Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của công ty đa quốc gia (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 99 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCC

: Hợp đồng hợp tác kinh doanh

BIT

: Hiệp định đầu tư song phương

BOT

: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

BTO

: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh

BT

: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF


: Quỹ tiền tệ quốc tế

JV

: Doanh nghiệp liên doanh

MNC

: Công ty đa quốc gia

M&A

: Sáp nhập và mua lại

Nxb

: Nhà xuất bản

OECD

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

QHQT

: Quan hệ quốc tế

R&D

: Nghiên cứu và phát triển


TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

TNC

: Công ty xuyên quốc gia

UBND

: Uỷ ban nhân dân

UNCTAD

: Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển

USD

: Đô la Mỹ

WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới


MỤC LỤC
Phần mở đầu

1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA

9

1.1.

Các khái niệm cơ bản

1.1.1.

Đầu tư quốc tế

1.1.2.

Công ty đa quốc gia

9
9
15

1.1.2.1.

Sự ra đời của công ty đa quốc gia

15

1.1.2.2.

Khái niệm công ty đa quốc gia


17

1.1.2.3.

Đặc điểm của công ty đa quốc gia

19

1.1.2.4.

Phân loại các hình thức liên kết trong các công ty đa quốc gia

26

1.2. Vai trò của công ty đa quốc gia trong hoạt động đầu tư quốc tế - Sự
cần thiết điều chỉnh của pháp luật

28

1.2.1.

Khía cạnh kinh tế - chính trị quốc tế của các công ty đa quốc gia

28

1.2.2.

Công ty đa quốc gia và tầm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư quốc tế


31

1.2.2.1.

MNC thúc đẩy lưu thông dòng vốn FDI trên toàn thế giới

31

1.2.2.2.

MNC làm tăng tích luỹ vốn của nước chủ nhà

33

1.2.2.3.

Phát triển hoạt động chuyển giao công nghệ

34

Kết luận Chương 1
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
2.1.

Thực trạng các quy định pháp luật quốc tế

35

36

36

2.1.1.

Quy định của OECD

36

2.1.2.

Quy định của Liên hợp quốc

41

2.2.

Quy định pháp luật của các nước trên thế giới

48

2.2.1.

Pháp luật của các nước phát triển

50

2.2.2.

Pháp luật của các nước đang phát triển


56

Kết luận Chương 2

66

CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
ĐA QUỐC GIA TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
68


3.1. Thực tiễn hoạt động của công ty đa quốc gia trong lĩnh vực đầu tư
quốc tế tại Việt Nam
.................................................................................................68
3.2.

Những tác động của các MNC đối với nền kinh tế Việt Nam

71

3.2.1.

Những tác động tích cực

71

3.2.2.

Những tác động tiêu cực


72

3.3. Quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế
của các MNC
73
3.3.1.

Hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

74

3.3.2.

Quy định về lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

76

3.3.3. Quy định về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp
nước ngoài...................

77

3.3.4.

Các quy định về minh bạch

78

3.3.5.


Quy định trong lĩnh vực thuế

79

3.3.6.

Quy định trong lĩnh vực luật cạnh tranh

81

3.3.7.

Vấn đề trách nhiệm xã hội đối với các MNC tại Việt Nam

81

3.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt
động đầu tư quốc tế của các MNC
83
3.4.1.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư

84

3.4.2.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh

84


3.4.3.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế

85

3.4.4.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường

86

3.4.5.

Giải pháp về cơ chế quản lý

87

3.4.5.1.

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước

87

3.4.5.2.

Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính

87


3.4.5.3.

Thành lập cơ quan quản lý theo dõi hoạt động của các MNC

88

3.4.6.

Phát triển nguồn nhân lực

Kết luận chương 3
Kết luận luận văn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO.....................................................................

88
89

91


4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp đang
ngày càng tìm kiếm những cơ hội thị trường mới và các nguồn lực hiệu quả ở các
nước khác bên ngoài nước chủ đầu tư thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tư vào sản xuất nước ngoài với mục tiêu dành ảnh hưởng dài hạn đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh. Hoạt động đầu tư qua biên giới này là một hiện tượng

tăng lên nhanh chóng, giá trị dòng FDI vào ở phạm vi toàn cầu tăng từ 13 tỷ USD
năm 1970 lên 208 tỷ USD năm 1990, đạt mức 1387 tỷ USD năm 2000 và 1762 tỷ
USD năm 2015 [23]. Quy mô xuyên quốc gia của các công ty trở nên rộng hơn khi
các công ty này sát nhập hoặc mua lại (M&A) các công ty ở nước khác hoặc tiến
hành đầu tư mới ở nước ngoài. Các công ty đa quốc gia (MNC) hiện nay chịu trách
nhiệm về khoảng 2/3 dòng tài chính toàn cầu vào các nước đang phát triển [23].
Hoạt động của các MNC đã, đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình
toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên toàn thế
giới. Chúng là lực lượng chủ chốt trong hoạt động FDI. Vì vậy, các MNC đang
càng ngày càng thâm nhập một cách mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia.
Có thể thấy, FDI là một nguồn vốn bên ngoài bổ sung cho những nguồn lực
trong nước dành cho phát triển. FDI có thể hỗ trợ trong việc rút ngắn khoảng cách
giữa các nguồn lực cần thiết để đảm bảo mức đầu tư mong muốn và nguồn lực tạo
ra từ mức tiết kiệm nội địa thực tế. Đây vốn là vấn đề mà các nước trên thế giới, đặc
biệt là các nước đang phát triển, thường phải đối mặt. Thêm vào đó, FDI không chỉ
là một nguồn tài chính mà còn là một gói các nguồn lực, có thể đem lại nhiều lợi ích
hơn cho nước tiếp nhận đầu tư, ví dụ như chuyển giao công nghệ, tạo công ăn việc
làm, nâng cao kỹ năng hoặc cải thiện hoạt động xuất khẩu. Những đóng góp tiềm
năng này được quan tâm đặc biệt bởi các nước chủ nhà đang tìm cách đẩy nhanh
quá trình phát triển bằng việc bổ sung năng lực công nghệ và những năng lực nội
địa khác, và chìa khóa cho những nỗ lực tìm kiếm này chính là năng lực mà các
MNC đem lại.
Bên cạnh những mặt tích cực mà hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC
đem lại cho nước tiếp nhận đầu tư, hoạt động này còn có thể đi kèm với những rủi
ro nhất định. Bên cạnh những rủi ro mang bản chất kinh tế, ví dụ như vụ việc tập


5

đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gang thép tại Khu kinh

tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh đã xả thải và gây thiệt hai nghiêm trọng về môi trường
và kinh tế biển diễn ra vào tháng 4/2016 ở Việt Nam. Hành vi này đã làm ảnh
hưởng lớn và tác động lâu dài đến cuộc sống của những người dân khu vực Miền
Trung, Việt Nam. Các rủi ro còn xuất phát từ những hành động của Chính phủ. Ví
dụ, việc một quốc gia đưa ra các chính sách thu hút FDI có thể dẫn đến tình trạng
FDI chảy vào quá mạnh, các dòng FDI quá lớn so với khả năng hấp thụ của nền
kinh tế nước tiếp nhận đầu tư sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực. Điều này làm
tăng tỷ giá hối đoái, từ đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với xuất khẩu và sản
xuất thay thế nhập khẩu.
Trong nỗ lực để tăng cường lợi ích của mình, các chính phủ cũng tìm cách
hạn chế những rủi ro tiềm năng liên quan đến FDI, xét dưới dạng tác động đến nền
kinh tế của quốc gia. Vì vậy, tầm quan trọng của FDI có thể được đánh giá không
chỉ bằng quy mô hay tác động kinh tế, mà còn thông qua sự quan tâm ở mức độ
quốc gia và quốc tế đối với vấn đề này. Vì thế, các chính phủ không thể thụ động.
Sự đóng góp của FDI vào sự phát triển có thể được tăng cường bằng các chính sách
không chỉ giới hạn ở việc tự do hóa chính sách đầu tư, mà còn dành các bảo hộ và
đảm bảo về mặt pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là môi trường pháp
lý thuận lợi để thu hút các MNC.
Tầm quan trọng của các MNC trong hoạt động FDI đã đặt ra cho các quốc
gia những câu hỏi cần phải giải đáp như: Bản chất của các MNC là gì? Nội dung
các quy định pháp luật về MNC trong hoạt động đầu tư quốc tế? Các quốc gia cần
có giải pháp gì để hạn chế những tác động tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác
động tích cực từ các MNC? Làm rõ được những nội dung này thực sự là vấn đề
quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì lí do đó, tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của công ty đa
quốc gia” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các công trình khoa học trong nước:
Pháp luật về hoạt động đầu tư quốc tế của MNC là một vấn đề phức tạp và
mang tính thời sự. Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu về

MNC nhưng chủ yếu được đề cập ở khía cạnh kinh tế, một số tác phẩm và bài viết


6

tiêu biểu như:
- Lê Văn Sang - Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc
gia (TNCs) trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nội dung cuốn sách tập trung phân tích nguồn gốc hình thành, các hình thức tồn tại
và mô hình chiếm lĩnh, khai thác thị trường của các TNC. Những nội dung nêu trên
vừa được phân tích chuyên sâu, tìm kiếm bản chất, vừa đặt chúng trong bối cảnh
mới - ngưỡng cửa của thế kỷ XXI.
- Đề tài khoa học xã hội: Bản chất, đặc điểm và vai trò của các TNC và
MNC trên thế giới, Chính sách của ta. Chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà
nước 06 (Giai đoạn 1996 - 2000) do tác giả Nguyễn Thiết Sơn làm chủ nhiệm được
xuất bản thành sách (Cuốn sách có tiêu đề: Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên), Các công
ty xuyên quốc gia - Khái niệm, đặc trưng và những biểu hiện mới, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2003) cung cấp cho người đọc những kiến thức sâu về đặc điểm,
bản chất, vai trò của các TNC và MNC trên thế giới, phân tích hoạt động của các
MNC Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Âu, hoạt động của chúng ở Việt Nam, trên cơ sở đó
đề xuất quan điểm, đối sách phù hợp nhằm thu hút và phát huy tác động tích cực
của chúng đối với nền kinh tế Việt Nam.
- Luận án của tác giả Hoàng Thị Bích Loan, Các TNC của một số nền kinh tế
công nghiệp mới châu Á, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001.
Tác giả luận án phân tích đặc thù của quá trình hình thành, phát triển các TNC của
NIEs châu Á và vai trò của nó trong phát triển kinh tế với điển hình lựa chọn là Hàn
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, trên cơ sở đó đề xuất một số gợi ý với
Việt Nam về phát triển các TNC của mình và thu hút các TNC châu Á trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề để định hướng XHCN nền
kinh tế.

2.2.

Các công trình khoa học nước ngoài

Ở nước ngoài, đề tài về MNC không phải là một vấn đề mới. Có rất nhiều
công trình khoa học đã được công bố và đề cập chuyên sâu đến một số khía cạnh
của các MNC. Các công trình khoa học tiêu biểu như:
- Peter T. Muchlinski, Multinational Enterprises and the Law, the Oxford
International Law Library, tái bản lần 2. Nội dung của cuốn sách đề cập đến những
quy định ở cấp độ quốc tế và quốc gia điều chỉnh các hoạt động của các MNC.


7

Ngoài ra nó còn xem xét sự thích ứng của các MNC theo sự phát triển của
trật tự pháp lý hiện nay. Cuốn sách được chia thành bốn phần. Phần I cuốn sách đã
đưa ra và làm rõ các khái niệm về MNC, giải thích sự tăng trưởng của MNC, mối
quan hệ giữa hoạt động của các MNC với những quy định pháp lý trong xu hướng
toàn cầu. Phần II bao gồm các nội dung chính của các quy định trong khung pháp lý
về MNC bao gồm các giới hạn của quyền tài phán quốc gia và khu vực đối với hoạt
động của MNC, các quy định về ưu đãi đầu tư, thuế, thành lập công ty và luật cạnh
tranh. Phần III đề cập đến các khía cạnh xã hội điều chỉnh đối với MNC, như các
vấn đề về lao động, quyền con người, và môi trường. Phần IV trình bày các quy
định của quốc gia được đề cập đến trong các Hiệp định đầu tư quy định về kiểm
soát rủi ro đầu tư đối với các MNC.
- Koenig-Archibugi, Mathias, "Transnational Corporations and Public
Accountability" (PDF), Gary 2004: 106. Retrieved 2 February 2015. Nội dung của
cuốn sách xem xét các vấn đề về trách nhiệm xã hội của các MNC trong thực tiễn
hoạt động. Nó thảo luận các vấn đề về trách nhiệm của các công ty nói chung và các
trách nhiệm của các MNC trong quá trình toàn cầu hóa. Đặc biệt là mối quan hệ

giữa các quan chức chính phủ các nước với các MNC. Cuốn sách đã nêu rõ và phân
tích những những mặt trái của các MNC, liên quan đến các vấn đề kinh tế và chính
trị. Cuốn sách cũng đưa ra những giải pháp để hạn chế mặt trái của các MNC, bao
gồm các giải pháp như hợp tác liên chính phủ, sự "tự điều chỉnh" của các doanh
nghiệp và các sáng kiến ​liên quan đến các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan
siêu quốc gia trong việc đưa ra các tiêu chuẩn ứng xử cho các MNC và giám sát
việc tuân thủ của các MNC đó.
- Janet Dine (Author), The Governance of Corporate Groups (Cambridge
Studies in Corporate Law), 2000. Cuốn sách này khám phá các vấn đề pháp lý liên
quan đến các tập đoàn bao gồm cả quy định ở cấp quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Nó
cung cấp cho người đọc hiểu rõ hơn về các quy định về tập đoàn kinh tế ở các quốc
gia như Anh quốc, Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và ở các nước khác, bao gồm cả các
nền kinh tế mới nổi của các quốc gia Đông Âu. Tác giả cũng đã làm nổi bật những
hậu quả nghiêm trọng của các MNC trong quá trình toàn cầu hóa, như sự phân hóa
giàu nghèo và vấn đề ô nhiễm môi trường.
- John Gerard Ruggie (Author), Just Business: Multinational Corporations


8

and Human Rights (Norton Global Ethics Series) Hardcover - March 25, 2013. Nội
dung cuốn sách đề cập tới vấn đề nhân quyền trong thời đại toàn cầu hóa và kinh
doanh đa quốc gia. Cuốn sách bình luận về vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất của thời
đại ngày nay, đó là đã làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và cộng
đồng trên toàn thế giới, tránh được những ảnh hưởng tiêu cực từ vấn đề kinh doanh
đa quốc gia. Cuốn sách cũng đề cập đến những quy định của pháp luật các quốc gia
và pháp luật quốc tế về bảo vệ nhân quyền trước những thách thức lớn mà toàn cầu
hóa và hoạt động của các MNC mang lại.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về các MNC, nhưng đề tài
“Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của công ty đa quốc gia” tại Việt

Nam là một vấn đề mới, đặt ra nhiều thách thức nghiên cứu cho các học giả. Việc
nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện đối vấn đề này là nhu cầu cần
thiết trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
MNC là một mô hình tổ chức kinh tế đặc biệt và là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau như: kinh tế học, tài chính học, quản trị học và luật
học. Hoạt động đầu tư quốc tế là hoạt động trọng tâm của các MNC, hoạt động này có
tác động lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với
các nước đang phát triển, các nước kém phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển
đổi. Do đó, đối tượng mà luận văn nghiên cứu đó là hoạt động đầu tư quốc tế của các
MNC. Với chuyên ngành luật quốc tế, phạm vi nghiên cứu của luận văn trong đề tài
này tập trung vào các vấn đề pháp lý trong hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC.
Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật điều
chỉnh về hoạt động đầu tư của các MNC để có thể đánh giá được những vấn đề
trong thực trạng hoạt động đầu tư và quản lý các MNC của các quốc gia trên thế
giới. Những quy định pháp luật được nghiên cứu nằm trong hệ thống pháp luật đầu
tư, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về cạnh tranh, pháp luật về sở hữu trí tuệ
trong và ngoài nước.
Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu đồng thời các quy định pháp
luật quốc tế và pháp luật trong nước nhằm phân tích, bình luận các vấn đề pháp lý
về hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC, từ đó đưa ra những đóng góp cần thiết
cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam.


9

Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
và xu hướng pháp luật để đánh giá chính xác thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư quốc tế của các MNC. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi của các kiến
nghị, luận văn cũng nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của hệ thống pháp

luật về các MNC.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn là phân tích, đánh giá những
vấn đề pháp lý về hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC, từ đó giúp các nhà đầu tư
và các nước tiếp nhận đầu tư có cách nhìn toàn diện về các MNC, đồng thời tìm
kiếm những giải pháp phù hợp hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý hoạt động
đầu tư quốc tế của các MNC tại Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra
nghiên cứu cụ thể các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu bản chất của hoạt động đầu tư quốc tế, bản
chất pháp lý của các MNC, từ đó xác định được nhiệm vụ cần thiết trong việc quản
lý hoạt động đầu tư quốc tế của các quốc gia đối với các MNC;
Thứ hai, luận văn nghiên cứu quá trình phát triển, phân tích xu hướng đầu tư
quốc tế và xu hướng quản lý đầu tư của các quốc gia đối với các MNC;
Thứ ba, luận văn nghiên cứu xu hướng và quy định pháp luật quốc tế và
nước ngoài điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC, từ đó so sánh với
pháp luật Việt Nam, và đánh giá nhằm rút ra những kiến nghị cho quá trình xây
dựng pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC.
Thứ tư, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về quản lý hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC, bao gồm những giải pháp
cơ bản và những giải pháp mang tính chất cụ thể.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Câu hỏi 1: Tại sao pháp luật của các quốc gia trên thế giới cần phải điều
chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC?
Câu hỏi 2: Các MNC có tư cách chủ thể để tham gia các quan hệ pháp luật
hay không? Các MNC có tài sản độc lập và có tư cách pháp nhân hay không?


10


Câu hỏi 3: Nội dung quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
về hoạt động đầu tư của các MNC?
Câu hỏi 4: Các quốc gia cần có giải pháp gì để hạn chế những tác động tiêu
cực và khai thác có hiệu quả tác động tích cực từ hoạt động của các MNC?
Câu hỏi 5: Có cần thiết phải xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát đối với
hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC không?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, tác giả luận văn đã áp
dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin (tư duy biện chứng và
lịch sử), cùng với các các phương pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với từng nội
dung nghiên cứu, như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, logic, lịch sử, so
sánh, v.v.. nhằm làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Trong đó:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, logic, được sử dụng trong toàn bộ nội
dung của luận văn;
- Phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng trong nội dung nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển của các MNC và quá trình phát triển pháp luật về
quản lý hoạt động đầu tư của các quốc gia đối với các MNC; nghiên cứu quy định
pháp luật và xu hướng quản lý hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC giữa các
quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển trên thế giới;
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong phần đánh giá những thực
trạng pháp luật và xu hướng phát triển dòng vốn đầu tư của các MNC trong quá
trình phân tích luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Là công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề pháp lý về hoạt động đầu tư
quốc tế của các MNC, tác giả luận văn mong muốn có thể đóng góp một số những
vấn đề mới cho khoa học pháp lý và thực tiễn cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn chứa đựng những nghiên cứu mang tính học thuật và quan
điểm của tác giả luận văn về địa vị pháp lý và tư cách chủ thể của các MNC. Đây là
vấn đề quan trọng làm cơ sở xây dựng các quy định pháp luật về quản lý hoạt động
đầu tư quốc tế của các quốc gia đối với các MNC;



11

Thứ hai, luận văn làm rõ các vấn đề pháp lý quy định về hoạt động đầu tư
quốc tế của các MNC trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia;
Thứ ba, luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động
đầu tư quốc tế của các MNC ở Việt Nam.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, phần danh
mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung luận văn được bố cục thành ba chương, có
kết luận của từng chương, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư quốc tế của công ty đa quốc gia;
Chương 2: Những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế của
công ty đa quốc gia;
Chương 3: Pháp luật Việt Nam về hoạt động của công ty đa quốc gia trong
lĩnh vực đầu tư quốc tế.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA


12

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một thành phần quan trọng của hoạt động kinh tế, tạo nên
nhân tố cơ bản cho tăng trưởng của các doanh nghiệp và các quốc gia. Theo nghĩa
rộng, đầu tư thường được hiểu là một khoản tiền hoặc các nguồn lực khác (ví dụ
như kiến thức hay thời gian) được sử dụng với kỳ vọng thu được một lợi ích trong

tương lai. Tuy nhiên, đầu tư có thể được xem xét hẹp hơn theo nhiều cách, phụ
thuộc vào bối cảnh và mục đích.
Cách tiếp cận ở khía cạnh kinh tế cho rằng, đầu tư quốc tế chính là hoạt động
xuất nhập vốn. Theo đó, đầu tư quốc tế là một quá trình trong đó có sự dịch chuyển
vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa lại
lợi ích cho các bên tham gia. Đầu tư quốc tế là một tất yếu khách quan do sự khác
nhau về nhu cầu và khả năng tích lũy vốn của các quốc gia, do việc tránh các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan, cũng như các nguyên nhân chính trị, kinh tế, xã hội
khác. Bản chất của đầu tư quốc tế là xuất khẩu tư bản - hình thức cao hơn của xuất
khẩu hàng hoá. Xuất khẩu tư bản là quá trình thực hiện giá trị thặng dư ở nước
ngoài, còn xuất khẩu hàng hoá là quá trình thực hiện giá trị thặng dư ở trong nước.
Xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu tư bản luôn luôn bổ sung và hỗ trợ cho
nhau. Các nhà tư bản thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá để thâm nhập tìm hiểu thị
trường, luật lệ, quyết định đầu tư tư bản (xuất khẩu tư bản). [7]
Cách tiếp cận theo pháp luật về đầu tư lại tập trung vào vấn đề sở hữu/tài
sản, không kể tới bản chất sản xuất hay tài chính của đầu tư, trừ khi có những giới
hạn cụ thể. Ví dụ, các định nghĩa rộng trong các điều ước quốc tế có thể bao gồm tất
cả các dạng tài sản thuộc về một doanh nghiệp nước ngoài hoặc một cá nhân. Các
khái niệm trong luật hoặc các điều ước có thể rất khác nhau, rộng hay hẹp, phụ
thuộc vào hình thức và mục đích của công cụ pháp lý này. Chúng không nhằm xác
định khái niệm đầu tư, mà xác định phạm vi tài sản được điều chỉnh bởi một công
cụ pháp lý. [1, tr. 10]
Theo Luật đầu tư năm 2014 của Việt Nam, khái niệm đầu tư được định nghĩa
ở phạm vi hẹp, cụ thể: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực
hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp


13

vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của các tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp

đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”.
Đứng ở góc độ của một quốc gia, thì hoạt động đầu tư quốc tế bao gồm hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại nước sở tại, và hoạt động đầu tư của nhà
đầu tư trong nước ra nước ngoài.
(i)

Các hình thức đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế có thể chia thành 4 hình thức cơ bản [8]:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài;
- Tín dụng thương mại;
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và hỗ trợ chính thức (OA).

Trong các hình thức đầu tư quốc tế thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
hình thức đầu tư quan trọng nhất, nó là nguồn cung cấp vốn lớn cho sự phát triển
của các quốc gia. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư của các MNC chủ yếu được
thực hiện dưới hình thức FDI. Do đó, khi nghiên cứu về các quy định pháp luật về
hoạt động đầu tư quốc tế của các MNC, luận văn xin đi sâu phân tích những nội
dung cơ bản của hình thức đầu tư này.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hình thức FDI. Theo định nghĩa của
IMF về FDI và các khái niệm liên quan thì: “Đầu tư trực tiếp là dạng đầu tư quốc tế
phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế, nhằm có được mối
quan tâm (lợi ích) lâu dài trong một doanh nghiệp cư trú tại một nền kinh tế khác.
(Thực thể này là nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp là doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp) Mối quan tâm (lợi ích) lâu dài ngụ ý là tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa
nhà đầu tư trực tiếp với doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà
đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp không chỉ bao gồm
những giao dịch ban đầu thiết lập nên mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh
nghiệp, mà còn cả những giao dịch tiếp theo giữa họ và giữa các doanh nghiệp, dù
có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân.

(...) Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là (...) một doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó một nhà đầu tư trực tiếp, cư trú


14

tại một nền kinh tế khác, sở hữu 10% hoặc hơn cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết (đối với một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân) hoặc mức tương đương (đối
với doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân).
Nhà đầu tư trực tiếp có thể là các cá nhân; các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh
nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân; một
nhóm các cá nhân hoặc doanh nghiệp; chính phủ hoặc cơ quan của chính phủ, tập
đoàn, tờ - rớt; hoặc các tổ chức sở hữu (...) các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp tại
các nền kinh tế khác ngoài nền kinh tế mà các nhà đầu tư trực tiếp cư trú. Thành
viên của các nhóm liên kết các cá nhân hoặc doanh nghiệp, thông qua mức sở hữu
kết hợp 10% hoặc hơn, được coi là có ảnh hưởng đến quản lý tương đương với ảnh
hưởng của một cá nhân với mức sở hữu tương tự” [28, tr. 86 - 87].
OECD cũng có một cách hiểu tương tự IMF về FDI: “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế (“nhà đầu tư
trực tiếp”) muốn có được một mối quan tâm (lợi ích) lâu dài trong một thực thể cư
trú tại một nền kinh tế khác nền kinh tế của một nhà đầu tư (“doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp”). Mối quan tâm (lợi ích lâu dài) ngụ ý rằng: tồn tại một mối quan hệ dài
hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp với doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể
trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp liên quan đến cả giao dịch
ban đầu giữa hai thực thể và mọi giao dịch vốn tiếp theo giữa chúng và giữa các
công ty con, dù có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân.
Một nhà đầu tư trực tiếp là một cá nhân, một doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh
nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, một
chính phủ, một nhóm các cá nhân có liên quan hoặc một nhóm các doanh nghiệp có
tư cách pháp nhân và/hoặc không có tư cách pháp nhân có liên quan, trong đó một

nhà đầu tư trực tiếp sở hữu 10% hoặc hơn cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết
của một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc mức tương đương của một doanh
nghiệp không có tư cách pháp nhân.
Hướng dẫn bằng số về mức sở hữu 10% cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu có quyền
biểu quyết xác định sự tồn tại của một mối quan hệ đầu tư trực tiếp. Một ảnh hưởng
hiệu quả trong quản lý, với bằng chứng là việc sở hữu ít nhất 10%, ngụ ý rằng nhà
đầu tư trực tiếp có thể tác động tới hoặc tham gia vào việc quản lý một doanh
nghiệp, không đòi hỏi quyền kiểm soát hoàn toàn của nhà đầu tư nước ngoài” [22,


15

tr. 7 - 8]. Theo đó, OECD đã chỉ ra cách thức cụ thể để nhà đầu tư thực hiện đầu tư
trực tiếp nước ngoài như: thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi
nhánh thuộc sự quản lý của nhà đầu tư; mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham
gia vào một doanh nghiệp mới; hoặc cấp tín dụng dài hạn trên 5 năm.
Tại Việt Nam, Luật đầu tư năm 2014 không có khái niệm cụ thể về FDI,
nhưng tại Điều 2 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 (Luật được Quốc hội
thông qua ngày 12/11/1996 trong bối cảnh hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài của
Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới) có quy định: “FDI là việc
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản
nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Có thể hiểu đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư
và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân
người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng
vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Việc một nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát một công ty là trung tâm của khái
niệm FDI, giúp phân biệt FDI với các dạng đầu tư quốc tế khác. Khái niệm “kiểm
soát” đã phát triển cùng với sự tăng cường hiểu biết về hoạt động của các MNC,
những chủ thể chịu trách nhiệm về phần lớn hoạt động FDI. Các công ty tiến hành

FDI nhằm mở rộng sản xuất của mình ra khỏi biên giới quốc gia của nước mình, trở
thành các MNC trong quá trình này. Để sản xuất, các MNC cần quyền kiểm soát để
quyết định sản xuất cái gì, với công nghệ nào và sản xuất ở đâu. Trong một thời
gian dài, người ta đã cho rằng tỷ lệ sở hữu đa số là nguồn duy nhất để một công ty
có được quyền kiểm soát đối với một công ty khác. Cùng với thời gian, giả định này
dường như đã trở nên yếu đi. Thứ nhất, thực tế đã chứng minh, trong nhiều trường
hợp, việc sở hữu thiểu số vẫn đủ để thực thi quyền kiểm soát. Thứ hai, có những
dạng hợp đồng nhất định (ví dụ như hợp đồng franchising - nhượng quyền kinh
doanh hoặc hợp đồng quản lý) cũng có thể là một nguồn đem lại sự kiểm soát đủ
mạnh để công ty nắm quyền có thể đưa ra các quyết định sản xuất, khiến cho loại
hình FDI không góp vốn gia tăng. Sản xuất quốc tế của các MNC như McDonalds
hay chuỗi khách sạn xuyên quốc gia chủ yếu dựa trên quyền kiểm soát dưới dạng
không góp vốn.


16

Việc mở rộng hoạt động của các MNC trên toàn thế giới từ đầu thế kỉ XX đã
gia tăng sự quan tâm đối với FDI như một dạng của dòng nguồn lực quốc tế, cũng
như là cơ sở cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất qua biên giới quốc gia. Trước
đây các mối quan tâm tập trung vào đầu tư quốc tế dưới dạng vay nợ ngân hàng qua
biên giới và sau đó đầu tư vào chứng khoán (là việc nhà đầu tư có trụ sở tại một
quốc gia mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp của một quốc gia khác),
những dạng đầu tư này là chủ đạo trong giai đoạn đó. Sự gia tăng nhanh chóng của
FDI và tầm quan trọng tăng lên của nó - với tư cách một nguồn tài chính bên ngoài
cũng như các nguồn lực khác cho các nước đang phát triển trong hai thập kỷ qua đã làm gia tăng hơn nữa mối quan tâm đến FDI và các hoạt động sản xuất quốc tế
gắn liền với nó.
(ii)

FDI được phân biệt với các hình thức đầu tư quốc tế khác bởi hai đặc

điểm [12, tr. 5]:

Thứ nhất, mọi hình thức đầu tư quốc tế đều được tiến hành bên ngoài nước
của công ty đầu tư, nhưng FDI khác với các hình thức khác, được tiến hành bên
trong công ty đầu tư: quyền kiểm soát đối với việc sử dụng các nguồn lực được di
chuyển vẫn nằm trong tay nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư đưa ra những quyết định
sản xuất và đầu tư;
Thứ hai, trong khi mọi hình thức đầu tư đều liên quan đến việc di chuyển của
nguồn lực tài chính qua biên giới, FDI còn liên quan đến việc di chuyển những tài
sản và nguồn lực khác, ví dụ như công nghệ, kỹ năng quản lý và những kỹ năng
khác, khả năng tiếp cận thị trường, năng lực kinh doanh, ...
Vì thế có thể nói, FDI không chỉ bao gồm dòng chảy của các nguồn lực tài
chính vào nước chủ nhà, mà còn bao hàm một gói các nguồn lực và tài sản cần thiết
cho sự tăng trưởng và phát triển của nước chủ nhà. Các nhân tố làm này sinh FDI
cũng như tác động đến địa điểm của hoạt động này tại các nước chủ nhà khác nhau.
(iii)

Trong thực tiễn, FDI được thực hiện dưới các hình thức sau đây [8]:

Một là, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC):
đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để
tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên
cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.


17

BCC do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh ký. Thời gian có hiệu
lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước

nhận đầu tư phê chuẩn.
Hai là, doanh nghiệp liên doanh (JV) do các bên nước ngoài với nước chủ
nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn
góp. JV được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách
pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm
đối với bên kia và với JV trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định.
Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh
thỏa thuận.
Ba là, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ
nhà.
Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài là:
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Đây là
các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng.
Bốn là, khu vực tập trung FDI, khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới
địa lý xác định do Chính phủ nước nhận đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể
có một hoặc nhiều xí nghiệp sản xuất hàng hóa chủ yếu phục vụ xuất khẩu hoặc
thay thế nhập khẩu. Trong khu chế xuất, áp dụng chế độ tự do hải quan, tự do
thương mại. Để khu chế xuất hoạt động có hiệu quả, nước sở tại cần phải đảm bảo
một số điều kiện nhất định về địa điểm đặt khu chế xuất, công tác quản lý, thủ tục
hành chính, về dịch vụ cung cấp cho khu chế xuất, về môi trường hấp dẫn đầu tư.

1.1.2. Công ty đa quốc gia
1.1.2.1. Sự ra đời của công ty đa quốc gia [15]


18


Tiền thân của các MNC là công ty quốc gia. Công ty quốc gia này mang
quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này thuộc quyền sở hữu của các
nhà tư bản nước sở tại. Việc kinh doanh của họ ngày càng phát triển, hàng hóa và
dịch vụ được sản xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng cao hơn. Từ thập niên 80,
cùng với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các công ty quốc gia tiến hành
sáp nhập với nhau tạo thành công ty đa quốc gia, nhằm mục đích:
Thứ nhất, phục vụ mục tiêu lớn nhất là tối đa hóa giá trị tài sản công ty nhờ
việc khai thác các tiềm năng tại chỗ.
Thứ hai, sự liên kết giữa các công ty quốc gia nhằm tăng khả năng bảo vệ
trước những rủi ro, giảm thiểu sự không ổn định của chu kỳ kinh doanh nội địa,
chống lại chính sách bảo hộ mậu dịch ở các nước, bảo vệ thị phần, giảm chi phí
trung gian đáp ứng nhanh nhu cầu của người tiêu dùng.
Thứ ba, cạnh tranh gay gắt thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, nhiều
ngành kỹ nghệ mới ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, người máy… đòi hỏi
nhiều vốn, nhiều kỹ thuật cao cấp, công ty một quốc gia không thể đủ sức đáp ứng,
cho nên sự ra đời của công ty đa quốc gia là cần thiết.
Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa
đế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp
giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập
đoàn sản xuất - kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong
thời kỳ đầu của CNTB, với sự thôn tính “cá lớn nuốt cá bé”, cũng tạo thêm điều
kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn. Đáng chú ý, sự cạnh
tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn
ngoài nước, nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này.
Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ
sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhà nước tư
bản chủ nghĩa (TBCN). Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế
thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các
nước TBCN đã tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNC, đặc biệt trong

thế giới tư bản. Nhiều MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Sự phát
triển của MNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài
chính và khoa học kỹ thuật, … mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp


19

thế giới tư bản. Vai trò của MNC trong quan hệ quốc tế (QHQT) cũng vì thế mà đã
tăng lên qua sự đóng góp rất lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài,
thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở rộng phân công lao động quốc tế. Tuy
nhiên, quá khứ gắn liền với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã tạo nên sự
phản ứng và sự nghi ngờ đối với các MNC. Trong những năm 1960 và 1970, nhiều
nước mới giành được độc lập đã coi các MNC là “kẻ bóc lột”, “thực dân kinh tế”,
“động vật ăn thịt” các nước nghèo. Các MNC còn bị lên án bởi việc xuất khẩu các
công nghệ lạc hậu, khai thác quá nhiều tài nguyên không tái tạo được, tranh giành
thu hút lao động chuyên môn, ... vì thế tài sản của các MNC bị quốc hữu hóa ở
nhiều nơi. Các MNC phải rút lui khỏi thị trường ở một số nước đang phát triển. Tuy
vậy, điều đó cũng không thể ngăn cản được sự lớn mạnh của các MNC.
Đáng chú ý là sự thay đổi cách nhìn nhận về MNC ở các nước TBCN đã góp
phần đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các MNC. MNC
ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thu
thuế, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm kinh doanh quốc
tế. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn
cạnh tranh với nhau trong việc thu hút MNC. Nhờ đó, các MNC đã bành trướng khá
nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế.
Sau Chiến tranh lạnh, MNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các
MNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào
năm 2004. Đồng thời, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng thấy
với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990
lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm khác cũng đáng chú ý, MNC không còn

là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xuất hiện cả trong các nền
kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô và vai trò của các MNC
này vẫn còn rất khiêm tốn. Các MNC cũng là người nắm giữ hầu hết vốn đầu tư
nước ngoài. Các MNC thực hiện hơn 80% thương mại thế giới. Các MNC chi phối
hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Các MNC cũng
nắm giữ phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyển giao công nghệ. Các
MNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự phát triển. Thế và lực của MNC tiếp
tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng sáp nhập và mua lại (M&A)
để hình thành các tập đoàn lớn, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như


20

truyền thông, ngân hàng - tài chính, giao thông vận tải... Tất cả những điều này
đang làm tăng vai trò của MNC đối với quốc gia và QHQT. [16]
1.1.2.2.

Khái niệm công ty đa quốc gia

Trong các tài liệu về công ty đa quốc gia, có nhiều thuật ngữ được sử dụng
như: công ty quốc tế (International Enterprise/Firm), công ty đa quốc gia
(Multinational Corporations/Enterprises - MNCs/MNEs), công ty xuyên quốc gia
(Transnational Corporations - TNCs), gần đây lại xuất hiện thuật ngữ công ty toàn
cầu (Global Firm)... Ở khía cạnh kinh tế, các nhà nghiên cứu thường có sự phân biệt
giữa công ty quốc tế với công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia. Trong đó,
“công ty quốc tế” là công ty có sự quốc tế hoá thị trường, tức là hoạt động ở cả thị
trường nội địa lẫn thị trường nước ngoài. “Công ty đa quốc gia” là công ty có sự
quốc tế hóa nguồn vốn, tức là có chủ đầu tư thuộc các quốc tịch khác nhau. “Công
ty xuyên quốc gia” là công ty có sự quốc tế hoá hoạt động kinh doanh nhưng chủ
đầu tư thường thuộc một quốc tịch. Tuy nhiên ở khía cạnh pháp lý, các khái niệm

này được xem xét dưới cùng một bản chất, việc tiếp cận, sử dụng các thuật ngữ
khác nhau về công ty đa quốc gia chỉ hàm ý là tên gọi trong từng giai đoạn. [9]
Dự thảo Luật về quản lý MNC của Liên hiệp quốc (đoạn 1) đã định nghĩa:
“Công ty xuyên quốc gia” có nghĩa là “một doanh nghiệp bao gồm nhiều thực thể
tại hai hay nhiều nước, không xét đến hình thức pháp lý và lĩnh vực hoạt động, miễn
là các thực thể này vận hành theo một hệ thống ra quyết định, cho phép có được
các chính sách gắn kết và một chiến lược chung thông qua một hoặc nhiều trung
tâm ra quyết định. Trong đó, các thực thể này được kết nối với nhau, thông qua việc
sở hữu hoặc cách khác, khiến cho một hoặc nhiều thực thể có thể có được ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động của những thực thể khác, đặc biệt là chia sẻ tri thức,
nguồn lực và trách nhiệm đối với các thực thể khác”.
Trong bản Các nguyên tắc và quy tắc công bằng được thỏa thuận đa phương
về kiểm soát các hoạt động hạn chế kinh doanh được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 05/12/1980 đã quy định thuật ngữ “các doanh nghiệp” có nghĩa là
“các hãng, công ty, các hiệp hội khác, thể nhân hoặc pháp nhân, hoặc bất cứ sự kết
hợp nào của các đối tượng này, không xét đến phương thức tạo lập, kiểm soát hoặc
sở hữu, của tư nhân hay Nhà nước, tham gia vào các hoạt động thương mại và bao


21

gồm các chi nhánh, các công ty con và các thực thể khác được quản lý trực tiếp
hoặc gián tiếp bởi chúng”.
Bản Hướng dẫn đối với các MNC của OECD (đoạn 8) mô tả một “MNC”
như sau: “Những công ty này thường bao gồm các công ty hoặc các thực thể khác
mà quyền sở hữu chúng là thuộc tư nhân, chính phủ hoặc hỗn hợp, được thành lập
tại các nước khác nhau và được liên kết tới mức một hoặc nhiều thực thể có thể có
được một mức độ ảnh hưởng hiệu quả đến hoạt động của các thực thể khác và đặc
biệt, có thể chia sẻ tri thức và nguồn lực với các thực thể khác. Mức độ tự chủ của
mỗi thực thể trong mối quan hệ với các thực thể khác của mỗi công ty đa quốc gia

rất khác nhau, phụ thuộc vào bản chất của mối quan hệ giữa những thực thể này và
lĩnh vực hoạt động liên quan”. [23, tr. 45 - 46]
Có thể thấy, các khái niệm về công ty đa quốc gia đều có điểm chung, đó là
các công ty đa quốc gia là các tập đoàn kinh tế tiến hành hoạt động sản xuất ở hai
nước trở lên. Thông thường, các công ty này đặt trụ sở chính ở quốc gia gốc và mở
rộng ra nước ngoài bằng cách xây dựng hoặc mua lại các công ty con ở các nước
khác (quốc gia tiếp nhận). Loại mở rộng này được gọi là FDI bởi vì nó liên quan
đến việc tiến hành trực tiếp hoạt động sản xuất ở nước ngoài, ví dụ như Công ty
Ford thiết lập nhà máy sản xuất xe hơi ở Mexico, hay Ngân hàng Citibank đặt văn
phòng chi nhánh ở London để cung cấp dịch vụ tài chính. FDI đã gia tăng với tỷ lệ
phi thường kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ví dụ, vào thập niên 1980, FDI
tăng trưởng 28,9% mỗi năm, gấp 3 lần mức tăng trưởng của thương mại thế giới, và
đó chính như là chìa khóa tác động mạnh mẽ tới sự hợp nhất của nền kinh tế thế giới.
Các MNC có thể khác nhau về mức độ hoạt động đa quốc gia. Một MNC lớn
có thể hoạt động ở 100 nước, với hàng trăm ngàn nhân viên làm việc ở bên ngoài
nước của nó. Định nghĩa ở khía cạnh kinh tế nhấn mạnh khả năng kiểm soát dòng
chảy của vốn qua biên giới quốc gia của các MNC. Tuy nhiên, dựa vào các khái
niệm nêu trên, có thể thấy dòng vốn không phải là đặc trưng của một MNC. Vốn có
thể chảy từ nước này sang nước khác trong kỳ vọng lãi cao hơn. Tuy nhiên, dòng
chảy của vốn có thể được đầu tư theo hình thức trái phiếu, hoặc vốn đầu tư chưa đủ
để cấp quyền kiểm soát cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp này, hình
thức đầu tư được xem xét như một sự đầu tư về danh mục đầu tư. Khía cạnh trung


22

tâm của "đầu tư trực tiếp" là sự khẳng định quyền sở hữu của một bên ở một quốc
gia về hoạt động của một công ty nước ngoài hoặc công ty con trong một MNC.
1.1.2.3. Đặc điểm của công ty đa quốc gia
(i) Công ty đa quốc gia được hình thành từ liên kết giữa các chủ thể kinh

doanh độc lập được thành lập tại các quốc gia khác nhau tạo thành một tổ hợp [6]
Các MNC được hình thành trên cơ sở liên kết giữa các pháp nhân, trong đó
chủ yếu là các pháp nhân thương mại. Các pháp nhân thương mại trong các MNC
độc lập về mặt pháp lý, chịu sự ràng buộc với các hệ thống pháp luật của các quốc
gia nơi chúng được thành lập. Ngoài pháp nhân thương mại, thành viên của các
MNC còn bao gồm các pháp nhân phi thương mại để thực hiện các hoạt động đào
tạo, nghiên cứu, phát triển công nghệ.
Liên kết giữa các pháp nhân thành viên trong các MNC được hình thành
trên cơ sở đầu tư vốn trực tiếp từ thành viên này vào thành viên khác hoặc việc
cùng sở hữu, sử dụng chung các đối tượng sở hữu công nghiệp hay nằm trong một
chuỗi kinh doanh (ví dụ như hợp đồng franchising) phù hợp với quy định pháp luật
của quốc gia mà thành viên này tồn tại. Các thành viên trong các MNC độc lập về
mặt pháp lý, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, tuy nhiên các
thành viên trong các MNC thông thường có chung một chiến lược kinh doanh. Các
thành viên trong các MNC không chịu trách nhiệm cho hoạt động kinh doanh chung
của công ty mẹ và cũng không chịu trách nhiệm trong trường hợp một thành viên
khác của MNC làm ăn thua lỗ phá sản. Thành viên trong các MNC ràng buộc trách
nhiệm trực tiếp với nhau thông qua hợp đồng liên kết. Mối liên kết giữa các thành
viên trong các MNC có thể chi phối hoặc những liên kết không mang tính chi phối.
Thứ nhất, các MNC có liên kết chặt chẽ, chi phối là tập hợp của công ty chi
phối và các công ty bị chi phối. Công ty chi phối (hay còn gọi là công ty mẹ) trong
các MNC thường tồn tại ở mô hình cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, giữ
quyền chi phối điều hành các hoạt động của công ty bị chi phối (hay còn gọi là công
ty con). Công ty con tham gia vào các MNC độc lập về pháp lý nhưng bị hạn chế
quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính. Các công ty thành
viên trong các MNC buộc phải tuân theo những quy định “cứng”, thống nhất trong
toàn bộ MNC. Các liên kết trong MNC mang tính chi phối, được hình thành trên cơ


23


sở đầu tư góp vốn, kiểm soát hoạt động của công ty và chuyển các quyền liên quan
đến sở hữu công nghiệp và một số loại quyền khác.
Thứ hai, bên cạnh liên kết vốn mang tính chi phối, trong MNC còn có
những hình thức liên kết khác như về liên kết vốn nhưng không đủ mức chi phối,
liên kết về công nghệ, liên kết về thị trường, liên kết về nhân sự lãnh đạo, những
hình thức liên kết này thường mang tính chất liên kết mềm được hình thành trên cơ
sở thỏa thuận hợp đồng. Theo đó, công ty mẹ chia sẻ những lợi ích về công nghệ, về
thị trường cho các chủ thể kinh doanh khác (gọi là thành viên liên kết). Công ty mẹ
chi phối một phần hoạt động của thành viên liên kết, yêu cầu thành viên liên kết
phải tuân thủ những nguyên tắc và chính sách kinh doanh của toàn bộ tập đoàn đa
quốc gia. Trong mối quan hệ này, thành viên liên kết thường phải trả phí sử dụng
cho những lợi thế kinh tế mà công ty mẹ chuyển giao.
(ii) Các MNC là một chủ thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. [10]
Xét từ khía cạnh liên kết của các pháp nhân tạo thành tập đoàn đa quốc gia
và bản chất pháp lý của các MNC, có thể thấy, các MNC là một chủ thể trong quan
hệ kinh tế quốc tế. MNC được nhiều người coi là một loại hình tổ chức quốc tế phi
chính phủ (INGO) trong kinh tế. Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai
trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong
QHQT đang đem lại cho MNC khả năng của một chủ thể QHQT. Điều này được
thể hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể QHQT là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh
hưởng.
Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, MNC bắt đầu ghi dấu
ấn lớn trong QHQT với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ nửa cuối thế kỷ XIX,
phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt không gian, ngày
nay, các MNC đã “phủ sóng” hầu như khắp mọi quốc gia trên thế giới. Thậm chí,
nhiều MNC có tầm hoạt động trên quy mô toàn cầu. Về kênh quan hệ, các MNC
tham gia vào QHQT không chỉ qua quan hệ giữa MNC với quốc gia khác, giữa
MNC với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ sở với các
chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công lao

động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính
quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài, … Về lĩnh vực tham
gia, hoạt động của TNC không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn mà còn đi


24

sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, MNC còn hiện diện khá lớn
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của QHQT như
khoa học, văn hoá, xã hội, … Không chỉ về bề rộng, mức độ tham gia QHQT của
các MNC cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong kinh tế. Điều này tạo khả năng cho MNC
tham gia sâu hơn nữa vào đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các MNC đều có mục đích lợi
nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các MNC
và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt động kinh doanh. Không
có mục đích lợi nhuận, không phải là MNC. Trên phương diện QHQT, mục đích
này là động lực chính hướng hoạt động của MNC ra bên ngoài nhằm khai thác hơn
nữa lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến MNC
góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào
QHQT. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị
trường, tăng cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của
chúng trong QHQT. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các MNC có những
đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xuất
khẩu, mở rộng sản xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng
quản lý, tạo việc làm, … Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của
MNC dễ hoà hợp hơn với mục đích phát triển của các nước. Đồng thời, việc giảm
thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước kia cũng góp phần làm giảm mâu
thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó, sự nghi
ngại, chống đối MNC ở các nước này cũng giảm theo. Đó chính là cơ hội cho MNC
mở rộng hoạt động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận.

Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các MNC có nguồn tài lực và nhân lực
riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của chúng
rất lớn và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những MNC có số
tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể xu hướng M&A đang
tạo ra những MNC khổng lồ trong nền kinh tế thế giới. Các MNC được luật pháp
chính quốc cũng như nước sở tại trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền riêng
trong hoạt động kinh doanh. Các quy định pháp luật về MNC của chính quốc có
nhiều quy định thông thoáng, pháp luật của nước sở tại lại có nhiều quy định
khuyến khích, cùng với đó là pháp luật quốc tế còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào
các nước phát triển, nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của các MNC. Cơ sở tài


25

chính, nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem lại cho các MNC khả
năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. MNC tự quyết
định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính sách và biện pháp kinh
doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của ai, miễn là phù hợp
với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của MNC còn được thể hiện qua khả năng tác
động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực thuộc thẩm quyền quốc gia.
Hiện nay, cho dù vẫn phải chịu sự điều chỉnh nhất định của quốc gia, năng lực này
của MNC vẫn đang được củng cố nhờ xu hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón
của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển năng lực của bản thân các MNC và cả
xu hướng tăng cường hợp tác giữa chúng.
Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong QHQT, MNC có được vị trí khá
lớn trong QHQT không chỉ nhờ thực lực to lớn và khả năng kiến tạo các quan hệ
xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu phát triển ngày
càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã đem lại vị thế
quan trọng cho MNC trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Hơn nữa, các
MNC chủ yếu xuất phát từ các trung tâm chính trị và kinh tế lớn của thế giới như

Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu thuẫn của các thế lực này, ảnh hưởng
kinh tế và tiếng nói chính trị của MNC trong QHQT được tăng lên đáng kể. Đáng
chú ý, sau Chiến tranh lạnh, ảnh hưởng của MNC trong QHQT có chiều hướng tăng
lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế trong QHQT đem lại vị thế quốc tế cao hơn
cho MNC, thì xu thế thống nhất của thị trường thế giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu
cho chúng. Trong khi đó, do khả năng chi phối chính trị của kinh tế ngày một lớn
nên khả năng tác động tới quốc gia và QHQT của MNC cũng rất đáng kể. Nhìn
chung, MNC vẫn có khả năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở
tại, buộc chúng thay đổi hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại.
(iii) Các MNC có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, nhưng phức tạp và nhiều cấp
Cơ cấu tổ chức của MNC nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích
giữa các công ty thành viên trong MNC. Các công ty trong một MNC liên kết với
nhau trên cơ sở quan hệ về vốn, quan hệ quản lý hoặc thông qua hợp đồng, do đó
việc xây dựng thống nhất một cơ cấu quản lý là đòi hỏi không dễ thực hiện trong
MNC.


×