đối với từng cá nhân tổ chức

trong TTDS, thông qua hoạt động đại diện của mình, là nói đến những tác
động, ảnh hưởng của đại diện theo ủy quyền đối với quá trình xây dựng, phát
triển và tạo lập công bằng xã hội. Vai trò của người đại diện theo ủy quyền
của đương sự được thể hiện trên những phương diện sau:
+ Vai trò về mặt pháp lý
Thứ nhất, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong nhiều trường hợp, mặc dù


15

đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự có đầy đủ năng lực
hành vi TTDS, có thể tự mình tham gia tố tụng tại TA, nhưng do trình độ hiểu
biết pháp luật còn hạn chế hoặc vì một lý do chủ quan hay khách quan nào đó
không thể tham gia tố tụng được, khi đó đương sự, người đại diện theo pháp
luật sẽ ủy quyền cho một cá nhân, pháp nhân đại diện cho mình tham gia tố
tụng để có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự một cách thuận
tiện hơn.
Thứ hai, người ủy quyền trong TTDS góp phần làm cho quá trình giải
quyết VADS tại TA được thuận lợi, góp phần bảo vệ pháp luật, pháp chế Xã
hội chủ nghĩa. Khi quan hệ ủy quyền trong TTDS được thiết lập, người đại
diện theo ủy quyền sẽ được trao quyền thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS
của đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự tại TA trong phạm
vi được ủy quyền. Những quyền, nghĩa vụ TTDS được người đại diện theo ủy
quyền sử dụng, trong những trường hợp cụ thể đã giúp ích rất nhiều cho TA
trong quá trình Tố tụng. Sự tham gia của người đại diện theo ủy quyền, đa
phần là luật sư hay những người có kiến thức, hiểu biết luật pháp cũng giúp
phòng tránh được sự chủ quan từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần
hạn chế tình trạng sai, sót,... .
+ Vai trò về chính trị - xã hội

Thứ nhất, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS thực hiện chức
năng trợ giúp xã hội. Ủy quyền trong TTDS là chế định nhằm bảo vệ quyền
con người, bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật. Qua chế định
này, đương sự có nhiều hơn một phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp khi tham gia TTDS. Tính trợ giúp xã hội của người đại diện theo ủy
quyền trong TTDS thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau như: người đại
diện theo ủy quyền thường là người am hiểu hiểu pháp luật, có kinh nghiệm
tố tụng, ngược lại, người được đại diện thường không biết hoặc không hiểu rõ


16

pháp luật, đặc biệt là pháp luật về TTDS, không có kinh nghiệm tố tụng tại
TA; người được đại diện có thể do các lý do chủ quan, khách quan khác nhau
mà không thể tự mình tham gia tố tụng; dù tính chất công việc của người đại
diện theo ủy quyền là công việc có hưởng thù lao, nhưng không thể phủ nhận,
việc người đại diện theo ủy quyền thay mặt đương sự tham gia quá trình tố
tụng tại TA đã giúp ích rất nhiều cho đương sự cũng như góp phần đẩy nhanh
tiến độ giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS góp phần nâng cao
ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTDS nói chung
và của người được đại diện nói riêng. Đa phần các đương sự, không nắm
được quy định của pháp luật TTDS, không có kinh nghiệm trong hoạt động
TTDS. Khi đương sự ủy quyền cho một cá nhân, pháp nhân am hiểu pháp luật
đại diện cho mình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền sẽ dễ dàng,
chủ động trong việc thu thập các tài liệu, chứng cứ, đưa ra các yêu cầu phù
hợp với quy định của pháp luật, hợp tác với TA khi được yêu cầu, ... đảm bảo
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua những trao đổi, bàn
luận, góp ý, trong quá trình thực hiện việc ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền
sẽ có những tác động nhất định đến người đương sự, giúp bản thân họ và những

người xung quanh nâng cao ý thức, hiểu biết và vận dụng các quy định của pháp
luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân sau này.
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo ủy
quyền trong TTDS
1.2.1.Cơ sở lý luận
Thứ nhất, quy định về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS đảm
bảo quyền tiếp cận công lý, quyền con người, quyền công dân
Quyền tiếp cận công lý với tư cách là quyền con người, đó là khả năng
của các chủ thể yêu cầu Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng


17

pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi
có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt như: quyền
tiếp cận thông tin pháp luật; quyền trợ giúp pháp lý, quyền tiếp cận giáo dục
đào tạo pháp luật các quyền này được thực hiện bởi một hệ thống tư pháp
công bằng và hiệu quả. Quyền tiếp cận công lý được thể hiện ở 5 nội dung:
Nhà nước pháp quyền, quyền trợ giúp pháp lý, quyền giáo dục đào tạo pháp
luật, quyền được biết thông tin pháp luật và một hệ thống tư pháp công bằng
và hiệu quả. Chính vì vậy, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin pháp luật là một
nội dung của quyền tiếp cận công lý. Muốn tiếp cận công lý một cách dễ
dàng, dân chúng phải có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật. Quyền tiếp
cận công lý của người dân là một trong những yếu tố cơ bản để xây dựng quy
định về người đại diện của đương sự; người đại diện của đương sự có tham
gia vào quá trình tố tụng, hiểu biết được pháp luật và những quy tắc xử sự khi
áp dụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện. Vì
vậy, việc có những quy định rõ ràng về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự, đảm
bảo các quyền tiếp cận công lý, quyền con người, quyền công dân cơ bản.

Thứ hai, quy định về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS đảm
bảo quyền tranh tụng của đương sự
Khi xét xử, TA phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, đảm bảo nguyên tắc dân chủ, khách quan,… Phán quyết của TA căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp, người đại diện để ra những bản án, quyết
định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.
Cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện cho người đại diện theo
ủy quyền của đương sự tham gia vào quá trình tố tụng. Đặc biệt là khi


18

BLTTDS 2015 đã có nhiều quy định đề cao vai trò của đương sự trong việc
xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như các quy định bảo đảm cho
các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như nguyên tắc
cung cấp chứng cứ và chứng minh, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của các
đương sự, các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự3…
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Thẩm phán
khi tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh
luận của đương sự để ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Nguyên tắc đảm
bảo tranh tụng trong xét xử và quyền tranh tụng của đương sự đã được quy
định tại BLTTDS 20154. Theo quy định, các đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tranh luận trong suốt quá trình TA
giải quyết VADS kể từ khi đương sự có yêu cầu và TA thụ lý cho đến khi xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong quá trình TA giải
quyết vụ việc dân sự, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự có quyền đưa ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu

cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho TA; có quyền yêu cầu TA
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp cần thiết để bảo
đảm chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu
hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề nghị TA xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được
hoặc đề nghị TA triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá,
thẩm định giá,…Các đương sự được bình đẳng trong việc thực hiện quyền
tranh luận, TA không được phân biệt đối xử giữa họ.

3
4

Điều 6, Điều 9; từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS năm 2015
Điều 24, Khoản 20 Điều 70 BLTTDSB năm 2015


19

Ngoài ra, TA còn có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo
quy định của pháp luật tạo điều kiện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để ra bản án, quyết
định đúng pháp luật; cũng như các đương sự đều phải được TA triệu tập tham
gia tố tụng; giải thích cho đương sự quyền tranh luận của họ; tạo điều kiện
cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu do người khác cung cấp hoặc TA
thu thập.
Trong TTDS, các đương sự không phải bất kì đương sự nào cũng có thể
tự mình trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng cũng như tranh tụng tại TA.
Đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự, như những phân tích
trên đây, có thể ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền thay mặt họ tham

gia tố tụng để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự đại diện cho đương sự
tham gia vào quá trình tố tụng, nhân danh đương sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tại TA, vì vậy người đại diện theo ủy quyền của đương sự có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ giống như đương sự, có quyền tranh tụng như đương
sự, tham gia vào quá trình tranh tụng để đảm bảo TA có thể đưa ra bản án
đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự theo đúng quy định
của pháp luật.
Thứ ba, quy định về người đại diện theo ủy quyền trong TTDS đảm bảo
người đại diện theo ủy quyền có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự
Quá trình TTDS khá phức tạp, vì vậy không phải ai cũng có thể làm tốt
việc bảo vệ quyền và lợi ích cho người khác. Về chủ quan, người đại diện
theo ủy quyền của đương sự trong TTDS phải có đủ năng lực cần thiết và về
khách quan, họ cần phải được pháp luật trao cho các quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhất định để thực hiện vai trò của mình. Cụ thể:


×