Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận vấn đề hợp nhất các ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.87 KB, 22 trang )

Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng

MỤC LỤC
CHƯƠNG I:
LÝ THUYẾT VỀ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP, HỢP NHẤT
1.1

1

Định nghĩa và Quy trình mua bán sáp nhập.....................................................................1
1.1.1

Định nghĩa

1

1.1.2

Quy trình mua bán sáp nhập 4

1.2

Mục đích thực hiện hoạt động mua bán sáp nhập............................................................4

1.3

Các vấn đề phải giải quyêt sau khi thực hiện mua bán sáp nhập......................................5

1.4

Hoạt động M&A trong lĩnh vực Ngân hàng.....................................................................6


1.4.1

Hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở các nước phát triển

6

1.4.2

Hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở các nước đang phát triển

7

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ QUYẾT
ĐỊNH HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN, VIỆT NAM TÍN NGHĨA, ĐỆ
NHẤT 8
2.1

Thực trạng tổ chức hoạt động và yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam.....8

2.2

Tính đúng đắn khi quyết định hợp nhất 3 ngân hàng SCB, VNTN, FB.........................12
2.2.1

Thực trạng 3 ngân hàng trước hợp nhất

13

2.2.2


Xét tính đúng đắn trong quyết định hợp nhất 15

CHƯƠNG III:
CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH KHI HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG

18

3.1

Tài chính.........................................................................................................................18

3.2

Bộ máy quản lý & mô hình tổ chức................................................................................18

3.3

Chiến lược kinh doanh....................................................................................................20

3.4

Nhân sự...........................................................................................................................19

3.5

Quản trị rủi ro.................................................................................................................20

3.6


Công nghệ thông tin.......................................................................................................21

Trang 0


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
CHƯƠNG I:
LÝ THUYẾT VỀ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP, HỢP NHẤT
1.1 Định nghĩa và Quy trình mua bán sáp nhập
1.1.1 Định nghĩa

 Theo lý thuyết Merger and Acquisition (M&A)
Mua bán, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là một thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt
Nam, đặc biệt là khi thị trường chứng khoán Việt Nam có những bước phát triển
nhanh chóng. Thuật ngữ này được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Merger &
Acquisition” hay còn được viết tắt là M&A. M&A thực chất là hoạt động giành quyền
kiểm soát doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần
hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó. Mục đích của M&A là giành quyền kiểm soát doanh
nghiệp ở mức độ nhất định chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một phần vốn góp hay
cổ phần của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì vậy, khi một nhà đầu tư đạt
được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham gia, quyết định
các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì khi đó mới có thể coi đây là hoạt động
M&A. Ngược lại, khi nhà đầu tư sở hữu phần vốn góp, cổ phần không đủ để quyết
định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt động đầu tư
thông thường.
 Merger (Sáp nhập):
Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức kết hợp một hoặc một số công ty cùng loại
(công ty bị sáp nhập) vào một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) trên cơ sở chuyển
toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập vào công ty nhận sáp nhập.
Công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại. Công ty nhận sáp nhập vẫn tồn tại và kế thừa

toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập.
Các hình thức sáp nhập rất đa dạng và có nhiều cách phân loại:
 Dựa vào cấu trúc của từng doanh nghiệp:

Trang 1


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
- Sáp nhập ngang (hay còn gọi là Sáp nhập cùng ngành): Diễn ra đối với hai công ty
cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ cùng dòng sản phẩm và thị trường.
- Sáp nhập dọc: Diễn ra đối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, ví dụ giữa
một công ty với khách hàng hoặc nhà cung cấp của công ty đó.
- Sáp nhập kiểu tập đoàn: Trong trường hợp này, hai công ty không có cùng lĩnh vực
kinh doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động lĩnh vực kinh doanh đa ngành
nghề.
 Dựa trên cách thức cơ cấu tài chính:
- Sáp nhập mua: Như chính cái tên này thể hiện, loại hình Sáp nhập này xảy ra khi
một công ty mua lại một công ty khác. Việc mua công ty được tiến hành bằng tiền
mặt hoặc thông qua một số công cụ tài chính.
- Sáp nhập hợp nhất: Với hình thức Sáp nhập này, một thương hiệu công ty mới
được hình thành và các công ty được hợp nhất dưới một pháp nhân mới. Tài chính
của hai công ty sẽ được hợp nhất trong công ty mới.
 Dựa trên phạm vi lãnh thổ:
- Sáp nhập các doanh nghiệp trong nước
- Sáp nhập các doanh nghiệp nước ngoài
 Dựa trên phương thức ra quyết định quản lý:
- M&A đồng thuận
- M&A không đồng thuận
 Mua lại (Acquisitions):
Mua lại là một công ty mua lại hoặc thôn tính công ty khác mà không tạo ra pháp

nhân mới. Dù là giao dịch thân thiện hay thù địch thì giao dịch mua lại xảy ra khi bên
mua giành được quyền kiểm soát đối với công ty mục tiêu (đối tượng bị mua lại).
Có thể thấy hoạt động Mua bán chỉ khác đôi chút so với hình thức Sáp nhập. Trên
thực tế, nó có thể chỉ khác về mặt thuật ngữ. Giống như Sáp nhập, Mua bán cũng
nhằm mục đích đạt được lợi thế quy mô, tăng hiệu quả và thị phần. Không giống như
Trang 2


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
tất cả các loại hình Sáp nhập, Mua bán liên quan đến một công ty mua lại một công ty
khác chứ không phải hợp nhất để tạo thành công ty mới. Mua bán luôn diễn ra tốt đẹp
nếu quan hệ hai bên là ăn ý nhau và cảm thấy thỏa mãn với thương vụ đó. Tuy nhiên,
cũng có trường hợp, hoạt động Mua bán được diễn ra rất căng thẳng - khi mà hai đối
thủ dùng tiềm lực tài chính để thâu tóm nhau nhằm triệt tiêu sự cạnh tranh lẫn nhau.
 Theo khung pháp lý Việt Nam
Theo Luật Doanh Nghiệp năm 2005, không có khái niệm mua bán doanh nghiệp
mà chỉ có khái niệm hợp nhất và sáp nhập doanh nghiệp (quy định tại điều 152 và
điều 153):
- Hợp nhất là hình thức hai hoặc một số công ty cùng loại (công ty bị hợp nhất) có
thể hợp nhất thành một công ty mới (công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ
tài sản quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của các các công ty bị hợp nhất.
- Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số công ty (công ty bị sáp
nhập) sáp nhập vào một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Theo Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 2 năm 2010 của NHNN quy
định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng, các khái niệm này trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng được định nghĩa như sau:
- Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (tổ chức

tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng
nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ
chức tín dụng bị sáp nhập.
- Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (tổ chức
tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (tổ chức tín dụng
hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp

Trang 3


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
sang tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín
dụng bị hợp nhất.
- Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (tổ chức tín dụng mua
lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng
khác (tổ chức tín dụng bị mua lại). Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở
thành công ty trực thuộc của tổ chức tín dụng mua lại.
1.1.2 Quy trình mua bán sáp nhập

Bất kỳ một giao dịch M&A nào cũng phải trải qua các bước sau để rút ngắn được
thời gian tái tổ chức và giảm thiểu các rủi ro:
- Giai đoạn 1: Xem xét/đánh giá hiện trạng và các hoạt động trù bị
- Giai đoạn 2: Hoạch định lộ trình và chương trình sáp nhập
- Giai đoạn 3: Thực hiện sáp nhập và truyền thông
- Giai đoạn 4: Hợp nhất tổ chức/quản lý và tối ưu hóa nguồn lực.
1.2 Mục đích thực hiện hoạt động mua bán sáp nhập

Xuất phát từ lợi ích dự tính của thương vụ M&A mà ban quản trị công ty ra quyết
định đối với M&A. Thực chất quyết định mua bán và sáp nhập doanh nghiệp không

phải là một quyết định bình thường hay mang tính tình thế mà nó là quyết định mang
tính chiến lược, tạo nên một sự thay đổi lớn trong doanh nghiệp cũng như tầm nhìn và
hướng đi của doanh nghiệp về sau.
Chính vì vậy, chúng ta phải đề cập đến những lợi ích của M&A mà các nhà quản trị
kỳ vọng:
 Cải thiện tình hình tài chính
- Tăng thêm vốn sử dụng
- Khả năng tiếp cận thêm nguồn vốn
- Chia sẻ rủi ro
- Tăng cường tính minh bạch

Trang 4


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
 Củng cố vị thế thị trường
- Tăng thị phần, tăng khách hàng
- Tận dụng quan hệ khách hàng cũng như khả năng bán chéo dịch vụ
- Tận dụng kiến thức sản phẩm để tạo cơ hội kinh doanh mới
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
 Giảm thiểu chi phí ngắn hạn
- Giảm thiểu trùng lặp trong mạng lưới phân phối
- Tiết kiệm chi phí hoạt động
- Tiết kiệm chi phí hành chính quản lý
 Tận dụng quy mô dài hạn
- Tối ưu hóa kết quả đầu tư công nghệ
- Tận dụng kinh nghiệm thành công của các bên
- Giảm thiểu chi phí chung cho từng đơn vị sản phẩm
- Giảm thiểu chi phí khi mua với khối lượng lớn
1.3 Các vấn đề phải giải quyêt sau khi thực hiện mua bán sáp nhập


Vấn đề lớn nhất sau khi M&A là làm
sao để các doanh nghiệp riêng lẻ với
những đặc điểm, văn hóa kinh doanh
khác nhau cùng hòa hợp để hướng tới
những lợi ích mục tiêu đã xác định
trước. Do đó, hậu M&A doanh nghiệp
cần giải quyết những vấn đề quan trọng
như: Tài chính, Chiến lược kinh
doanh, Mô hình tổ chức, Quản trị rủi
ro, Nhân lực, Công nghệ thông tin.

Trang 5


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
Sẽ có rất nhiều đụng chạm giữa các vị quản lý và nhân viên các bên, giữa quyền lợi
riêng từ từng cá nhân, giữa những thị phần và thương hiệu đối chọi. Nếu không khéo
giải quyết, công ty sẽ mất rất nhiều thì giờ cũng như nhân lực, đồng nghĩa với việc
mất doanh thu và lợi nhuận.
1.4 Hoạt động M&A trong lĩnh vực Ngân hàng
1.4.1 Hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở các nước phát triển

Các ngân hàng ở những quốc gia này đã phát triển đến mức bão hòa với qui luật
lợi nhuận giảm dần nên doanh thu, lợi nhuận cũng giảm do đó chúng đã sáp nhập, hợp
nhất và mua lại lẫn nhau nhằm cắt giảm chi phí, mở rộng mạng lưới hoạt động, bổ
sung, đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường qui mô kinh doanh cũng như lợi thế cạnh
tranh đáp ứng với xu thế phát triển của nền kinh tế khu vực hoá và quốc tế hoá.
Ví dụ, tại Mỹ thời gian qua đã có nhiều cuộc sáp nhập do những lý do như: (1) Các
ngân hàng Mỹ đã cho vay các nước đang phát triển quá nhiều nên nguy cơ thiếu vốn

gia tăng; (2) Sự khác biệt về luật pháp làm cho nguồn dự trữ của hệ thống dự trữ liên
bang không lớn; (3) Mạng lưới chi nhánh của các ngân hàng Mỹ không lớn do các hạn
chế về mở chi nhánh ở các bang khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, tùy thuộc vào qui
mô của các ngân hàng mà lý do sáp nhập cũng khác nhau.
 Đối với các ngân hàng lớn
Lý do quan trọng nhất là cắt giảm chi phí hoạt động và gia tăng qui mô kinh doanh
nhờ việc sáp nhập, hợp nhất sẽ tăng vốn huy động, tăng vốn điều lệ và giới hạn cho
vay từng khách hàng đơn lẻ. Ngoài ra cũng có thể để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ
kinh doanh, tăng uy tín của ngân hàng hoặc tiết kiệm chi phí thành lập chi nhánh.
 Đối với các ngân hàng nhỏ
Các ngân hàng nhỏ sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại cho những ngân hàng lớn vì
thiếu vốn điều lệ theo luật hoặc tránh phá sản hoặc để tối đa hoá lợi ích của các cổ
đông. Ngoài ra, các ngân hàng nhỏ cũng có thể tiến hành sáp nhập, hợp nhất để thành
một ngân hàng lớn hơn.

Trang 6


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
1.4.2 Hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở các nước đang phát triển

Tại các quốc gia đang phát triển hoặc chuyển đổi, hệ thống ngân hàng hầu như còn
rất non trẻ, nên qui mô không lớn, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều, sản phẩm còn
nghèo nàn, luật lệ kinh doanh chưa rõ ràng, đầy đủ nên lý do dẫn đến việc sáp nhập,
hợp nhất các ngân hàng ở các nước chủ yếu là do chính phủ muốn sắp xếp, củng cố hệ
thống ngân hàng nhằm tăng cường qui mô vốn, an toàn trong kinh doanh ngân hàng
như các nước Nga, Bungari, các nước Đông Nam Á sau khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997.
Việt Nam cũng đang tiến hành đồng thời hai cuộc cải cách nhằm thúc đẩy nền kinh
tế phát triển đó là cải cách các doanh nghiệp nhà nước và cải cách hệ thống ngân hàng

với nhiều biện pháp khác nhau. Theo đó, một trong những biện pháp quan trọng là
thực hiện việc M&A đối với các ngân hàng thương mại cổ phần nhằm hình thành
những ngân hàng lớn, đủ sức cạnh tranh trong tương lai, đồng thời tránh sự lập lại của
cuộc đổ bể tín dụng vào những năm 1989-1990.

Trang 7


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ
QUYẾT ĐỊNH HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN,
VIỆT NAM TÍN NGHĨA, ĐỆ NHẤT

2.1 Thực trạng tổ chức hoạt động và yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

Việt Nam
Có thể nói rằng cho đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam đã có sự phát triển trên cả
2 phương diện: số lượng và chất lượng.
 Xét về số lượng:
Từ chỗ chỉ tồn tại hệ thống ngân hàng một cấp (trước nam 1990), cho đến nay, thị
trường tín dụng Việt Nam có sự khởi sắc nhanh chóng, các TCTD đã ra đời ngày càng
nhiều hơn, đa dạng hơn. Đặc biệt, kể từ 1992, khi NHNN ban hành văn bản chấp
thuận sự gia nhập của các văn phòng đại diện nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh vào Việt Nam thì thị
trường tín dụng của Việt Nam thực sự có bước phát triển về chất với sự hiện diện và
hoạt động của hàng loạt các TCTD nước ngoài như ANZ, Citibank hoặc HSBC… lần
lượt đăng kí đặt van phòng đại diện, chi nhánh. Thậm chí, HSBC và ANZ còn thành
lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Đi cùng với sự tăng lên về số lượng, các TCTD
cũng đua nhau mở thêm nhiều Phòng giao dịch, chi nhánh trên toàn quốc nhằm đáp

ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính ngân hàng ngày càng tăng lên của các khách hàng
trong nền kinh tế.
 Xét về mặt chất lượng:
Trước năm 1986, mọi chu chuyển tiền tệ đều thực hiện theo kế hoạch và qua một
ngân hàng duy nhất là NHNN, cho nên không có vấn đề cạnh tranh trong giai đoạn
này. Nhưng kể từ khi chuyển đổi hệ thống ngân hàng gắn với cơ chế thị trường, thì
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và các dịch vụ tài chính – ngân hàng từng bước
được hình thành và ngày càng gia tăng. Đặc biệt, cùng với lộ trình thực hiện các cam
kết mở cửa hội nhập trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, thị trường tín dụng hoạt
Trang 8


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
động ngày càng sôi động, tính chất và mức độ cạnh tranh ngày càng thêm quyết liệt.
Sự cạnh tranh được thể hiện trên các giác độ:
 Cạnh tranh giữa các TCTD với nhau:
Đầu những năm 1990, bốn NHTM Nhà nước chiếm gần như toàn bộ thị trường
tiền gửi và cho vay ờ Việt Nam. Nhưng đến nay theo số liệu của NHNN, hiện cả nước
có 52 NHTM được cấp phép hoạt động và 50 chi nhánh NHTM nước ngoài, đưa tổng
con số lên hơn 100 ngân hàng. Cùng với đó là việc thành lập và hoạt động của hàng
loạt công ty tài chính (17 Cty tài chính, 13 Cty cho thuê tài chính), quỹ tín dụng từ
trung ương tới địa phương (96 QTDND cơ sở, 1 QTDND TW và 23 chi nhánh). Có
thể nói, với thời gian trên 20 năm thực hiện quá trình đổi mới kinh tế, hệ thống ngân
hàng và định chế phi ngân hàng đã có sự phát triển vượt bậc, đóng góp vai trò to lớn
đối với những thành tựu về kinh tế - xã hội nước ta trong những năm qua. Do số lượng
các TCTD tăng lên quá nhanh trong thời gian qua, nên tính chất và mức độ cạnh tranh
giữa các TCTD cũng ngày càng thêm gay gắt.
 Cạnh tranh giữa các TCTD với các định chế tài chính khác:
Từ 1992 trở về trước, cả nước chỉ có 2 Cty tài chính, 2 Cty bảo hiểm. Đến năm
2001, đã có 7 Cty tài chính, 8 Cty cho thuê tài chính, 18 Cty bảo hiểm, 8 Cty chứng

khoán. Ngoài ra, còn có các Cty đầu tư, quỹ đầu tư, quỹ tiết kiệm bưu điện. Số lượng
các định chế tài chính phi ngân hàng hoạt động trên thị trường Việt Nam thường
xuyên thay đổi theo thời gian và đã có sự tăng lên đáng kể so với đầu năm 2000. Tính
đến nay, tại Việt Nam, có sự hiện diện của 17 Cty tài chính, 13 Cty cho thuê tài chính,
105 Cty chứng khoán, 78 Cty môi giới chứng khoán, 2 Cty bảo hiểm nhà nước, 16
CTCP Bảo hiểm, 3 Cty liên doanh Bảo Hiểm, 17 Cty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài,
1 CTCP tái bảo hiểm quốc gia, 10 Cty môi giới bảo hiểm. Các định chế tài chính này
đã và đang có sự cạnh tranh khá quyết liệt với các NHTM trong một số lĩnh vực dịch
vụ ngân hàng truyền thống. Một thực tế là sự cạnh tranh giữa các định chế tài chính
trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay diễn ra rất quyết liệt khiến môi trường tín
dụng trong nhiều giai đoạn rất bất ổn. Hơn nữa, xét về nguyên lý thì sự cạnh tranh sẽ
có tác dụng giảm dần chi phí về vốn. Nhưng thực tế tại Việt Nam những năm qua

Trang 9


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
hoàn toàn ngược lại – sự cạnh tranh thái quá làm lãi suất huy động vốn và cho vay đều
tăng lên.
Sự cạnh tranh quyết liệt cũng đang thúc đẩy các NHTM Việt Nam không thực sự
chú trong chất lượng trong kinh doanh. Điều này được thể hiện trên một số góc độ
sau đây:
Thứ nhất, mức độ đa dạng hóa các loại hình dịch vụ không cao, chủ yếu tập
trung vào cung ứng các dịch vụ ngân hàng truyền thống là huy động vốn, cho vay và
thanh toán, các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ mới tiện ích khó triển khai.
Điều này xuất phát từ lý do khách quan là trinh độ phát triển của kinh tế Việt Nam
chưa cao, nền tảng hạ tầng kỹ thuật chung chưa cho pháp các ngân hàng thương mại
triển khai các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Hơn nữa, một bộ phận không nhỏ
khách hàng trong nền kinh tế chưa có nhận thức đúng về vai trò và vị trí của các dịch
vụ ngân hàng mới nên các dịch vụ NHTM mới sẽ khó triển khai. Nhưng chủ yếu lý do

vẫn thuộc về các yếu tố chủ quan chính của các NHTM. Thực tế là việc triển khai các
loại hình dịch vụ mới đòi hỏi điều kiện về hạ tầng kỹ thuật công nghệ ở mức tương
thích, nhưng để có thể triển khai được các kỹ thuật công nghệ hiện đại luôn đòi hỏi chi
phí cao. Trong khi năng lực tài chính của hầu hết các NHTM còn rất thấp. Thực tế cho
đến cuối năm 2010, còn có tới 9 NHTM có vốn điều lệ chưa đủ 3000 tỷ VND ( thậm
chí có ngân hàng vốn điều lệ chỉ có khoảng 1000 tỷ đồng, tức là chưa tới 50 triệu
USD). Ngoài ra, theo số liệu thu thập được, có 13 ngân hàng khác có mức vốn điều lệ
dưới 4500 tỷ đồng. Với mức vốn điều lệ như vậy thì có khá nhiều NHTM không thể
triển khai một cách bài bản các kỹ thuật công nghệ và điều này cũng có nghĩa là hầu
hết các NHTM Việt Nam rất khó khăn trong việc đa dạng hóa loại hình dịch vụ trong
kinh doanh. Ngoài yếu tố kỹ thuật công nghệ thì cũng không đề cập đến yếu tố về chất
lượng nguồn ngân lực của các NHTM do kinh doanh ngân hàng là kinh doanh trên cơ
sở chấp nhận rủi ro, nhưng suy cho cùng thì rủi ro đều xuất phát từ yếu tố con người,
nên để giảm rủi ro thì chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống ngân hàng luôn phải
được đặt ra một cách cấp thiết. Thực tế thì chất lượng nguồn nhân lực ở không ít các
NHTM Việt Nam chưa thực sự tương thích với việc triển khai các loại hình dịch vụ
mới, tuy có nhiều tiện ích nhưng tiềm ẩn rủi ro rất cao. Hơn nữa, Bản thân nhiều loại

Trang 10


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
hình dịch vụ lại dựa trên cơ sở chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM rất cao, ví
du như dịch vụ về mội giới hay tư vấn… Ro ràng là không ít các NHTM Việt Nam
chưa có sự chuẩn bị tốt cho vấn đề này.
Thứ hai, Hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao, đặc biệt là hoạt động tín
dụng. Hầu hết các NHTM tập trung vào lĩnh vực tín dụng, thể hiện ở tốc độ tăng
trưởng tín dụng khá cao (thường ở mức độ trên dưới 30%). Các tư liệu công bố gần
đây cho thấy, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế khoảng 125 tỷ USD, tương đương 120%
GDP. Đây được xem là dư nợ cho vay quá cao trong khi các nước đều dưới 100%

(Thái Lan 100%, Hàn Quốc 80%...). Dư nợ tín dụng cao trong khi chất lượng tín dụng
lại thấp. Hiện không có ít ý kiến cho rằng, NHTM Việt Nam đang thực hiện các hoạt
động đầu cơ có độ rủi ro cao:
(i) Theo các tư liệu thống kê đã công bố cho thấy một số NHTM nhỏ cho vay lĩnh
vực bất động sản quá cao (thậm chí chiếm tới xấp xĩ 50% tổng dư nợ tín dụng).
Các NHTM khác cũng đang tồn một tỷ trong không nhỏ cho khoản vay Bất động
sản dưới các hình thức tài sản thế chấp. Hiện nay, do thị trường BĐS sản trầm
lắng nên nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của một bộ phận không nhỏ NHTM là có thực khi
trót cho vay quá lớn vào lĩnh vực BĐS.
(ii) Có một số ý kiến cho rằng, một số NHTM không chỉ cho vay các đối tượng thực
hiện hoạt động đầu cơ vàng, ngoại tệ mà còn trực tiếp đầu cơ vàng, ngoại tệ với
rủi ro tiềm ẩn lớn đồng thời gây rối loạn thị trường, khó kha8nc ho NHNN trong
điều hành thị trường tiền tệ.
(iii) Trong hoạt động cho vay, các NHTM chưa thực sự chú trọng công tác lựa chọn
khách hàng nên chất lượng tín dụng chưa cao, rủi ro tiềm ẩn lớn. Mặt khác, do lãi
suất cho vay khá cao vượt quá sức chịu đựng của hầu hết các doanh nghiệp, tổ
chức kinh doanh, nên vốn thường không đến đúng các địa chỉ cần thiết (thường là
đổ vào các thị trường BĐS, vàng, ngoại tệ…) làm giảm hiệu quả nguồn vốn trong
nền kinh tế.
Sự cạnh tranh lành mạnh là cần thiết trong nền kinh tế thị trường, song cạnh tranh ở
các TCTD Việt Nam như thời gian qua là điều không mong đợi của các nhà chức trách

Trang 11


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
tiền tệ. Sự cạnh tranh như vậy dẫn đến mội trường kinh doanh chung trở nên bất ổn,
khó kiểm soát.
Về nguyên tắc, các ngân hàng trung gian, trong đó quan trong nhất là các NHTM,
chính là các trung gian truyền tải của các thông điệp chính sách của NHNN đối với

nền kinh tế. Sự hoạt động của các NHTM càng lành mạnh và hiệu quả thì tác động
của các chính sách càng minh bạch và chính xác. Ngược lại, nếu như hoạt động của hệ
thống ngân hàng càng kém lành mạnh và hiệu quả thì tác động của các chính sách
truyền tải càng kém hiệu quả, thậm chí còn gây phản tác dụng.. Thực tế tại Việt Nam
trong những năm qua cho thấy, mọi nhu cầu về dịch vụ tài chính – ngân hàng hầu như
tập trung vào các NHTM. Bản thân các NHTM hoạt động lại kém, năng lực quản trị
điều hành còn nhiều bất cập trong khi quy mô hoạt động tăng rất nhanh cả về phạm vi
và địa bàn (các chi nhánh, Phòng giao dịch) cũng như giá trị giao dịch (chủ yếu tăng
trưởng dư nợ tín dụng). Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân
hàng trong những năm qua, ít nhiều đã làm giảm tác dụng truyền dẫn các thông điệp
chính sách từ NHNN đối với nền kinh tế. Thậm chí không ít ngân hàng còn thường
xuyên tìm cách lách luật, không tuân thủ các quan điểm, định hướng chính sách mà
NHNN đưa ra, mà vấn đề điều hành chính sách lãi suất hay tỷ giá thời gian qua là
minh chứng rõ nhất cho tình hình này.
Từ thực tế đó, đã và đang đặt ra yêu cầu rất cấp thiết phải nhanh chóng cơ cấu
lại sự hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm từng bước làm lành mạnh
hóa hoạt động kinh doanh, làm tròn chức trách của một trung gian tài chính quan
trong bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do đặc điểm của hệ thống ngân
hàng là kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm và có liên quan mật thiết đến hầu hết các
tổ chức cá nhân trong xã hội; hơn nữa sự hoạt động của chúng luôn mang tính chất
quốc tế hóa nên bất cứ một sự cải cách nào đối với hệ thống này đều hết sức thận
trọng. Bởi nếu không cái giá phải trả sẽ rất lớn về cả kinh tế và xã hội.
2.2 Tính đúng đắn khi quyết định hợp nhất 3 ngân hàng SCB, VNTN, FB

Với những phân tích như trên, ta thấy được nhu cầu cấp thiết hiện tại là phải tái cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, việc lựa chọn thời điểm cũng như
cách thức thực hiện như thế nào đóng vai trò cực kì quan trọng trong sự thành công
Trang 12



Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
của mục tiêu, đặc biệt là đối với lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng. Nhận thức giai
đoạn hiện tại là thời điểm thích hợp để thực hiện, NHNN đã bắt đầu có những hành
động cụ thể khi chính thức thông qua chủ trương hợp nhất 3 ngân hàng bao gồm Ngân
hàng TMCP Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa (VNTN), Ngân hàng Đệ
Nhất (FB). Theo đó Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) sẽ thay mặt
NHNN tham gia toàn diện vào ngân hàng mới sau hợp nhất đảm bảo để ngân hàng sau
hợp nhất không bị phá sản, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền hợp pháp, qua đó ổn
định kinh tế vĩ mô cũng như chính trị xã hội trên địa bàn TP.HCM và cả nước.
Dưới đây, nhóm sẽ tiến hành phân tích tình hình hoạt động của 3 ngân hàng này
trước khi hợp nhất và đưa ra quan điểm của mình về tính đúng đắn trong quyết định
hợp nhất 3 ngân hàng.
2.2.1 Thực trạng 3 ngân hàng trước hợp nhất

 Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Theo báo cáo quý III/2011 được SCB công bố thì đến hết 30/09/2011:
- Tổng tài sản đạt 77.983 tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu của ngân hàng 4.862 tỷ
đồng.
- Vốn điều lệ là 4.184 tỷ đồng và tổng thu nhập lãi thuần của Ngân hàng Sài Gòn là
1.250,7 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế lũy kế quý III/2011 đạt 400,5 tỷ đồng.
- Đáng chú ý khoản nợ Chính phủ và NHNN lên đến 2.156,8 tỷ đồng, trong khi con
số đầu năm chỉ là 717,8 tỷ đồng, tức tăng 300%.
- Dư nợ cho vay đạt 42.171 tỷ đồng chiếm 103% số dư tiền gửi với dự phòng rủi ro
cho vay là 1.163 tỷ đồng - tức chỉ có 2,8% tổng dư nợ.
Đến hết ngày 30/11, đầu tư chứng khoán là 7.907 tỷ đồng chiếm 18,7% dư nợ cho
vay (Theo NQ11, dư nợ phi sản xuất giảm xuống còn 16% đến 31/12/2011), tăng
mạnh so với mức 6.038 tỷ đồng đầu năm. Tuy nhiên trên bảng cân đối thì trích lập dự
phòng vẫn chỉ là 1,89 tỷ đồng.
 Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa


Trang 13


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
Tính đến hết quý III/2011 theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Công ty Kiểm
toán và Dịch vụ tin học Tp HCM:
- Vốn điều lệ của VNTN Bank đạt 3.399 tỷ đồng.
- Tổng tài sản đạt 58.939 tỷ đồng trong đó VCSH của ngân hàng là 4.200 tỷ đồng.
- Lợi nhuận trước thuế là 432 tỷ đồng.
- Tổng thu nhập lãi thuần là 1.111,88 tỷ đồng chiếm gần 100% tổng thu nhập thuần.
(Theo báo cáo kiểm toán 2010, Thu từ lãi thuần là hơn 1000 tỷ đồng nhưng trong
khi đó thu nhập thuần từ dịch vụ chỉ đạt 5 tỷ đồng). Cơ cấu thu nhập cho thấy hoạt
động của ngân hàng chứa đựng rủi ro rất lớn.
Theo báo cáo của ngân hàng, đến hết 30/9/2011 nợ xấu 419 tỷ đồng, trong đó nợ
có khả năng mất vốn lên đến 374 tỷ đồng, chiếm 89,2% nợ dưới chuẩn.
Trong danh mục chứng khoán đầu tư của ngân hàng, khoản đầu tư lớn nhất là
2.200 tỷ đồng vào trái phiếu của Công ty CP Đầu tư Vạn Thịnh Phát với lãi suất
16,2%/năm, thời hạn đáo hạn là 11/09/2015. Lưu ý đây là cổng đông chiến lược có
quyền kiểm soát ngân hàng. Như vậy hoạt động của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào
hoạt động kinh doanh của Công ty này.
Ngoài ra, VNTN là một trong những con nợ khó đòi trên thị trường liên ngân hàng.
Khách hàng gửi tiền chính của VNTN là khách hàng cá nhân chiếm 71% lượng tiền
gửi, khoảng 25.000 tỷ đồng. Đây là nhóm khách hàng khá nhạy cảm với các biến động
thị trường như lãi suất, tỷ giá, giá vàng…đặc biệt là với thói quen đầu tư bầy đàn của
người Việt Nam. Do đó, cơ cấu khách hàng này không đảm bảo nguồn tiền gửi ổn
định và ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.
 Ngân hàng Đệ Nhất
Theo thông tin được đăng tải trên website Ficombank, tính đến 30/09/2011:
- Tổng tài sản đạt 17.104 tỷ đồng, trong đó vốn huy động đạt 8.799 tỷ đồng tăng 238
% so với cuối năm 2010.

- Vốn điều lệ 3000 tỷ đồng.

Trang 14


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
- Dư nợ tín dụng là 3.256 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 219,3 tỷ đồng.
Theo báo cáo thường niên 2010, tỷ lệ nợ xấu của Ficom Bank đến hết 31/12/2010
là 2,2% tổng dư nợ cho vay.
 Nhận xét:
Từ những thông tin có được ta thấy cả 3 ngân hàng này đang gặp phải các vấn đề
như sau:
- Tỷ trọng dư nợ trên số dư tiền gửi cao cũng như cơ cấu vốn huy động không bền
vững gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản.
- Duy trì thanh khoản tạm thời bằng vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng, đặc
biệt là SCB.
- Tỷ lệ nợ xấu tăng cao, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn nhưng trích dự phòng rủi
ro tín dụng lại quá thấp.
- Dư nợ phi sản xuất cao, đặc biệt là đầu tư chứng khoán và bất động sản. Ngoài ra
việc đầu tư này cũng có sự không minh bạch và rủi ro lớn khi đầu tư vào công ty là
cổ đông nắm quyền kiểm soát ngân hàng.
2.2.2 Xét tính đúng đắn trong quyết định hợp nhất

Để xem xét tính đúng đắn của thương vụ hợp nhất này, chúng ta cùng nhìn lại các
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bán sáp nhập như sau:

Trang 15


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng


 Xét các yếu tô nội tại:
- Ba ngân hàng này trên thực tế đều cùng có một chủ nhân thực sự đứng sau là công
ty TNHH Vạn Thịnh Phát và nhóm các công ty thành viên liên kết chuyên hoạt
động trong lĩnh vực bất động sản. Điều này dẫn đến nhiều vấn đề hệ lụy như (i) sự
không minh bạch trong hoạt động giữa các ngân hàng làm giảm hiệu quả của công
tác quản trị cũng như gây nên bất ổn trong hệ thống tiền tệ ngân hàng; (ii) ảnh
hưởng đến khả năng quản lý nguồn vốn của chủ sở hữu khi vốn bị phân tán quá
nhiều với các ngân hàng có bộ mày tổ chức ngày càng cồng kềnh. Đây là nguyên
nhân cốt lõi dẫn đến sự yếu kém trong hoạt động của 3 ngân hàng này cũng như
của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Do đó, cần tiến hành tập trung vốn để nâng cao
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này cũng như tạo điều kiện cho NHNN ổn
định kinh tế vĩ mô.
- Như hệ quả của việc sở hữu chéo, hiện tại các ngân hàng này, theo phân tích ở trên,
đang trong tình trạng thanh khoản kém, rủi ro tín dụng tăng cao…nên cần có những
thay đổi kỳ vọng mang lại tác động tích cực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh,
tạo ra giá trị tăng thêm từ việc hợp nhất: (i) nâng cao hiệu quả quản lý khi vốn được
tập trung; (ii) tận dụng được những yếu tố vốn có của 3 ngân hàng như tăng vốn
điều lệ lên 10.000 tỷ củng cố vấn đề thanh khoản, mạng lưới PGD rộng khắp…

Trang 16


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
 Xét yếu tố bên ngoài:
- Điều kiện kinh tế nhiều biến động (do ảnh hưởng của thiên tai, kinh tế thế giới…)
đòi hỏi NHNN phải có những động thái ổn định kinh tế vĩ mô trong đó hoạt động
ngân hàng đóng vai trò là công cụ hỗ trợ NHNN thực hiện các chính sách tiền tệ.
Để thực hiện được mục tiêu trên, NHNN cần đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt
động ổn định. Hợp nhất 3 ngân hàng là việc làm của NHNN được kỳ vọng sẽ động

thái tiên phong trong Chương trình Tái cơ cấu Hệ thống ngân hàng mang lại hiệu
quả tích cực.
- Khung pháp lý đối với việc mua bán sáp nhập đã hình thành và đang dần hoàn
thiện. Bên cạnh đó, Thương vụ hợp nhất này được NHNN khuyến khích và hỗ trợ
trong chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nên sẽ không gặp nhiều cản trở
về pháp lý trong quá trình thực hiện.
- Xu thế toàn cầu hóa cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ
vừa tạo ra thời cơ cũng như thách thức với các ngân hàng Việt Nam. Thời cơ khi cơ
hội được giao lưu công nghệ và kinh nghiệm quản lý tăng lên nhưng đồng thời
cũng tồn tại thách thức khi các NH nước ngoài ngày càng lớn mạnh và cạnh tranh
hiệu quả với các NH trong nước. Do đó, hợp nhất 3 ngân hàng được kỳ vọng sẽ tạo
ra điều kiện thuận lợi để ngân hàng hình thành sau hợp nhất có đủ tiềm lực khai
thác hiệu quả các cơ hội để có thể đương đầu với các thách thức trên nền tảng phát
triển bền vững.
Như vậy, theo nhóm hợp nhất 3 ngân hàng là quyết định đúng đắn khi xét trong bối
cảnh kinh tế cũng như tình hình nội tại các ngân hàng trong giai đoan hiện nay. Nếu
thương vụ này thực hiện thành công sẽ là sự bắt đầu thuận lợi cho NHNN trong mục
tiêu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

Trang 17


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
CHƯƠNG III:

CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH KHI HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG
3.1 Tài chính:
- Yếu tố thanh khoản:
Theo phân tích tình hình trước hợp nhất, cả 3 ngân hàng đang gặp khó khăn nghiệm
trọng về vấn đề đảm bảo thanh khoản. Mặc dù, NHNN cam kết sẽ hỗ trợ thanh

khoản trong thời gian đầu sau hợp nhất nhưng động thái này chỉ có thể giải quyết
thanh khoản tạm thời. Trong khi đó, với cơ cấu tài sản rủi ro cao (chủ yếu là dư nợ
phi sản suất, lại phụ thuộc nhiều vào nguồn huy động ngắn hạn…), rủi ro thanh
khoản vẫn luôn tiềm ẩn và đòi hỏi ngân hàng hợp nhất cần tự thay đổi tích cực để
đảm bảo thanh khoản trong dài hạn.
- Nợ xấu:
 Quy trình và cách thức phân loại nợ xấu ở từng ngân hàng ban đầu khác nhau (Ví
dụ: Bộ tiêu chuẩn xếp hạng tín dụng, Quy trình đánh giá chất lượng tín dụng, quy
trình thẩm định tài sản đảm bảo, phương án trích lập dự phòng rủi ro…). Do đó,
chất lượng tín dụng của ngân hàng hợp nhất không đồng nhất, gây khó khăn trong
việc đánh giá, quản lý và giải quyết nợ xấu. Chính vì vậy, ngân hàng hợp nhất phải
ban hành một bộ tiêu chuẩn và quy trình chung nhất để thực hiện đánh giá lại chất
lượng tín dụng. Điều này lại rất tốn chi phí, thời gian và công sức.
 Tỷ lệ nợ xấu cao, trong đó phần lớn là dư nợ phi sản xuất cùng với tình hình bất
động sản đang xấu đi cũng là một bài toán nan giải đối với Ban lãnh đạo Ngân hàng
hợp nhất.
3.2 Bộ máy quản lý & mô hình tổ chức:
- Quy mô vốn tăng lên đòi hỏi phải có một mô hình tổ chức, bộ máy quản lý tương
ứng vì bộ máy quản lý cũ chỉ là những nhóm quản lý một số vốn nhỏ, riêng lẻ và
trở nên không còn phù hợp với quy mô vốn chung mới lớn hơn rất nhiều. Tuy
nhiên, trong những ngày đầu hợp nhất, bộ máy quản lý dường quá cồng kềnh vì hầu
như cấp quản lý của cả 3 ngân hàng đều được tiếp tục bổ nhiệm, lập ra thêm nhiều
Trang 18


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
phòng ban mới để bố trí các chức danh quản lý, tạo ra sự chồng chéo trong quyền
hạn, chức năng của các phòng ban.
- Hệ thống các điểm giao dịch của 3 ngân hàng tập trung nhiều ở Hà Nội & Sài Gòn
và ít ở các tỉnh thành khác dẫn đến dư thừa, cạnh tranh lẫn nhau trong nội bộ ở 2

khu vực này nhưng không tạo được giá trị bổ sung ở các tỉnh thành khác. Vì vậy
phải nghiên cứu, tiến hành thanh lọc mạng lưới ở những nơi dư thừa và mở các
phòng giao dịch ở những nơi tiềm năng để bố trí nhân sự.
- Mâu thuẫn nội bội về trách nhiệm, quyền hạn và chức vụ xảy ra giữa các bộ máy
quản lý của các ngân hàng cũ. Do đó việc phân chia, giải quyết trong nội bộ rất
phức tạp.
3.3 Chiến lược kinh doanh
Ngân hàng sau hợp nhất có quy mô vốn điều lệ, tổng tài sản khá lớn. Do đó, chiến
lược kinh doanh cũng cần có sự thay đổi tương ứng để phát huy lợi thế từ quy mô.
Theo đó, họ cần chuyển từ các mục tiêu và kế hoạch ngắn hạn, cục bộ như hiện tại
sang chiến lược phát triển bền vững trong dài hạn như:
- Hạn chế thu hút khách hàng bằng lãi suất, khuyến mãi mà giữ khách hàng thông
qua tập trung phát triển các dịch vụ tiện ích ngân hàng;
- Chuyển dịch dần cơ cấu thu nhập theo hướng tăng thu dịch vụ và giảm thu từ lãi;
- Giảm dần tỷ trọng dư nợ phi sản xuất đặc biệt là bất động sản…
3.4 Nhân sự
- Cùng với vấn đề dư thừa và phân bổ lại mạng lưới giao dịch, vấn đề giải quyết lực
lượng nhân sự dư thừa hiện tại sao cho vừa đảm bảo lợi ích người lao động và vừa
không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng đang là bài toán
khó giải quyết.
- Giữa các ngân hàng có sự khác nhau về mức lương và cách thức trả lương do đó
cần xây dựng lại quy chế lương thống nhất.

Trang 19


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng
- Trình độ nhân sự có sự khác biệt giữa các ngân hàng cũng như chưa đáp ứng được
yêu cầu năng lực của mô hình tổ chức mới (tăng gấp 3 về vốn, công nghệ, quy mô
mạng lưới…)

- Đối với mỗi doanh nghiệp mới thành lập, việc xây dựng được một văn hóa kinh
doanh lành mạnh, đem lại hiệu quả kinh doanh cao đã rất khó. Còn trong trường
hợp các doanh nghiệp hợp nhất lại càng khó hơn rất nhiều khi việc hình thành văn
hóa doanh nghiệp hợp nhất phải là sự thống nhất những giá trị cũ được thừa nhận
trên cơ sở loại bỏ dần những giá trị không còn phù hợp, đồng thời tiến tới hình
thành các giá trị chung, hòa hợp và dung nạp những khác biệt để tương thích với sự
thay đổi trong các danh mục kinh doanh. Điều này rất khó thực hiện trong thời gian
ngắn khi những vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ vẫn chưa giải quyết xong.
3.5 Quản trị rủi ro:
Với các phân tích trong Chương II, ta thấy thực trạng 3 ngân hàng đang tồn tại
những vấn đề như sau:
- Tỷ trọng dư nợ trên số dư tiền gửi cao cũng như cơ cấu vốn huy động không bền
vững gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản.
- Duy trì thanh khoản tạm thời bằng vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng, đặc
biệt là SCB.
- Tỷ lệ nợ xấu tăng cao, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn nhưng trích dự phòng rủi
ro tín dụng lại quá thấp.
- Dư nợ phi sản xuất cao, đặc biệt là đầu tư chứng khoán và bất động sản. Ngoài ra
việc đầu tư này cũng có sự không minh bạch và rủi ro lớn khi đầu tư chủ yếu vào
công ty là cổ đông nắm quyền kiểm soát ngân hàng.
Như vậy, các ngân hàng này đang ngày càng phụ thuộc nhiều vào các nguồn vốn
ngắn hạn có độ nhạy cảm cao trước biến động giá cả và các nguồn vốn liên ngân hàng
để hỗ trợ tăng trưởng làm gia tăng những rủi ro về thanh khoản. Rủi ro này lại xuất
hiện bên cạnh những rủi ro đến từ tốc độ tăng trưởng tín dụng cao và những vấn đề về
chất lượng tài sản… làm gia tăng lo ngại về mức độ an toàn vốn.
3.6 Công nghệ thông tin:
Trang 20


Đề tài: Vấn đề phát sinh khi hợp nhất các ngân hàng

Ba ngân hàng trước hợp nhất áp dụng các hệ thống core banking khác nhau nên sau
hợp nhất phải áp dụng một hệ thống chung cho toàn ngân hàng mới. Theo đó, có
những vấn đề phát sinh như sau:
- Tốn nhiều thời gian, chi phí lựa chọn hệ thống mới phù hợp cũng như quá trình
chuyển đổi cơ sở dữ liệu, đào tạo nhân sự đáp ứng yêu cầu công nghệ mới, áp dụng
thử nghiệm,...
- Khó khăn trong thống nhất lại và quản lý cơ sở dữ diệu khách hàng. Ví dụ: chữ kí
khác nhau ở mỗi ngân hàng, số cif trùng, biểu mẫu chứng từ kế toán thay đổi, chế
độ lưu trữ chứng từ …

Trang 21



×