Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những giải pháp pháp lý trong bộ luật dân sự năm 2015 góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.72 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ MINH CHI

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁP LÝ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2015 GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT - KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ MINH CHI

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁP LÝ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2015 GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT - KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế


Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Đăng Huệ

HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn Thạc sỹ,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình và quý báu của nhiều
thầy cô và các bạn.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Dương Đăng
Huệ đã tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa đào tạo Sau
đại học cũng như các khoa chuyên môn trong nhà trường đã tận tình giảng
dạy, hướng dẫn, truyền đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè thuộc lớp cao học Kinh tế 22A
đã giúp tôi tìm kiếm tài liệu để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót hoặc có
những phần nghiên cứu chưa sâu. Rất mong nhận được sự chỉ bảo và thông
cảm của các thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Lê Minh Chi



LỜI CAM ĐOAN
Để thực hiện luận văn “Những giải pháp pháp lý trong Bộ luật dân sự
năm 2015 góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp” tôi đã tự mình nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề, vận dụng các kiến
thức đã học và trao đổi với giảng viên hướng dẫn là PGS.TS Dương Đăng
Huệ.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi,
hoàn toàn không sao chép từ tác phẩm nào khác. Các số liệu và kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chính xác. Các số liệu trích dẫn trong quá
trình nghiên cứu đều được ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Lê Minh Chi


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1. VAI TRÒ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG SẢN XUẤT – KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
6
1.1. Khái quát về doanh nghiệp
6
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
6
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
8
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh

doanh của doanh nghiệp
10
1.2. Vai trò của Bộ luật dân sự trong hoạt động của doanh nghiệp
16
1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Bộ luật dân sự Việt
Nam
16
1.2.2. Ý nghĩa của Bộ luật dân sự đối với hoạt động sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp
21
Kết luận chương 1
31
Chương 2. NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT –
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
32
2.1. Bộ luật dân sự 2015 hoàn thiện chế độ sở hữu và bổ sung thêm một
số quyền khác đối với tài sản, góp phần củng cố cơ sở vật chất (tài sản)
cho hoạt động của doanh nghiệp
32
2.1.1. Bộ luật dân sự 2015 củng cố chế định quyền sở hữu
32
2.1.2. Bộ luật dân sự 2015 bổ sung các quyền khác đối với tài sản
39
2.2. Bộ luật dân sự 2015 hoàn thiện chế định hợp đồng, góp phần tạo
thuận lợi cho việc xác lập, thực hiện các giao dịch trên thị trường
44
2.2.1. Bộ luật dân sự 2015 củng cố nguyên tắc tự do hợp đồng
45
2.2.2. Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận trách nhiệm cung cấp thông tin

trong giao kết hợp đồng
46
2.2.3. Bộ luật dân sự 2015 bổ sung quy định về điều kiện giao dịch
chung
47
2.2.4. Bộ luật dân sự 2015 hạn chế các trường hợp tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do vi phạm hình thức
48
2.2.5. Bộ luật dân sự 2015 bổ sung quy định mới về điều chỉnh hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
51
2.2.6. Bộ luật dân sự 2015 bổ sung quy định về đại diện của pháp nhân
trong giao kết và thực hiện hợp đồng
54
2.3. Bộ luật dân sự 2015 tăng cường cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp
55


2.3.1. Bộ luật dân sự 2015 khẳng định nguyên tắc mọi quyền dân sự đều
được Nhà nước công nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện
55
2.3.2. Bộ luật dân sự 2015 tăng cường phương thức và biện pháp bảo vệ
quyền dân sự
56
2.3.3. Bộ luật dân sự 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều
luật để áp dụng
58
2.3.4. Bộ luật dân sự 2015 sửa đổi quy định về thời hiệu

60
2.4. Một số hạn chế của Bộ luật dân sự 2015
62
2.4.1. Một số hạn chế liên quan đến quyền đối với tài sản
62
2.4.2. Một số hạn chế của Bộ luật dân sự 2015 liên quan đến hợp đồng
68
Kết luận chương 2
70
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THỰC THI CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015, GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
71
3.1. Giải pháp thúc đẩy việc thực hiện các quy định của Bộ luật dân sự
2015 liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
71
3.1.1. Tuyên truyền để các doanh nghiệp nắm vững được các quy định
mới của Bộ luật dân sự 2015 liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
71
3.1.2. Tổ chức nghiên cứu, soạn thảo, ban hành các cuốn bình luận Bộ
luật dân sự dưới góc độ hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp 73
3.1.3. Tổ chức triển khai Bộ luật dân sự 2015 sâu rộng trong bộ máy cơ
quan công quyền
75
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định trong Bộ luật dân sự 2015 liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp
79
Kết luận chương 3
82
KẾT LUẬN

83


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 30 năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương đẩy mạnh
việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lí của Nhà nước. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã tiến
hành đổi mới kinh tế bằng nhiều chính sách nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển. Điều này đã thúc đẩy sự gia
tăng không ngừng về số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp.
Để có thể tác động một cách có hiệu quả đến hoạt động sản xuất - kinh
doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ, trong đó
pháp luật được coi là công cụ hiệu quả và hiệu lực nhất. Bên cạnh Hiến pháp
cũng như các luật chuyên ngành, Bộ luật dân sự 2015 ra đời đã ghi nhận
nhiều giải pháp pháp lý mới chưa từng có trong pháp luật dân sự nước nhà và
sự áp dụng các quy định mới này chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Xét về tổng thể, Bộ luật dân sự 2015 đã thể chế hóa nhiều nội dung
trong Hiến pháp 2013, phù hợp với chiến lược phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế
của đất nước.
Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017, tức là hiện nay
chưa được áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ngay từ bây
giờ với mục đích nắm bắt, nhận diện và tìm các biện pháp để áp dụng các quy
định mới trong Bộ luật dân sự này là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với giới
doanh nhân. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Những giải pháp pháp lý trong Bộ
luật dân sự năm 2015 góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Bộ luật dân sự 2015 ra đời, các công trình nghiên cứu đều
hướng đến Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Trong số các công trình này
đáng lưu ý nhất là Tạp chí “Thông tin khoa học pháp lý” đã phát hành hẳn
một đặc san với chuyên đề “Một số ý kiến về Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa


8

đổi)” (số 4/2015). Trong đặc san này, có nhiều bài viết đề cập đến nhiều vấn
đề khác nhau của Dự thảo Bộ luật dân sự như vấn đề vật quyền, vấn đề trách
nhiệm của Tòa án không được từ chối giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do
chưa có điều luật cụ thể để áp dụng, vấn đề pháp nhân thương mại, vấn đề
thời hiệu, vấn đề vô hiệu của hợp đồng khi vi phạm quy định về hình thức...
Những quan điểm, ý tưởng, lý luận được nêu ra trong đặc san có ý nghĩa rất
lớn đối với tác giả khi viết luận văn này.
Từ khi Bộ luật dân sự 2015 được ban hành, nhiều bài viết, công trình
khoa học đã phân tích một số khía cạnh khác nhau về Bộ luật này, điển hình:
- Sách tham khảo: “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015” của tác giả Đỗ Văn Đại, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, Hồ Chí Minh, 2016.
- Bài viết: “Bộ luật dân sự 2015 – Cở sở pháp lý mới cho việc thực
hiện quyền tự do kinh doanh tại Việt Nam” của tác giả Dương Đăng Huệ tại
buổi tọa đàm: “Một số nội dung mới của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”, diễn ra ngày 18/12/2015 do Bộ Tư
pháp phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Câu lạc bộ
pháp chế doanh nghiệp tổ chức.
- Bài viết: “Vai trò của Bộ luật dân sự 2015 trong việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Dương Đăng Huệ
trong tạp chí “Nghiên cứu lập pháp”, số 13 (317), kỳ 1 tháng 7/2016 (trang

10-17).
Nhìn chung, những bài viết, sách tham khảo nên trên đều tập trung
nghiên cứu vai trò, những điểm mới cơ bản của Bộ luật dân sự 2015, nhưng
chưa có công trình nào đề cập đến nội dung những quy định mới của Bộ luật
dân sự 2015 góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp.
Vì vậy, có thể nói đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về những
giải pháp pháp lý trong Bộ luật dân sự 2015 liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp và đã chứng minh rằng các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.


9

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nhận diện và phân tích
những điểm mới cơ bản của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005,
tác giả muốn khẳng định rằng, Bộ luật dân sự 2015 là bộ luật của nền kinh tế
thị trường, có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào việc nghiên cứu
hai đối tượng chủ yếu:
Thứ nhất, nghiên cứu để làm rõ có những yếu tố gì ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Qua việc nghiên cứu
các yếu tố này, tác giả muốn khẳng định rằng, trong các yếu tố đó thì pháp
luật có vai trò cực kỳ quan trọng nếu không nói là quyết định.
Thứ hai, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định mới của Bộ luật
dân sự 2015 có liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp như chế định về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản (các

nước gọi là vật quyền), chế định hợp đồng... Khi phân tích các quy định mới
này tác giả có đối chiếu, so sánh với các quy định tương ứng trong Bộ luật
dân sự 2005 để nêu bật tính mới của Bộ luật dân sự 2015.
c. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bộ luật dân sự 2015 có nội dung phức tạp và có rất nhiều điểm mới.
Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu toàn bộ các điểm mới mà chỉ nghiên
cứu những điểm mới quan trọng có liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Một số quy định trong các văn bản pháp luật khác
(Hiến pháp 2013, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014...) được phân
tích trong đề tài chỉ có tính minh họa, so sánh nhằm nâng cao tính hệ thống
của đề tài, không phải là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin về
duy vật biến chứng và duy vật lịch sử. Các quan điểm của Đảng Cộng sản


10

Việt Nam trong việc đổi mới và phát triển đất nước cũng là một cơ sở lý luận
quan trọng mà tác giả đã sử dụng khi nghiên cứu đề tài.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và đặc biệt là phương pháp so
sánh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học
1. Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề lý luận liên quan đến
vai trò của pháp luật nói chung và vai trò của Bộ luật dân sự nói riêng đối với
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Đề tài đã làm rõ các điểm mới nhất của Bộ luật dân sự 2015, trong
đó có vấn đề về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Bộ luật dân

sự 2015 đã chấm dứt quan điểm lạc hậu tồn tại lâu nay trong khoa học pháp lý
Việt Nam nói chung và khoa học pháp lý dân sự nói riêng về việc đối với
quyền trên tài sản thì chỉ có một loại quyền duy nhất là quyền sở hữu mà
không có thêm loại quyền nào khác (các nước phương Tây gọi là vật quyền
hạn chế). Quan điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 đã làm cho Bộ luật dân sự
Việt Nam đến gần hơn với thế giới trong lĩnh vực vật quyền.
3. Luận văn cũng khẳng định rằng, do có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nên muốn nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp thì Nhà
nước ta phải quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật, không chỉ hoàn thiện
các luật chuyên ngành mà còn phải đặc biệt quan tâm đến Bộ luật dân sự luật gốc của hệ thống luật tư.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng để tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân, đặc biệt là cho giới doanh nhân. Hơn ai hết
các doanh nhân là người sẽ có điều kiện nắm vững hơn về các quy định mới
của Bộ luật dân sự, từ đó có thể vận dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất –
kinh doanh của mình. Ngoài ra, luận văn có thể được các sinh viên, những
người nghiên cứu pháp luật sử dụng để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu,


11

giảng dạy của mình.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Vai trò của Bộ luật dân sự 2015 đối với hoạt động sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Những quy định mới của Bộ luật dân sự 2015 góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy thực thi các quy định của Bộ
luật dân sự 2015, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp.


12

Chương 1. VAI TRÒ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG SẢN XUẤT – KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp

Ngày nay, doanh nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh
tế đất nước. Có thể nói, xã hội hiện đại là xã hội của doanh nghiệp. Với hoạt
động sản xuất – kinh doanh của mình, doanh nghiệp tạo ra của cải vật chất,
góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành nghề nói riêng và nền
kinh tế nói chung; tạo việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống xã hội cho
người lao động; tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy
sự phát triển chung của toàn xã hội. Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế đất nước phụ thuộc rất lớn vào sự lớn mạnh của hệ thống các doanh nghiệp.
Pháp luật Việt Nam từ trước đến nay đã đưa ra nhiều định nghĩa pháp
lý về doanh nghiệp. Các định nghĩa này được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp như: Luật Công ty
1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật
Doanh nghiệp 2005 và mới đây là Luật Doanh nghiệp 2014.
Theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Doanh nghiệp là tổ
chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch được đăng ký thành lập theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Cũng theo luật này thì
“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch

vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”1. Có thể thấy, khái niệm doanh
nghiệp ở đây có nội hàm hẹp hơn khái niệm chủ thể kinh doanh. Hiểu theo
nghĩa thông thường, chủ thể kinh doanh là tất cả các cá nhân, tổ chức tiến
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng không phải tất cả các chủ thể
kinh doanh đều được coi là doanh nghiệp. Bởi lẽ, có những chủ thể kinh
doanh như hộ gia đình, cá nhân và ngay cả các hợp tác xã cũng không thỏa
mãn các điều kiện theo định nghĩa pháp lý về doanh nghiệp, do đó cũng
không được gọi là doanh nghiệp. Trên thực tế, địa vị pháp lý của các chủ thể
1 Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014.


13

kinh doanh là doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh không phải là doanh
nghiệp cũng được quy định khác nhau.
Ở mỗi lĩnh vực, mỗi góc độ lại có những khái niệm riêng về doanh
nghiệp. Do đó, để hiểu sâu hơn về doanh nghiệp, chúng ta cần xem xét khái
niệm doanh nghiệp dưới nhiều quan điểm khác nhau.
- Theo từ điển Tiếng Việt online2: Doanh nghiệp là cơ sở hoạt động
sản xuất để kiếm lời. Và kinh doanh là hoạt động tổ chức buôn bán để thu lời
lãi. Ví dụ: đầu tư vốn để kinh doanh cửa hàng tạp hóa. Với cách hiểu này,
doanh nghiệp là tổ chức và phải tiến hành hoạt động sản xuất, buôn bán để
sinh lợi.
- Theo quan điểm phát triển: Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản
xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những
thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch, có lúc phải ngừng sản
xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được3.
- Theo quan điểm kinh tế - xã hội: Doanh nghiệp là những thực thể xã
hội, được tạo lập với chức năng chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm: người lao động,

vốn, tài sản, bộ máy quản trị... Bằng hoạt động sản xuất - kinh doanh của
mình, doanh nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo
ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như
toàn xã hội.
- Theo quan điểm luật pháp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế, thường
có tư cách pháp nhân, kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm
với mục đích kiếm lời. Doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của pháp luật từ khi
thành lập, đi vào hoạt động cho đến khi chấm dứt sự tồn tại của mình (giải thể
hoặc phá sản). Sự thay đổi của luật pháp tất yếu cũng ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, có thể kể thêm nhiều quan điểm khác khi xem xét doanh
nghiệp dưới những góc độ khác nhau. Song dù xem xét dưới góc độ nào
2 />3 />

14

chăng nữa thì doanh nghiệp cũng đều có những đặc điểm chung sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một thực thể pháp lý độc lập, chủ yếu tồn tại
dưới hình thức pháp nhân. Tính độc lập về mặt pháp lý là điều kiện cơ bản
quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Việc
khẳng định tư cách pháp lý độc lập của doanh nghiệp, một mặt giúp doanh
nghiệp được Nhà nước bảo hộ đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh,
mặt khác buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm về các hoạt động của mình
với đối tác, với người tiêu dùng, với cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh
như mua bán, trao đổi, cho thuê tài sản... Hoạt động này bao gồm nhiều công
đoạn, được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành đời sống kinh tế của một đất nước.
Thứ ba, doanh nghiệp hoạt động vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Đây
là điểm khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức khác

không được coi là doanh nghiệp. Doanh nghiệp được thành lập để sản xuất
hàng hóa, cung cấp dịch vụ với mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, trong một giai
đoạn hoạt động nào đó, trong một thương vụ nào đó có thể doanh nghiệp
không đạt được mục đích này. Nhưng điều đó không có nghĩa là lúc đó doanh
nghiệp này không được coi là doanh nghiệp. Hay nói cách khác, sự thua lỗ, tự
nó không làm mất đi tư cách doanh nghiệp của chủ thể kinh doanh.
Với những đặc điểm trên, có thể đưa ra khái niệm về doanh nghiệp như
sau: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, thường có tư cách pháp nhân, được
thành lập theo quy định của pháp luật và tiến hành hoạt động sản xuất - kinh
doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức sở hữu

- Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ4, tồn tại dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp: (1) do hai bên hoặc nhiều
4 Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014.


15

bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp
định ký giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước ngoài; (2) do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với
doanh nghiệp Việt Nam; (3) do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu
tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh hiện
nay được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần.
1.1.2.2. Căn cứ vào trách nhiệm pháp lý


- Doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà
chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán các món nợ của doanh
nghiệp bằng tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, khi doanh nghiệp
không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ đối với các chủ nợ. Tài sản doanh
nghiệp và tài sản của chủ sở hữu là không tách rời nhau.
- Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn là những doanh nghiệp mà
chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là khi tài
sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ
lấy tài sản riêng của mình (tài sản không góp vào doanh nghiệp đó) để trả nợ
thay cho doanh nghiệp.
1.1.2.3. Căn cứ vào hình thức pháp lý

- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên
là chủ sở hữu của công ty (thành viên hợp danh), cùng kinh doanh dưới tên
chung. Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra, công ty hợp danh có thể
có thành viên góp vốn.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) là loại hình doanh
nghiệp mà các thành viên trong công ty chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ


16

tài sản của công ty trong phạm vi số vốn mà mình đã góp vào công ty.

- Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu
cổ phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số vốn mà mình đã góp vào doanh nghiệp.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp
1.1.3.1. Yếu tố khách quan

Thứ nhất, môi trường chính trị.
Môi trường chính trị là yếu tố hàng đầu quyết định chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Môi trường này bao gồm thể chế chính trị, sự
ổn định của Chính phủ, hệ thống các văn bản pháp quy, các chính sách,
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước... Cơ chế điều hành của Chính
phủ ảnh hưởng trực tiếp đến cơ chế ban hành luật pháp, tính hiệu lực của luật
pháp và các chính sách kinh tế. Do vậy, doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh
đòi hỏi phải có sự xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng về hệ thống luật pháp cũng
như các chính sách, định hướng quốc gia về phát triển kinh tế để có thể xây
dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp và hiệu quả.
Yếu tố chính trị là yếu tố rất phức tạp, tuỳ theo điều kiện cụ thể yếu tố
này sẽ tác động tốt hay xấu đến sự phát triển kinh tế trong phạm vi quốc gia.
Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở
rộng các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân trong và
ngoài nước. Các hoạt động đầu tư đó lại tác động trở lại rất lớn tới hiệu quả
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, khi đất nước rơi vào tình
trạng bất ổn về chính trị, bạo loạn thường xuyên xảy ra, đương nhiên, không
chỉ doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc sản xuất - kinh doanh mà cả người
dân cũng khó khăn trong việc ổn định cuộc sống. Doanh nghiệp không có
điều kiện kinh doanh - sản xuất tất yếu nền kinh tế cũng ngày càng đi xuống
và kém phát triển.
Thứ hai, môi trường kinh tế.

Môi trường kinh tế là yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất -


17

kinh doanh của doanh nghiệp. Những diễn biến của môi trường kinh tế bao
giờ cũng chứa đựng những cơ hội và những đe doạ khác nhau đối với từng
doanh nghiệp trong các ngành khác nhau và có ảnh hưởng tiềm tàng đến
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế
quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người… là các yếu tố
tác động trực tiếp tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế quốc dân cao, Chính phủ có nhiều chính sách ưu tiên khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ không
đáng kể, lạm phát được giữ ở mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người
tăng… sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các
chính sách khuyến khích đầu tư không được quan tâm, tỉ lệ lạm phát tăng
cao... chắc chắn hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp
cũng bị ảnh hưởng. Khi hoạt động của doanh nghiệp không tốt, nền kinh tế đi
xuống cũng kéo theo sự thay đổi về chính trị, văn hóa, xã hội.
Do vậy, mọi quốc gia, không chỉ Việt Nam đều phải đặc biệt quan tâm
đến môi trường kinh tế - yếu tố chi phối trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế vững mạnh sẽ đảm bảo cho
hoạt động của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao.
Thứ ba, môi trường pháp lý.
Yếu tố pháp lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc tạo ra môi trường kinh
doanh lành mạnh, công bằng và tạo hành lang cho mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Nếu một quốc gia có hệ thống luật pháp không ổn định và thiếu minh
bạch, thiếu đồng bộ sẽ gây ra tâm lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ mang tính chất tạm thời, không có những dự án đầu tư dài hạn và quy mô

lớn. Đồng thời số lượng các nhà đầu tư có khả năng chấp nhận mạo hiểm đầu
tư vào quốc gia đó cũng rất hạn chế. Pháp luật luôn đưa ra những quy định
cho phép, không cho phép hoặc những đòi hỏi buộc các doanh nghiệp phải
chấp hành. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong hệ thống luật pháp như chính
sách về thuế, chính sách về đầu tư... cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản


18

xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc xây dựng hệ thống pháp
luật có chất lượng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tối ưu nhất.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các văn bản pháp luật có
tác động đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp có thể kể đến
là Hiến pháp, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật dân sự... Các văn bản
này đưa ra những định hướng về thể chế kinh tế (Hiến pháp); những quy định
chung nhất về pháp nhân, về quyền sở hữu, về hợp đồng (Bộ luật dân sự) và
bao gồm cả những quy định chi tiết về thương nhân, về pháp nhân, về hoạt
động kinh doanh (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư). Tất cả các văn bản này
hợp thành cơ sở pháp lý vững chắc vừa bảo vệ quyền dân sự của doanh
nghiệp, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh, giúp cho hoạt động của doanh
nghiệp đạt hiệu quả cao.
Thực tế cho thấy, môi trường pháp lý là nhân tố kìm hãm hoặc khuyến
khích sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra đối với các
doanh nghiệp là phải nắm vững tinh thần cũng như nội dung cụ thể của luật
pháp để tận dụng được tối đa các ưu đãi mà luật pháp mang lại và có những
đối sách kịp thời để tránh được các thiệt hại do sự thiếu hiểu biết về pháp lý
của mình có thể gây ra trong kinh doanh.
Thứ tư, môi trường văn hóa - xã hội.
Môi trường văn hóa - xã hội phản ánh trình độ dân trí, phong tục tập
quán của một đất nước, cho thấy nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Các

khía cạnh hình thành môi trường văn hóa - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: những quan niệm
về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, nghề nghiệp; những phong tục, tập quán,
truyền thống; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội...
Trong môi trường văn hóa, các nhân tố nổi lên giữ vai trò đặc biệt quan
trọng là tập quán và lối sống. Tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất
lớn đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa. Phần lớn người tiêu dùng lựa chọn sản
phẩm theo số đông, với mức giá ở tầm trung và thường chọn những nhãn hiệu
có từ nhiều năm trước. Những sản phẩm mới, thương hiệu mới xuất hiện cũng


19

phải mất một thời gian dài để có thể được người tiêu dùng quan tâm và lựa
chọn. Do vậy, thị hiếu, tập quán người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của
từng vùng, từng dân tộc và phản ánh yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo của từng
địa phương, từng quốc gia.
Bên cạnh đó, đạo đức xã hội nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng
cũng được coi là một khía cạnh thiết thực và quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động của doanh nghiệp. Đạo đức kinh doanh đặt nền móng, chi phối mọi hành
vi và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động lành
mạnh hay không, tuân thủ pháp luật hay không cũng dựa vào yếu tố này. Đạo
đức kinh doanh tốt sẽ góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm
bảo yếu tố cạnh tranh. Ngược lại, chỉ cần đạo đức kinh doanh của một doanh
nghiệp không tốt sẽ làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác cũng như ảnh
hưởng đến nền kinh tế nói chung. Hành vi này còn tác động xấu đến môi
trường kinh doanh, đi ngược lại các quy định của pháp luật. Nói tóm lại, đạo
đức kinh doanh có thể coi như một nhu cầu xã hội và vì vậy bất kỳ một thể
chế kinh tế nào cũng cần xây dựng được một khuôn khổ đạo đức kinh doanh
tốt để đảm bảo môi trường kinh doanh được lành mạnh, công bằng.

Ngoài các yếu tố nêu trên, môi trường công nghệ hay môi trường tự
nhiên... cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu các yếu tố này đều đạt chuẩn, ngày càng tiệm cận đến
vạch chuẩn thì hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ngày
càng thuận lợi và khởi sắc.
1.1.3.2. Yếu tố chủ quan

Thứ nhất, tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều cần đến tài
sản, do vậy tình hình tài chính tốt hay xấu đều tác động đến quá trình sản xuất
- kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường, doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh không những
đảm bảo cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh được diễn ra liên tục mà
còn giúp cho doanh nghiệp có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng
kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm làm giảm chi phí, nâng cao năng suất và


20

chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu khả năng tài chính của doanh nghiệp yếu
thì doanh nghiệp sẽ không đảm bảo cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh
diễn ra bình thường và cũng không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, áp
dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, do đó không nâng cao được năng suất và
chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của doanh nghiệp, tới khả năng chủ động trong
sản xuất - kinh doanh, tới tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Đối với lãnh đạo doanh nghiệp, cần nắm vững tình hình tài chính của
doanh nghiệp mình để cân đối tài chính, biết được lợi nhuận, khả năng thanh
toán, trả nợ của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những định hướng, chiến lược

kinh doanh phù hợp ở từng giai đoạn. Đối với các nhà đầu tư và ngân hàng,
dựa trên tình hình tài chính của doanh nghiệp mà họ quyết định có đầu tư vào
doanh nghiệp đó hay không và các ngân hàng quyết định có cho doanh nghiệp
đó vay vốn hay không. Vì vậy, tình hình tài chính của doanh nghiệp là yếu tố
tác động trực tiếp và nhanh chóng tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thứ hai, bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Bộ máy quản trị doanh nghiệp có vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát
triển hay phá sản của doanh nghiệp. Đây được xác định là cơ quan đầu não
điều khiển mọi hoạt động của doanh nghiệp, điều phối hoạt động giữa các bộ
phận kinh doanh, tác động tới người lao động cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp là xây dựng
chiến lược, kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh và phát triển doanh
nghiệp một cách hợp lý. Do đó, chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất
lớn tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu cơ cấu tổ chức
bộ máy quản trị phù hợp, gọn nhẹ, linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ, chức
năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hành động nhịp nhàng với một đội ngũ quản
trị viên có năng lực sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Bộ máy quản trị doanh nghiệp sẽ giúp các bộ


21

phận trong doanh nghiệp hoạt động gắn kết với nhau, hợp thành một thể
thống nhất, hoạt động hiệu quả trong quá trình sản xuất - kinh doanh, giúp
doanh nghiệp hoàn thành các mục tiêu đề ra. Nếu bộ máy quản trị doanh
nghiệp được tổ chức hoạt động không hợp lý (quá cồng kềnh hoặc quá đơn
giản), chức năng nhiệm vụ chồng chéo, không rõ ràng hoặc phải kiêm nhiệm
quá nhiều, các quản trị viên thiếu năng lực và thiếu tinh thần trách nhiệm sẽ
dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp không

cao. Do vậy, để doanh nghiệp hoạt động ở mức tối ưu nhất, đòi hỏi bộ máy
quản trị doanh nghiệp phải có năng lực, có trình độ, có tinh thần trách nhiệm
cao và phải xây dựng được các chiến lược kinh doanh, phương án kinh doanh
phù hợp với doanh nghiệp cũng như với từng thời kỳ kinh tế.
Thứ ba, người lao động.
Con người là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất - kinh
doanh. Xét trong phạm vi doanh nghiệp, con người được thể hiện cơ bản dưới
góc độ người lao động.
Người lao động là những người trực tiếp làm ra các sản phẩm, hàng
hóa, là đối tượng trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động
tác động đến tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình sản xuất - kinh
doanh; tác động đến năng suất, chất lượng sản phẩm, do đó nó ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tuyển dụng,
bố trí, sắp xếp người lao động vào làm việc tại các bộ phận trong doanh
nghiệp cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Người lao động được bố trí
công việc phù hợp với bằng cấp và sức lao động đương nhiên hiệu quả lao
động sẽ cao. Nếu một người lao động học sửa chữa điện tử lại được tuyển
dụng làm kế toán thì hiệu quả lao động không đạt được, ảnh hưởng đến chất
lượng công việc, đến hoạt động của những người lao động khác trong doanh
nghiệp và cũng ảnh hưởng đến tâm lý, thái độ của người lao động đó.
Vì vậy, để hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp có lợi
nhuận thì việc làm không thể thiếu là thường xuyên đào tạo, nâng cao tay
nghề cho người lao động; giúp người lao động tiếp cận, học tập những tiến bộ


22

của khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm, chăm lo tới đời
sống vật chất, tinh thần; quyền, nghĩa vụ của người lao động nhằm tạo động

lực cho họ cống hiến hết mình và mang lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp.
Trên đây là những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một nhà lãnh đạo giỏi sẽ phải hiểu rõ các yếu
tố này; có khả năng phân tích, đánh giá và định hướng, điều chỉnh các yếu tố
đó sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp mình, từ đó có được
chiến lược kinh doanh phù hợp và hiệu quả nhất.
1.2. Vai trò của Bộ luật dân sự trong hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ, do đó để điều chỉnh các
hoạt động sản xuất - kinh doanh thì không chỉ có luật chuyên ngành như Luật
Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư... mà Bộ luật dân sự cũng đóng
vai trò đáng kể vì Bộ luật này là luật gốc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp. Bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Bộ luật
dân sự là quan hệ tài sản mà doanh nghiệp buộc phải tham gia khi tiến hành
hoạt động sản xuất - kinh doanh. Thêm vào đó, Bộ luật dân sự ghi nhận các
chế định cụ thể về sở hữu, về hợp đồng, về cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể kinh doanh để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Bộ luật dân sự Việt Nam

Song song với sự thay đổi thể chế kinh tế của nước ta, quá trình hình
thành và phát triển của Bộ luật dân sự Việt Nam có thể được chia thành bốn
giai đoạn.
1.2.1.1. Giai đoạn trước năm 1995

Trong thời kỳ phong kiến, luật dân sự Việt Nam chưa được tách ra thành
bộ luật chính thống độc lập mà các quy định pháp luật dân sự chỉ được tìm
thấy rải rác trong các điều khoản của Bộ Luật Hồng Đức và Hoàng Việt luật
lệ.
Bộ luật dân sự bắt đầu được hình thành ở thời Pháp thuộc và dựa trên
khuôn mẫu của Bộ luật dân sự Pháp, có cải biên cho phù hợp với bối cảnh
kinh tế và xã hội của Việt Nam. Các văn bản pháp lý tiêu biểu ở thời kỳ này



23

có thể kể đến như: Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu (1883), Sắc lệnh ngày
21/7/1925 về chế độ điền thổ được áp dụng tại Nam Kỳ; Bộ Dân luật Bắc Kỳ
(1931) và tại Trung Kỳ là Bộ Dân luật Trung Kỳ (1936)... Sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, các văn bản này vẫn tiếp tục được áp dụng và
chỉ bị hủy bỏ khi có Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1957 của Tòa án tối cao.
Từ thời điểm đó trở đi, tại miền Bắc Việt Nam không tồn tại Bộ luật dân sự
thực thụ. Các vấn đề trong luật dân sự được chia nhỏ và được điều chỉnh bởi
nhiều luật, pháp lệnh khác nhau.
Năm 1959, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được ban hành. Trong đó chứa đựng nhiều nội dung có ý
nghĩa quan trọng đối với pháp luật dân sự như những quy định về quyền và
nghĩa vụ của công dân. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình; nhiều Thông
tư, Chỉ thị, Điều lệ về dân sự cũng dần xuất hiện. Nhìn chung, các văn bản
pháp luật dân sự này chủ yếu thể hiện mục tiêu phục vụ công cuộc cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền
Nam.
Tiếp đó, cùng với sự ra đời của Hiến pháp 1980, Nhà nước đã ban hành
nhiều Nghị định, Quyết định về kinh tế, không có văn bản dưới luật mang tính
dân sự. Các văn bản này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp cao độ. Nhiều lĩnh vực dân sự không được điều
chỉnh trực tiếp như thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ... Những quy định về nghĩa
vụ dân sự tuy được quy định nhưng chủ yếu về nhà ở, vàng bạc, kim khí quý,
đá quý và mang nặng tính chất hành chính, làm mất đi yếu tố bình đẳng, thỏa
thuận, tự nguyện và tự định đoạt giữa các chủ thể. Do chưa có một Bộ luật
dân sự thống nhất nên hàng năm Tòa án nhân dân tối cao đã tổng kết kinh
nghiệm xét xử và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp giải quyết các tranh
chấp dân sự. Trong nhiều trường hợp, Toà án nhân dân tối cao đã giải thích

những Nghị định quá rộng, làm biến dạng và không loại trừ những trường hợp
trái với các quy định của pháp luật.
Từ giữa những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các văn bản


24

pháp luật được ban hành đã bước đầu thể hiện những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự là tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau,
phù hợp với thông lệ quốc tế trong giao lưu dân sự. Các nguyên tắc cơ bản
của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bắt đầu được áp dụng, thể hiện ở việc
ban hành Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988),
Pháp lệnh về Sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989),
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990)... Bước đột phá căn bản
được ghi nhận cho giai đoạn này là việc ban hành Hiến pháp 1992, kéo theo
hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi, điều chỉnh cho phù
hợp với Hiến pháp như: Luật đất đai (1993); Pháp lệnh về Quyền và nghĩa vụ
của các tổ chức trong nước được giao đất, cho thuê đất; Pháp lệnh về Quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam; Pháp lệnh
Bảo hộ quyền tác giả (1994). Luật Phá sản doanh nghiệp (1994), Bộ luật lao
động (1994)...
Khi đó, vẫn tồn tại nhiều vấn đề về dân sự chưa được pháp luật điều
chỉnh một cách thống nhất, cụ thể như: Các quan hệ về sở hữu tài sản, nghĩa
vụ dân sự; các loại hợp đồng dân sự thông dụng; vấn đề bồi thường thiệt hại;
về thực hiện công việc không có ủy quyền; được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật; các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài... Mặt khác, do sự
chuyển đổi của nền kinh tế, cơ chế quản lí kinh tế, nhiều quy định trong các
văn bản pháp luật dân sự, kinh tế không còn phù hợp với giai đoạn đổi mới.
Điều này đã gây không ít khó khăn cho việc áp dụng pháp luật để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Do thiếu
văn bản pháp luật nên Toà án các cấp phải vận dụng các báo cáo tổng kết của
Toà án nhân dân tối cao để giải quyết các vụ việc, những tranh chấp nảy sinh
trong thực tế.
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2005

Với nhu cầu cấp thiết kể trên, năm 1980, Nghị quyết về việc xây dựng
Bộ luật dân sự đã được đề cập và đến năm 1995, Bộ luật dân sự đầu tiên đã ra
đời, có hiệu lực từ ngày 01/07/1996. Bộ luật dân sự 1995 đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta. Được đánh giá là có


25

vị trí thứ hai sau Hiến pháp, Bộ luật này đã điều chỉnh các quan hệ xã hội đa
dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển các quan hệ
dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động. Bộ luật dân sự còn được xây
dựng với quy mô lớn nhất trong các bộ luật từ trước đến nay, gồm 838 Điều
được kết cấu bởi 35 Chương, 52 Mục, 7 Phần. Do có phạm vi điều chỉnh rộng
lớn nên một loạt văn bản pháp luật hướng dẫn các quy định của Bộ luật dân
sự 1995 đã ra đời, nhiều nhất là các Nghị định của Chính phủ. Từ khi có Bộ
luật dân sự 1995, hoạt động kinh tế của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Giai
đoạn này chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân cũng
như đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dưới sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, kinh
tế mở rộng cửa, kim ngạch xuất nhập khẩu được cải thiện, hợp tác song
phương và đa phương giữa Việt Nam và nhiều quốc gia khác cũng bắt đầu
khởi sắc.
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến trước năm 2015

Từ năm 2001 đến năm 2013 là giai đoạn nền kinh tế có sự tăng trưởng

mạnh mẽ, Việt Nam có nhiều bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới. Qua 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995 đã thể hiện vai trò tích cực
của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật dân sự; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nước và lợi ích công cộng.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu cấp bách của sự phát triển kinh tế, Bộ luật
dân sự 1995 cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi như: cần quy
định khái quát trong Bộ luật dân sự những nội dung liên quan đến quyền nhân
thân của cá nhân (quyền khai sinh, khai tử...); cần sửa đổi các quy định về
giao dịch dân sự, quy định về bảo vệ quyền sở hữu cho phù hợp để vừa bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho người chiếm hữu hợp pháp và chủ sở hữu nhưng
cũng vừa đảm bảo quyền lợi cho người chiếm hữu ngay tình... Hơn nữa, trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ, trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và tham gia vào nhiều Công ước quốc tế thì việc sửa đổi Bộ luật dân
sự 1995 là vô cùng cần thiết. Do đó, ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc


×