Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tài chính tiền tệ (lạm pháp )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.64 KB, 26 trang )

GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Trong nền kinh tế thị trườg hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để
thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường. Các nhà kinh tế cũng như
các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh
tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm
khác trong kinh tế là lạm phát.
Vậy lạm phát là gì? Do đâu mà có lạm phát? Tại sao mọi người quan tâm đến
lạm phát? Với những tầm quan trọng như vậy thì Việt Nam vấn đề lạm phát được
quan tâm như thế nào? Thực trạng lạm phát ở nước ta trong những năm vừa qua ra
sao? Chính phủ đã thực hiện các chính sách tích cực gì để kiểm soát lạm phát?
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, ở nước ta lạm
phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề
của chiến tranh, cơ vấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế
hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế- xã
hội.
Như vậy , lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô, đã trở thành mối
quan tâm lớn của mọi người từ các quan chức cấp cao đến những người dân bình
thường. Việc kiểm sóat lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong các cuộc
tranh luận về chính sách kinh tế -xã hội. Đứng trước nguy cơ tiềm ẩn lạm phát, việc
nghiên cứu các vấn đề chống lạm phát ở nước ta là vô cùng cần thiết.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 1



GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT
Khái niệm lạm phát:

1.1

Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung của nền kinh tế trong một thời hạn
nhất định. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt hàng kia
giảm, và giá các mặt hàng khác không thay đổi. Nhưng nếu mức giá chung tăng
lên, ta có lạm phát.
Ngược lại, nếu mức giá chung giảm xuống, ta có giảm phát.
Lạm phát có thể được đo lường bằng nhiều cách khác nhau.
Để tính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá. Chỉ số giá thường
được sử dụng là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ngoài ra, người ta còn sử dụng những
chỉ số giá khác như: chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số giảm lạm phát GNP.
Ở nước ta, cách phổ biến cho đến nay là chỉ số giá tiêu dùng (CPI),
1.2

Phân loại lạm phát :
Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia làm ba loại lạm phát khác nhau.

a. Lạm phát vừa phải :
Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm ở mức một con số hay dưới
10% một năm. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ
bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút do vậy đồng tiền bị mất giá
không lớn, điều kiện kinh doanh tương đối ổn định. Tác hại của lạm phát ở đây là
không đáng kể.

b. Lạm phát phi mã :
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số như
20%, 100% hoặc 200%... một năm. Khi loại lạm phát này kéo dài sẽ nảy sinh
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 2


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

những diễn biến nghiêm trọng cho nền kinh tế. Đồng tiền mất giá nhanh chóng, lãi
suất thực tế giảm xuống dưới 0 ( có nơi lãi suất thực tế giảm xuống tới -50% hoặc
-100% ). Nhân dân nên tránh giữ nhiều tiền mặt mà tích trữ hàng tiêu dùng.
c. Siêu lạm phát :
Tình trạng lạm phát mà giá cả tăng vọt rất nhanh với tỷ lệ 10 lần thậm chí 100
lần chỉ trong 1 tháng, là loại lạm phát với giá cả tăng lên với 5 con số. Nếu trong
lạm phát phi mã, nền kinh tế có vẻ còn sống sót được thì trong siêu lạm phát, nền
kinh tế xem như đang đi dần vào cõi chết. Siêu lạm phát gây hậu quả hết sức
nghiêm trọng về các mặt kinh tế, xã hội và chính trị. Loại lạm phát này rất ít khi
xảy ra. Trên thế giới lần đầu tiên xảy ra tình trạng này ở Đức đầu những năm
1920 , từ tháng 1/1922 đến tháng 11/1923 chỉ số giá cả tăng lên 10 triệu lần & ở
Trung Quốc vào thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai.
1.3

Nguyên nhân lạm phát bùng nổ tại Việt Nam:
Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát:


lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí
đẩy.
Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007, với
việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước
ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín
dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%.
Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong
các năm trước đã tạo nên hiện tượng
tích phát tác động đến năm 2007 và có
thể cả những năm sau.
Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao
gồm đầu tư công và đầu tư của các
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 3


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ
tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước
ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm
xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất
của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới
tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007

tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất
khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch
bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy
giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các
sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây
tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập
khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường
trong nước.
1.4

Tác động của lạm phát :
Do có ba mức lạm phát khác nhau, nên tác động của mỗi loại đối với nền kinh

tế cũng khác nhau. Loại lạm phát vừa phải không có tác động lớn đến nền kinh tế.
Lạm phát phi mã và siêu lạm phát tác động lớn đến nền kinh tế ở hai mặt sau:
a. Tác động đến sự phân phối lại thu nhập và của cải :
Tác động này phát sinh từ những sự khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần
của nhân dân. Lạm phát làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, trước hết là người
sống bằng tiền lương do tiền lương thực tế giảm nghiêm trọng. Dẫn đến số người
nghèo khổ tăng lên, và tệ nạn xã hội sẽ nảy sinh. Còn những người có nhiều tài sản
cố định có giá trị cao và những người mắc nợ ngân hàng với lãi suất cố định thì tự
nhiên được hưởng lợi.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 4



GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Những người cho vay hoặc có tài sản bằng những đồ cầm cố hoặc trái phiếu
dài hạn đều ở trong tình thế bất lợi. Những người đi vay hoặc đi cầm cố, trước đây
nhận tiền có giá, bây giờ mang tiền mất giá đến trả nợ và lấy lại tài sản đã cầm cố.
Nói tóm lại, trong thời kỳ này, người gửi tiền tiết kiệm là bị thiệt hại nhiều nhất.
b. Tác động đến giá cả, sản lượng, việc làm :
Lạm phát kéo dài làm cho lượng tiền cung ứng tăng liên tục , tổng cung tiền tệ
tăng nhanh hơn tổng cầu tiền tệ, lượng tiền danh nghĩa tăng, lãi suất danh nghĩa
tăng, sức mua đồng tiền giảm sút, các dòng vận động tiền tệ sẽ rối loạn. Uy tín
đồng tiền giảm và người ta không muốn giữ tiền, đua nhau mua bất động sản,mua
ngoại tệ, mua vàng… làm cho các thị trường này càng biến động. Bên cạnh đó thì
giá cả mọi thứ hàng hoá lại lên cao, tăng nhanh nhất là giá cả các mặt hàng thiết
yếu cho tiêu dùng và cho sản xuất rồi mới đến các mặt hàng khác.
Lạm phát làm cho xuất khẩu sẽ giảm sút, nhập khẩu sẽ tăng lên. Giá hàng
nhập ngày một cao. Cán cân ngoại thương sẽ rơi vào nhập siêu.
Lạm phát cao kéo dài làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản hoặc sản
xuất cầm chừng. Kinh doanh không tính toán được lỗ lãi, không ai dám bỏ vốn
vào đầu tư vì chưa biết tương lai như thế nào, sợ mất vốn. Làm cho một bộ phận
công nhân viên chức mất việc làm, số lượng thất nghiệp tăng lên.Những người bị
lạm phát làm thiệt hại nhiều nhất là những người hưởng lương hưu, hưởng bảo
hiểm xã hội, hưởng trợ cấp xã hội.
Lạm phát khiến cho nền kinh tế khó tăng trưởng, không ổn định. Dẫn tới
những vấn đề kinh tế-xã hội sẽ ngày càng nghiêm trọng, khó giải quyết hơn.

1.5


Lớp :

Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam:

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 5


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá
trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Cúng ta đều biết vấn đề quan trọng là
kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có
những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông
qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết
mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định
chính sách cũng rất quan trọng.
Về chính sách tài khoá : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải
kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt
biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của
Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 6



GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ

2.1

Nguyên nhân gây ra lạm phát:
2.1.1 Giai đoạn 1986- 1993 :
Kinh tế Việt Nam từ những năm 1986 đến nay đã trải qua sự biến đổi sâu sắc :

từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, từ tăng trưởng thấp những năm 80 sang tăng trưởng cao những năm 90,
khủng hoảng rối loạn sang ổn định và phát triển.
Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp
đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài
và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn. Do đó, nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu
hoả, máy móc thiết bị....Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí
sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra.
Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó
khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh,
Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế
lại dẫn đến lạm phát tiền tệ , điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao.
Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền
mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó.
Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số 775% vào
năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%.

Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu
năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy
lại tiếp diễn. Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá , lương thực,
vàng và đô la càng nhiều vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 7


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%,
mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với
mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình
hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.
Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó
là do tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau
đó lạm phát cầu kéo xảy ra.
Năm

1986

1987

1988


1989

1990

1991

1992

Tăng trưởng(%) 2,33

3,78

5,1

8

0,1

6

8,6

Lạm phát(%)

223,1

394

34,7


67,4

67,6

17,6

748

Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1992
2.1.2 Giai đoạn 1994-1998:
Vào năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến
bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đến năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên
mức 14,4%.
Trước hết , lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng
với việc đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các
hãng nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước , do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho
giá USD tăng, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10.600 đồng/1USD vào năm
1993 đến 11.050đồng/1USD năm 1995. Điều này tác động làm cán cân thương
mại được cải thiện , do đó, tổng cầu trong nền kinh tế tăng.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 8


GVHD:


Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi
thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là: cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với
các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượng bộ đội
chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên chức do
một số cơ quan nhà nước đóng cửa vì không thể thích ứng được với cơ chế thị
trưòng. Đồng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh.
Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây dựng
cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển. Tất cả những điều này
đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao. Lạm phát thời kỳ này xảy ra còn
do chi phí đẩy : vào thời kỳ này, giá cả số mặt hàng được điều chỉnh như giá xi
măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, cung giảm, đẩy giá
cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí đẩy.
2.1.3 Giai đoạn 1999-2001:
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Ábắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm
cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên
tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản
xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, tỉ lệ thất nghiệp
gia tăng ... Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng
giảm phát.
- Giá cả thị trường có xu hướng giảm
+ Năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục
giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI
giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999
sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998, sự sụt giảm giá lương thực làm cho
CPI chung hầu như không tăng
+ Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999.
Lớp :


Thực hiện : Nhóm 9

Trang 9


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

+ Sáu tháng đầu năm 2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so
với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp, tháng 3 giảm 0,7%,
tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều
nỗ lực ,chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%.
- Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm
và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước :
+ Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên
tới 60.000 tỷ đồng.
+ Tỉ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh
là 7,04%...
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm : từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là
9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,8% năm 1998, 4,8% năm 1999 và 6,75%
năm 2000.
+ Giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu,
hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng tới sức mua hàng công
nghiệp. Từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001 chỉ số giá lương thực liên tục
giảm : năm 1999 giảm 7,8%, năm 2000 giảm 7,9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm
5,7%. Giá những hàng hoá trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó
còn gián tiếp làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hoá và dịch vụ khác
giảm theo

+ Nhìn chung hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành
cao nên không có điều kiện cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng
nhập khẩu trốn lậu thuế, do đó giá cả hàng hoá công nghiệp và dịch vụ đang có xu
hướng giảm giá để có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 10


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

+ Cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp là
không hợp lý, theo đó là sức mua của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước
không tăng lên được .
+ Tình trạng vốn ứ đọng ở các ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn
bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá hạn ở các ngân hàng lớn.
+ Đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tốc độ giảm trung bình khoảng 24%
năm trong giai đoạn 1997-2000
+ Tỉ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á .
+ Trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đối tác thương mại
trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàng trong nước đắt hơn hàng
ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranh không thuận lợi so với bên ngoài.
+ Hậu quả của hiệu ứng lây lan do suy thoái và giảm phát khu vực.
+ Sự chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách vĩ mô của Chính phủ , làm

cho nước ta đạt được ít kết quả trong cạnh tranh. Vai trò điều tiết của nhà nước còn
rất nhiều hạn chế.
2.1.4 Giai đoạn 2002 đến nay:
Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta
vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu
vực Châu Á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết
đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6
tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là
4%.
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 11


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm
2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009 tăng 6,52%.
Năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 sau 8 tháng đã tăng 15,68% (nếu tính theo
năm thì tháng 8/2011 so với cùng kỳ năm trước đã tăng tới 23,02%). Dự báo cả
năm phải phấn đấu tích cực mới ở mức 18% (nếu theo “quy luật” trong mấy năm
qua thì khả năng năm 2012 sẽ tăng thấp hơn và từ đó có thể nhận thấy việc Chính
phủ đưa ra chỉ tiêu dưới 10% của năm 2012 là có tính khả thi).
+ Lạm phát 4 tháng đầu năm nay ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với các
nước khác trong khu vực.

Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung Quốc là 5,4% so với cùng kỳ năm
ngoái; còn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia có thể tăng lên 7,1%, ở Phillipine
là 4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8% so với cùng kỳ năm
ngoái.Lạm phát cao, kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây nhiều tác động tiêu
cực đến sản xuất và đời sống của người dân
+ Chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam
trong quý I/2011 đã giảm đáng kể.
+ Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động
không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống.
Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người
lao động mất hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn
nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ,
làm xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức độ
ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó vừa
gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa làm xói mòn
nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 12


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

+ Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi khác
rõ ràng có tác động đến giá cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát cao kéo
dài và sự chênh lệch rất lớn giữa lạm phát ở nước ta và các nước trong khu vực, kể

cả các nước có nền kinh tế mở hơn, chứng tỏ các nguyên nhân chủ quan, bên trong
vẫn là chủ yếu.
+ Nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm phát hiện
nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt
được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn
dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư
nhà nước.
+ Tuy mô hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa
vào đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để
đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng
phương tiện thanh toán, thâm hụt tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán
gia tăng… tất cả những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát
của chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các
nước.
2.2

Các biện pháp kiểm soát lạm phát :
2.2.1 Giai đoạn 1986- 1993:
Theo Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-

1992 trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những
bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số,
đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm
xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp
tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế .
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9


Trang 13


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

a. Chính sách tiền tệ :
+ Chính sách về lãi suất:
Thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa-tỉ
lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi
lượng tiền trong lưu thông về.
Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần
la cho vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6% năm;
1,4% xuống 0,9% rồi 0,85% tháng.
+ Chính sách về tỉ giá hối đoái:
NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp
với nhu cầu của thị trường. Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế
toán chứ không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế. Việc áp dụng tỉ giá hối
đoái thực tế đã làm cho người dân không còn tích trữ hàng hoá, vàng, đô la mà bắt
đầu tích luỹ bằng đồng nội tệ.
Từ năm 1990, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính
sách tiền tệ . Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với
múc tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát .
b. Chính sách tài chính:
+ Giảm chi tiêu của Chính phủ :
Các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn không hiệu quả bị giải thể. Kết quả là
chi tiêu của Chính phủ đã giảm nhiều, tổng cầu giảm, giá cả giảm, lạm phát giảm
xuống.
+ Giảm lượng tiền cung ứng cho thâm hụt ngân sách:

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 14


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành
trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm
xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm
1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%.
2.2.2 Giai đoạn 1994-1998:
Trong giai đoạn này, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để nhằm kiềm
chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền tệ . Cụ thể
NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây:
+ NHNN đã bán trái phiếu, tín phiếu gần 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3 tháng mà
người mua là các ngân hàng thương mại (NHTM) đồng thời cũng để khuyến khích
các NHTM tích cực huy động vốn.
+ NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụng tái cấp vốn
đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối với nền kinh tế .
+ Buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995 quy
định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài
khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại tiền
gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tièn gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại NHNN
và các TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc tại NHNN
theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp hành theo

quy định này.
+ Tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung ứng tiền
phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ ổn định, cầu
giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm cho nhiều mặt
hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát .

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 15


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

+ Nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM .Tất cả đều làm
mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng lên, chi tiêu giảm, cầu
giảm , giá cả giảm. Đồng thời NHNN còn áp dụng một số biện pháp khác, nhờ vậy
tốc độ lạm phát đã giảm xuống từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và
3,65 năm 1998.
2.2.3 Giai đoạn 1999-2001:
a. Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư (tăng cầu):
- Chương trình giải quyết việc làm được đẩy mạnh:
Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1,3 triệu người , tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6,5% so với 7,4% năm 1999, sử
dụng lao động ở nông thôn được nâng lên.
- Chương trình xoá đói giảm nghèo được triển khai
- Tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn

- Mở rộng dịch vụ du lịch trong cả nước và nước ngoài, chú trọng đầu tư cơ sở
hạ tầng du lịch
- Tăng lương cho các cán bộ công nhân viên chức
- Thực hiện cấp ưu đãi một lần đối với người có công với cách mạng
+ Năm 2002, tình hình kinh tế của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc , tỉ
lệ tăng trưởng đạt 7,04%, tỉ lệ lạm phát đã tăng lên 4%
b. Những biện pháp tăng cường đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh( tăng mức
cung hàng hoá và dịch vụ ):

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 16


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

+ Sử dụng chính sách tiền tệ :
Năm 1999, NHNN 5 lần điều chỉnh lãi suất cho vay trung và dài hạn từ
1,25%/ tháng xuống còn 0,85% tháng, 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ 1,1%
tháng xuống còn 0,55 tháng, 2 lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ
chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%.
Năm 2000, NHNN bỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ
bản, tạo điều kiện cho cung-cầu về vốn theo cơ chế thị trưòng và các NHTM chủ
động hơn trong kinh doanh.
Lãi xuất tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng liên tục giảm xuống đến mức
thấp nhất từ trước đến nay.

Chính phủ và NHNN ban hành các văn bản nhằm nới lỏng các điều kiện vay
vốn cho khu vực nông thôn. Cùng với việc ngân hàng hạ lãi suất cho vay, thì một
loạt các tỉnh và thành phố dành một phần vốn ngân sách của mình hỗ trợ vay vốn
ngân hàng cho một số dự án, một số doanh nghiệp, một số chương trình kinh tế
trọng điểm của địa phương...
+ Sử dụng chính sách tài chính :
Tập trung huy động và giải ngân vốn, đảm bảo các mức đầu tư đề ra. Trong 3
năm (1998-2000), nhà nước chú trọng đầu tư đúng mức cho khu vực doanh nghiệp
trong đó bổ sung vốn lưu động trên 2000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp nhà nước
làm ăn có hiệu quả, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.
+ Sử dụng chính sách thuế:
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, với thuế suất VAT bằng 0% và hàng hoá
xuất khẩu được hoàn thuế VAT đã nộp, đây thức chất là hình thức trợ giá của nhà
nước đối với hàng hoá xuất khẩu.
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 17


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là 25%
đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng hoá và
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung nếu có giá trị hàng hoá xuất khẩu trên
50%. Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu
cho các doanh nghiệp sản xuất , vận tải, xây dựng mới được thành lập và giảm

50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo.
Những biện pháp trên đây đã góp phần khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng chuyển đổi cơ cấu
kinh tế có lợi cho quốc tế dân sinh, góp phần khôi phục và ổn định kinh tế , kích
thích tiêu dùng.
+ Chính sách khuyến khích đầu tư :
Môi trường đầu tư đã được cải thiện rất nhiều nhờ những chính sách khuyến
khích đầu tư của nhà nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta, trong đó có
luật đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam . Ngoài ra việc cải thiện cơ chế hành chính chồng chéo cũng góp
phần tạo ra một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
2.2.4 Giai đoạn 2002 đến nay:
Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành
và thực thi Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 về kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Hàng loạt các giải pháp cụ thể đã dược các bộ, ngành và địa phương triển khai
thực hiện, như: thắt chặt tín dụng, giảm cung tiền tệ, tăng lãi suất, điều chỉnh tỷ
giá, quản lý chặt chẽ thị trường vàng, quản lý, kiểm soát chặt hoạt động thị trường
ngoại tệ phi chính thức, rà soát, cắt, hoãn, giảm và điều chuyển vốn đầu tư nhà
nước, thực hiện trợ cấp cho các tầng lớp, nhóm dân cư thu nhập thấp, ưu tiên tín
dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nông nghiệp và nông thôn, cho xuất khẩu,
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 18


GVHD:


Môn: Tài Chính Tiền Tệ

lập danh mục hạn chế nhập, giảm nhập khẩu, giảm thâm hụt cán cân thanh
toán,.v.v…

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 19


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA
3.1

Những thành công:
Trong giai đoạn 1986-1993, nhờ những áp dụng các công cụ của chính sách

tiền tệ và chính sách tài chính một cách hợp lý chúng ta đã từ việc không kiểm
soát được siêu lạm phát sang hoàn toàn kiềm chế và kiểm soát được nó. Từ tỉ lệ
siêu lạm phát 775% năm 1986 xuống tỉ lệ lạm phát 5,2% năm 1993 quả là một kỳ
tích, điều đó đã thể hiện chính sách đúng đắn của nhà nước trong việc tìm kiếm
biện pháp kiểm soát lạm phát .
Trong giai đoạn 1994-1998, lạm phát bùng phát trở lại mức 14,4% năm
1994,trước tình hình đó , NHNN đã thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ

nhằm làm giảm mức cung tiền, nhờ đó mà tỉ lệ lạm phát đã giảm , đặc biệt là trong
giai đoạn 1996-1998 các công cụ này phát huy tác dụng, tỉ lệ lạm phát đã giảm từ
12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,6% năm 1998.
Trong giai đoạn 1999-2001 chúng ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, giá cả
liên tục giảm. Do vậy, chúng ta đã thực hiện các chính sách nhằm kích cầu và tăng
mức cung ứng hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Và kết quả đạt được sau khi đã
thực hiện các biện pháp trên là: đã chặn được giảm sút về tăng trưởng kinh tế ;
mức tổng cầu đã tăng lên đáng kể, đầu tư cho phát triển kinh doanh đã được phục
hồi nhanh:năm 2000 đã tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên 14,6% so với năm
1999;chi tiêu của Chính phủ thể hiện qua ngân sách nhà nước cũng tăng lên rõ rệt;
nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên khá nhanh.
Nếu 6 tháng đầu năm 1999 khi chưa thực thi chính sách thì tổng mức bán lẻ
và dịch vụ chỉ tăng 1,5% thì năm 2000 chỉ tiêu này là 9,1%; Xuất khẩu đã tăng từ
2% năm 1998 lên 23,3% năm 1999 và 25% năm 2000, năm 2001 tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước đạt 15,1 tỷ đô la tăng 45% so với năm 2000; tình trạng ứ đọng
hàng hoá , không tiêu thụ được trong năm 1998 đã được đẩy lùi; sản xuất có bước
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 20


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

chuyển biến tích cực cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ; vốn đầu tư
nước ngoài có dấu hiệu phục hồi, năm 2000 có vốn đăng ký là 1,973 tỷ USD tăng
so với 1,568 tỷ USD năm 1999, năm 2001 tổng số vốn đăng ký đã tăng lên con số

3 tỷ USD; tình trạng vốn ứ đọng trong các ngân hàng đã phần nào được giải quyết.
Năm 2002 đến nay được coi là một năm khá thành công trong tất cả các lĩnh
vực của đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tất cả các nghành đều có mức tăng
cao, trong đó phải kể đến ngành dịch vụ mà đặc biệt là ngành du lịch. Chúng ta
cũng đã kiểm soát được lạm phát ở mức 4%.
Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có xu
hướng ổn định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và mức độ
hoạt động; cung-cầu ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường vàng tự do
được thu hẹp đáng kể, nhất là vàng miếng; việc sử dụng vàng làm phương tiện đầu
cơ, làm phương tiện thanh toán cũng giảm hẳn,.v.v...
3.2

Hạn chế và nguyên nhân:
Mặc dù, nhìn một cách tổng thể trong thời gian vừa qua chúng ta đã có thể

kiềm chế và từng bước kiểm soát lạm phát , nhưng bên cạnh đó các chính sách của
chúng ta vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Trong giai đoạn 1986-1993 chúng ta đã thực thi các chính sách tiền tệ và
chính sách tài chính một cách có hiệu quả. Song, chúng ta cũng phải thừa nhận là
sau đó chúng ta đã không thực hiện các chính sách đó một cách thận trọng và phù
hợp với tình hình mới hậu quả lạm phát lại bùng nổ trở lại vào năm 1994.
Trong giai đoạn 1999-2001, việc thực hiện biện pháp kích cầu đã mang lại
nhiều kết quả tốt đẹp, xu hướng phát triển là tích cực nhưng chưa thực sự vững
chắc, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém: đà sút giảm kinh tế đã chặn
lại được , nhịp tăng lên khá nhưng vẫn còn thấp hơn mức tăng trưởng bình quân
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 21



GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

trong 10 năm qua; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư còn thấp, chưa đủ tạo
sức bật mới và phát triển thị trưòng ; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện
hơn nhưng chưa được lành mạnh một cách thực sự; lãi suất tiền gửi giảm song tiền
gửi vẫn tăng ,người dân vẫn không muốn tăng tiêu dùng và đầu tư, kích cầu tiêu
dùng đạt kết quả còn hạn chế .
Một số nguyên nhân của những hạn chế trên : trước hết đó là do bộ máy quản
lý còn kém hiệu quả; vai trò điều tiết của nhà nước còn nhiều hạn chế: chưa cung
cấp những thông tin cần thiết về diễn biến cung cầu trên thị trường nội địa và quốc
tế, dẫn đén sản xuất nhiều khi còn tự phát, không gắn với thị trường . các biện
pháp nới lỏng tiền tệ kích cầu diễn ra trong thời kỳ đang chiếm lĩnh kỷ cương lành
mạnh hoá các NHTM nên các NHTM tỏ ra thận trọng khi cho vay, người dân đa
số có xu hướng tiết kiệm để chi tiêu vào việc gì đó chứ không phải nhằm mục đích
đầu tư.
Tuy vậy, một số giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra là chưa thật
hợp lý. Khác với chính sách tiền tệ, các giải pháp về tài khóa chưa được thực hiện
đúng theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW
của Bộ Chính trị; và chưa có tác dụng đáng kể. Các địa phương, các ngành vẫn
khởi công mới hơn 5000 dự án mới với số vốn được phân bố hơn 22 nghìn tỷ
đồng. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm vẫn tăng hơn
18% so với cùng kỳ năm ngoái. Số vốn đầu tư được báo cáo là sẽ cắt giảm, đình
hoãn và điều chuyển vẫn còn thấp hoặc chưa đủ độ tin cậy. Danh mục cụ thể các
dự án được cắt giảm vẫn chưa được xác định cụ thể và công bố công khai. Cũng
tương tự như vậy đối với danh mục các dự án sẽ được bổ sung thêm vốn từ việc
điều chuyển vốn từ các dự án bị cắt giảm.

Một lần nữa, có sự thiếu hụt đáng kể trong phối hợp cần có giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ trong cuộc chiến chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô. Các giải pháp được thực hiện cho đến nay còn mang nặng tính hành chính,
Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 22


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

ngắn hạn và tình thế; chưa đặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới mô hình tăng
trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế; nên chưa hướng đến giải quyết nguyên nhân
cơ bản của lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ và Kết luận số 02-KL/TW của
Bộ chính trị được đánh giá là phù hợp để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô. Thực hiện các biện pháp chống lạm phát, bên cạnh các kết quả bước đầu, cũng
đã gây ra một số khó khăn ngắn hạn đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, như lãi suất vay vốn cao, khó tiếp cận vốn tín dụng, tiêu thụ hàng hóa khó
khăn, tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ thấp hơn so với chỉ tiêu kế hoạch..v.v.... Tuy
vậy, về trung và dài hạn, thì lạm phát thấp, ổn định kinh tế vĩ mô một cách lâu dài
và vững chắc là điều kiện cần thiết không thể thiếu cho nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững. Vì vậy, phải tiếp tục kiên trì và nhất quán thực hiện đầy đủ nội
dung, tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ và Kết luận số 02 của Bộ Chính trị
không chỉ trong năm 2011 và cả trong nhiều năm tiếp theo. Mục tiêu cụ thể trong
ba năm tới là phải giảm được lạm phát hàng năm và giữ ổn định mức lạm phát ở
mức khoảng 5%. Phải giảm chi tiêu, nhất là chi đầu tư nhà nước để giảm bội chi

ngân sách; qua đó, phối hợp và hỗ trợ tốt hơn, hiệu quả hơn với chính sách tiền tệ
và tỷ giá để chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh các giải pháp nói trên, phải khởi động ngay các giải pháp kích hoạt
quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong đó, trọng tâm
là đổi mới cơ chế phân bố và sử dụng nguồn lực theo hướng nâng cao năng suất,
hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Theo tinh thần đó, trong năm 2011 cần triển khai
nghiên cứu, soạn thảo Luật Quản lý đầu tư nhà nước, Luật sửa đổi bổ sung Luật
Ngân sách nhà nước, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật sửa đổi bổ sung
Luật Đầu tư, Đề án đổi mới toàn diện cơ chế quản lý DNNN, thực hiện triệt để,
đầy đủ và nhất quán kết quả Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính trên một
số lĩnh vực quản lý nhà nước

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 23


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

Như vậy, qua những nội dung ở trên chúng ta có thể thấy rõ được thực trạng
lạm phát ở Việt nam trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, ta cũng thấy được Việt
nam đã điều hành quá trình chống lạm phát một cách sáng tạo, sử dụng các giải
pháp phù hợp với thực tế nên đã tạo được những kết quả tốt trong việc kiềm chế
lạm phát, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, lạm phát là hiện tượng thường trực của lưu thông tiền giấy trong
nền kinh tế đang chuyển đổi của chúng ta, nguy cơ lạm phát cao cũng thường

xuyên phải đề phòng. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm
phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực
hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gian tới.

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 24


GVHD:

Môn: Tài Chính Tiền Tệ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tạp chí Tài chính
Tạp chí Thông tin khoa học Tài chính
Sách Lý thuyết lạm phát, giảm lạm phát và thực tiễn ở Việt Nam

Lớp :

Thực hiện : Nhóm 9

Trang 25


×