Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tìm hiểu về thực tiễn gian lận bảo hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và đề xuất giải pháp về pháp lý để hạn chế tình trạng gian lận bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.91 KB, 22 trang )

Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm

Mục lục
Lời mở đầu............................................................................................................1
Nội dung...............................................................................................................3
I. Khái niệm chung...............................................................................................3
1. Khái niệm gian lận bảo hiểm............................................................................3
2. Các thủ đoạn gian lận.......................................................................................3
3. Phân loại gian lận bảo hiểm..............................................................................4
4. Hậu quả của gian lận bảo hiểm.........................................................................6
II. Thực tiễn gian lận bảo hiểm.............................................................................7
III. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến gian lận bảo hiểm...............................11
1. Nguyên nhân khách quan................................................................................11
2. Nguyên nhân chủ quan...................................................................................14
IV. Biện pháp để hạn chế tình trạng gian lận bảo hiểm:.....................................16
1. Phát hiện và ngăn chặn gian lận bảo hiểm......................................................16
2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức..................................................................19
Kết luận...............................................................................................................20
Danh mục tài liệu tham khảo..............................................................................21

Nhóm 6 - N03

Page 0


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm

Lời mở đầu
Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, có những
khởi sắc đáng kể với sự thành lập của rất nhiều công ty bảo hiểm mới hoạt động
rất năng động tạo cho người tham gia mua bảo hiểm có nhiều sự lựa chọn hơn


trước đây, hơn nữa từ khi gia nhập WTO luật trong nước điều chỉnh về bảo hiểm
đã có những thay đổi nhất định nhằm định hướng lại những điểm còn thiếu của
luật trong nước và cải thiện hơn nữa ngành bảo hiểm nhằm phục vụ những
người tham gia bảo hiểm một cách tốt nhất. Cái gì cũng có mặt trái và sự phát
triển của thị trường bảo hiểm cũng tăng thêm nguy cơ về các hình thức gian lận
cũng ngày càng gia tăng. Đó là tình hình chung không chỉ ở thị trường bảo hiểm
trong nước mà còn ở khắp trên thế giới.
Gian lận bảo hiểm là một yếu tố làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp
bảo hiểm, ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận thu được của mỗi công ty. Hoạt động
này ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất nghiêm trọng của vụ
việc. Vì vậy công tác phòng chống gian lận bảo hiểm trở nên cần thiết và quan
trọng. Trước sự cần thiết của công tác phòng chống gian lận bảo hiểm, công tác
phòng chống gian lận bảo hiểm là một vấn đề cấp thiết cần được trú trọng hiện
nay. Vì những thực trạng này đang diễn ra rất nhiều và gây ảnh hưởng xấu tới
xã hội nên nhóm xem xin được chọn đề tài: “Tìm hiểu về thực tiễn gian lận bảo
hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và đề xuất giải pháp về pháp lý để
hạn chế tình trạng gian lận bảo hiểm” làm đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra
những giải pháp đóng góp phần ổn định hơn về vấn đề này.

Nhóm 6 - N03

Page 1


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm

Nội dung
I. Khái niệm chung
1. Khái niệm gian lận bảo hiểm
Gian lận bảo hiểm (GLBH) là hành vi gian dối không trung thực được

thực hiện nhằm chống lại doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) để thu lợi bất chính.
Hành vi GLBH có thể được thực hiện trong quá trình tiến hành bảo hiểm bởi
các bên khác nhau, bao gồm chủ sở hữu hợp đồng bảo hiểm, bên thứ ba đòi
DNBH bồi thường, môi giới BH, đại lý BH, các tổ chức và cá nhân chuyên
cung ứng các dịch vụ tư vấn đòi bồi thường BH.

2. Các thủ đoạn gian lận
- Hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm : Đây là hình thức trục lợi bảo
hiểm rất phổ biến, kiểu trục lợi này thường nảy sinh khi có thiệt hại thực tế đã
xảy ra mới tham gia bảo hiểm.
- Cố ý không cung cấp thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật hoặc khai
báo không trung thực các thông tin liên quan đến tình trạng sức khỏe của bản
thân trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm hoặc hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm.
- Cố ý gây tai nạn: Bên mua bảo hiểm cố ý gây tổn thất đối với đối tượng
được bảo hiểm. Để thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm này, kẻ trục lợi đã vạch
ra kế hoạch từ trước, chuẩn bị rất công phu.
- Khai tăng số tiền tổn thất: Hiện nay gian lận trục lợi bằng cách khai tăng
số tiền tổn thất trong vụ tai nạn cũng thường xảy ra.
Nhóm 6 - N03

Page 2


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
- Lập hồ sơ, hiện trường giả, thay đổi đối tượng bảo hiểm: Hình thức gian
lận trục lợi bảo hiểm này thường được biểu hiện ra ngoài thông qua việc lập hồ
sơ, hiện trường giả.
- Trục lợi bảo hiểm thông qua bảo hiểm trùng: Trường hợp này, người
mua bảo hiểm đã trục lợi bảo hiểm bằng cách dùng tài sản của mình để tham gia
bảo hiểm tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau.

- Đại lý bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm về cho DNBH: Đây là những
trường hợp mà thời hạn bảo hiểm ngắn do đó trách nhiệm bảo hiểm ngắn nên
một số đại lí bảo hiểm khi bán bảo hiểm đã không nộp phí về cho DNBH mà
thu lợi riêng.
Ngoài ra còn các hình thức gian lận bảo hiểm khác như: gian lận đối với
người thứ ba, khai tăng số tiền tổn thất…

3. Phân loại gian lận bảo hiểm
- Một là, gian lận của các chủ hợp đồng bảo hiểm: Đối với loại gian lận
này, không có bất đồng ý kiến lớn giữa ngành bảo hiểm và nhà giám sát bảo
hiểm. Đầu mối quan trọng nhất để phát hiện gian lận bảo hiểm là những tài liệu
làm bằng chứng (như là hóa đơn, đơn khiếu nại và giấy yêu cầu trả tiền bồi
thường)
Về dấu hiệu cảnh báo là: không có chứng từ gốc, chứng từ không đầy đủ
(không có tên trên chứng từ hoặc được điền vào sau này, không có chữ ký), chữ
viết khác nhau, chứng từ mới liên quan đến sự kiện/sản phẩm cũ, ngày tháng
khác thường, mâu thuẫn giữa giấy yêu cầu trả tiền bồi thường và đơn khiếu nại
hoặc khiếu nại có quá đầy đủ tài liệu dẫn chứng.(có sẵn tất cả hóa đơn, ảnh
chụp gần đây của các hạng mục bị mất).

Nhóm 6 - N03

Page 3


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Một chỉ báo quan trọng khác nữa là thái độ của người khiếu nại: người
khiếu nại năng nổ, thúc giục giải quyết bồi thường nhanh, sẵn sàng chấp nhận
số tiền bồi thường thấp, miễn cưỡng hợp tác, lảng tránh sử dụng điện thoại hoặc
thư điện tử, muốn bồi thường bằng tiền mặt, không làm gì để ngăn chặn hoặc

hạn chế thiệt hại, rất am hiểu về các điều khoản bảo hiểm hoặc đã liên lạc với
môi giới bảo hiểm/đại lý bảo hiểm hoặc người bảo hiểm ngay trước khi tổn thất
xảy ra.
Ngoài ra, những đặc điểm của tổn thất cũng có thể cho thấy dấu hiệu gian
lận: tổn thất xảy ra ngay sau khi đơn bảo hiểm có hiệu lực hoặc được mở rộng
hoặc ngay trước khi chấm dứt hiệu lực hoặc có sự mâu thuẫn giữa số tiền bảo
hiểm và đặc điểm của người được bảo hiểm (như là cách sống, tuổi, nghề
nghiệp). Nhóm các chỉ báo cuối cùng (nhưng vẫn quan trọng) là đặc điểm của
người khiếu nại, thí dụ: tình hình tài chính của người khiếu nại khốn khó, người
khiếu nại có tiền sử khiếu nại không tốt hoặc người khiếu nại cung cấp hộp thư
bưu điện hoặc khách sạn làm địa chỉ liên lạc.
- Hai là, gian lận của người trung gian: Mức độ quan trọng trung bình
của các chỉ báo rủi ro trong loại rủi ro gian lận của người trung gian thấp hơn
một chút so với các chỉ báo rủi ro trong hai loại gian lận khác. Điều này có thể
do một số nguyên nhân:
Thứ nhất, người trung gian hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau
trong những hệ thống pháp luật khác nhau (chẳng hạn như sử dụng việc thanh
toán bằng tiền mặt hoặc chương trình hoa hồng bảo hiểm).
Thứ hai, gian lận của người trung gian tỏ ra là một vấn đề khó khăn.
Người trung gian có địa vị tin cậy giữa người mua bảo hiểm và người bảo hiểm.
Sự tin cậy này là yếu tố cơ bản của mối quan hệ vì người trung gian hoạt động

Nhóm 6 - N03

Page 4


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
“ở xa”. Do đó, khó có thể tìm ra biện pháp hiệu quả để quản lý rủi ro gian lận
này.


4. Hậu quả của gian lận bảo hiểm
Thứ nhất, phí BH cao hơn và giá hàng hoá và dịch vụ cao hơn tức là số
tiền mà DN BH phải bỏ ra để đấu tranh chống gian lận BH và chi trả các khoản
tiền gian lận sẽ dồn lên vai cộng đồng BH dưới hình thức phí BH cao hơn. Gian
lận BH cũng dẫn đến giá cả hàng hoá và dịch vụ cao hơn bởi vì DN kinh doanh
hàng hoá và dịch vụ chuyển chi phí mua BH cao hơn vào dịch vụ và hàng hoá
họ bán cho khách hàng.
Thứ hai, giảm khả năng cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Các DNBH có thể
áp đặt các yêu cầu cao hơn khi khai thác BH và thu hẹp phạm vi BH để giảm
bớt thiệt hại do gian lận BH. Các DNBH thường từ chối BH đối với những lĩnh
vực khó chống lại gian lận BH.
Thứ ba, việc thanh toán những yêu cầu đòi bồi thường chính đáng sẽ
chậm lại. Các DNBH thường cảnh giác với những hành vi gian lận BH, do đó sẽ
điều tra rất kỹ khi họ nghi ngờ có hành vi gian lận. Quy trình giải quyết bồi
thường rất chặt chẽ sẽ được áp dụng để hạn chế gian lận BH, chắc chắn sẽ làm
cho việc giải quyết bồi thường những yêu cầu đòi bồi thường chính đáng bị
chậm lại.
Thứ tư, DNBH giảm lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh, nghiêm trọng
hơn đó là ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, uy tín của DNBH. Đồng thời, Gian lận
bảo hiểm là nguy cơ về đạo đức, làm tha hóa, biến chất một bộ phận người dân,
làm cho môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh và công bằng, ảnh hưởng xấu
tới an ninh trật tự.

II. Thực tiễn gian lận bảo hiểm
Nhóm 6 - N03

Page 5



Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Ở Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm Việt
Nam thời gian qua đi liền với sự gian lận, cả về số lượng, hình thức và những
thủ đoạn khác nhau. Sự tinh vi và phức tạp ngày càng đáng báo động, gây hại
cho xã hội, doanh nghiệp và cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm.
Tại Hội thảo "Đánh giá thực trạng và giải pháp phòng chống trục lợi
trong bảo hiểm xã hội” mới được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, Phó Tổng giám
đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, TS Nguyễn Minh Thảo thừa nhận, tình trạng
gian lận, trục lợi trong bảo hiểm xã hội đang gia tăng về số lượng. Thủ đoạn
càng lúc càng tinh vi và phức tạp. Cụ thể, chỉ tính riêng giai đoạn từ 2007 đến
cuối 2011, số vụ vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm đã trên 50.000 vụ. Theo số
liệu thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, tổng số vụ gian lận bảo hiểm
phát hiện được tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong giai đoạn 2007 – 2011 là
khoảng 44.704 vụ với tổng số tiền trục lợi là 411,7 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực
bảo hiểm phi nhân thọ là 3.973 vụ với tổng số tiền trục lợi là 149,9 tỷ đồng và
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là 40.731 vụ với tổng số tiền trục lợi là 261,8 tỷ
đồng. Với tổng số tiền thiệt hại ước tính khoảng trên 420 tỷ đồng. Con số này
tiếp tục gia tăng trong 6 tháng 2012, gây thiệt hại kinh tế cho cộng đồng doanh
nghiệp và người tham gia bảo hiểm. Nghiêm trọng hơn, sự gian lận bảo hiểm
này còn gây rối cho các lĩnh vực quản lý rủi ro, khả năng cung ứng dịch vụ bảo
hiểm, thời gian thanh toán bảo hiểm, thâm hụt ngân sách bảo hiểm… "Tại Việt
Nam, nhiều đơn vị, trong đó có cả khối doanh nghiệp nhà nước đang lợi dụng
các khe hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp bảo
hiểm để toan tính nhằm gian lận, trục lợi về phía mình. Sự tham nhũng đến từ
trong các xét duyệt, bồi thường, giải quyết khiếu nại bảo hiểm. Nhà nước thất
thoát nguồn thu, quan trọng hơn sự gian lận bảo hiểm đó sẽ xâm phạm đến
quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm, đồng thời ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm trong nước”.

Nhóm 6 - N03


Page 6


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Gian lận bảo hiểm diễn ra ở mọi loại hình bảo hiểm, dưới muôn hình vạn
trạng, từ khâu khai báo hồ sơ mua bảo hiểm cho đến khai báo bồi thường.
Người mắc bệnh hiểm nghèo, đang trong giai đoạn thập tử nhất sinh mới mua
bảo hiểm sinh mạng với số tiền bảo hiểm lớn. Xe bị tai nạn, “đắp chiếu” một
chỗ rồi mới đi mua bảo hiểm phương tiện. Tai nạn không thuộc phạm vi bảo
hiểm thì cấu kết, hô biến thành thuộc phạm vi bảo hiểm, tổn thất ít thì dùng thủ
đoạn tinh vi để khai tăng thành nhiều, kết hợp với các gara để tăng số tiền phải
sửa.
- Gian lận của chủ hợp đồng bảo hiểm: Những doanh nghiệp bảo hiểm
bị khách hàng của mình sử dụng những thông tin sai lệch, không đúng sự thật
nhằm gian lận bảo hiểm, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục
đích đòi những khoản tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm. Ngày từng
ngày số lượng những hành vi gian lận bảo hiểm ngày càng tăng mạnh, với thủ
đoạn tinh vi hơn, để nhằm che mắt những doanh nghiệp bảo hiểm.
Hồi cuối năm 2011, Bảo hiểm Viễn Đông (VASS) từng tiếp nhận đơn yêu
cầu bồi thường bảo hiểm của một chủ xe ô tô tại Ninh Bình sau 46 ngày mua
bảo hiểm. Theo đơn yêu cầu bồi thường thì chủ xe tự gây tai nạn và đã báo cơ
quan công an đưa xe về gara hai ngày trước đó. Ngay lập tức, cán bộ giám định
của VASS đã tới gara để giám định thiệt hại. Tuy nhiên, trong quá trình giám
định, giám định viên phát hiện nhiều điểm bất hợp lý, mâu thuẫn giữa thông tin
mà chủ gara và chủ xe cung cấp. Chủ xe không cung cấp được biển số xe cứu
hộ như khai báo ban đầu. Việc kết hợp điều tra qua camera giao thông trong
thời gian chủ xe khai xảy ra tai nạn đã gúp VASS có bằng chứng xác định chủ
xe gian dối và đưa ra kết luận xe đã bị tai nạn từ trước thời gian mua bảo hiểm.
Ngay sau đó, chủ xe đã tự nguyện sửa xe và không tiếp tục đòi bồi thường.

Cách đây không lâu, công ty bảo hiểm SVIC đã “thoát nạn” một vụ gian
lận trong bồi thường tổn thất xe cơ giới lên tới trên 600 triệu đồng. Trước đó,
Nhóm 6 - N03

Page 7


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
đại lý bảo hiểm SVIC tại Vĩnh Phúc đã bán bảo hiểm xe ô tô cho một khách
hàng mang biển số 88-… với việc thanh toán phí diễn ra vô cùng nhanh chóng.
Nhưng chỉ vài ngày sau đó, khách hàng thông báo xe bị tai nạn. Nhận thấy sự
việc có “vấn đề”, công ty bảo hiểm SVIC đã cử cán bộ có kinh nghiệm đi điều
tra xác minh và phát hiện bản ảnh hiện trường tai nạn (tại Than Uyên, Lai
Châu) do chủ xe cung cấp có dấu hiệu sử dụng photoshop. Cụ thể, hình ảnh
được dựng lại bằng cách ghép ảnh xe tổn thất vào hiện trường đường quanh co
tại Lai Châu, vật cố định thể hiện trong ảnh không phù hợp với dấu vết tổn thất
trên thân xe. Bên cạnh đó, chủ xe đã cố tình khai báo địa điểm tai nạn xa địa
chỉ của chi nhánh của đơn vị mua bảo hiểm. Cùng với việc thông qua các mối
quan hệ kinh doanh, công ty bảo hiểm SVIC đã xác định được vị trí xe từng gây
tai nạn trước khi mua bảo hiểm, SVIC đã đủ cơ sở thông báo từ chối bồi
thường.
- Gian lận của người trung gian: Không chỉ phía khách hàng có hành vi
gian lận bảo hiểm mà trên thực tế người trung gian bảo hiểm cũng có hành vi
gian lận bảo hiểm. Tuy nhiên những hành vi gian lận được thực hiện bởi bên
trung gian bảo hiểm thường ít hơn so với những hành vi gian lận của chủ thể
khác. Đầu mối quan trọng nhất để phát hiện gian lận bảo hiểm là những tài liệu
làm bằng chứng (như là hóa đơn, đơn khiếu nại và giấy yêu cầu trả tiền bồi
thường).
+ Đại lý bảo hiểm:
Theo số liệu của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, tính đến hết tháng 9/2013,

tổng số lượng đại lý có mặt trên thị trường là 240.590 người, tăng 7,2% so với
cùng kỳ năm trước, riêng trong 9 tháng đầu năm 2013, số lượng đại lý mới
tuyển dụng là: 94.610 người. Số lượng đại lý tăng nhưng hầu hết các đại lý hoạt
động bán thời gian, điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm trong
việc quản lý đại lý bảo hiểm.
Nhóm 6 - N03

Page 8


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Theo đó, hình thức gian lận bảo hiểm phổ biến của đại lý hiện nay là thu
tiền của khách hàng nhưng không nộp về doanh nghiệp bảo hiểm ngay mà sử
dụng cho mục đích riêng như tiêu dùng cá nhân, tham gia tín dụng đen... Ngoài
ra nhiều đại lý còn lợi dụng sự cả tin và kém hiểu biết của chính khách hàng để
thu phí bảo hiểm nhưng không xuất phiếu thu hoặc sử dụng phiếu thu giả.
Không ít trường hợp đại lý bảo hiểm tư vấn cho khách hàng cách trục lợi
bảo hiểm tại chính doanh nghiệp bảo hiểm bảo hiểm mà đại lý đó làm việc. Đại
lý gian lận bằng cách đưa những người không đủ tiêu chuẩn về tình trạng sức
khỏe theo quy định tham gia bảo hiểm để được hưởng ưu đãi bảo hiểm; hỗ trợ
và giúp khách hàng thực hiện hợp đồng bảo hiểm sau khi sự kiện được bảo hiểm
xảy ra.
Đặc biệt, có nhiều đại lý bảo hiểm đã "chiêu dụ" khách hàng bằng cách
chia hoa hồng nhận được từ hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng hoặc tạm ứng
phí bảo hiểm khi khách hàng nộp trễ hạn. Đây được xem như một hành vi gian
lận bảo hiểm vì gây ảnh hưởng lớn đến tính minh bạch của hoạt động bảo hiểm,
thay đổi tính chất của việc mua bảo hiểm.
Nhiều đại lý bảo hiểm đã gây mất uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm bảo
hiểm bằng cách tư vấn bảo hiểm sai quy định, tư vấn không đầy đủ, không
chính xác, trình bày sai lệch về các điều khoản và sản phẩm bảo hiểm dẫn đến

những ngộ nhận của khách hàng khi tham gia bảo hiểm, nhiều tranh chấp hợp
đồng bảo hiểm đã xảy ra do lỗi của chính đại lý bảo hiểm. Đặc biệt, nhiều đại lý
bảo hiểm còn giả mạo thông tin khách hàng, tự lập hồ sơ bảo hiểm cho khách
hàng… vi phạm nghiêm trọng quy định hoạt động của đại lý bảo hiểm nhưng
chỉ một số rất ít đại lý bị xét xử.
+ Môi giới bảo hiểm:

Nhóm 6 - N03

Page 9


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Do sức ép cạnh tranh, muốn thuyết phục khách hàng nên trên thị trường
môi giới bảo hiểm hiện nay xuất hiện những hoạt động gian lận. Chẳng hạn,
một số doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đưa ra các điều khoản mở rộng không
đúng với tập quán bảo hiểm như bảo hiểm hàng thiếu trong container còn
nguyên kẹp chì, bảo hiểm các rủi ro bị loại trừ trong quy tắc bảo hiểm quốc tế…
Như vậy, vô hình trung các nhà bảo hiểm trong nước phải nhận cả rủi ro do
người bán hàng ở nước ngoài gây ra và điều này dễ dẫn đến trục lợi bảo hiểm…
Đối với lĩnh vực bảo hiểm cháy, nổ sự tác động của một số môi giới bảo
hiểm làm ảnh hưởng xấu đến thị trường bảo hiểm nói chung, như việc đưa ra
đến 200 điều kiện mở rộng, bảo hiểm bổ sung không đồng bộ với nội dung đơn
bảo hiểm và lấn sang phạm vi một số sản phẩm bảo hiểm khác. Thực trạng thu
phí bảo hiểm thấp hơn phí tái bảo hiểm, đấu thầu bỏ phí thấp, môi giới bảo hiểm
đưa ra quá nhiều điều khoản, điều kiện bảo hiểm phức tạp đã dẫn đến việc
doanh nghiệp bảo hiểm không thể đảm bảo quyền lợi cho đối tượng bảo hiểm
khi có tổn thất xảy ra.

III. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến gian lận bảo hiểm

1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do những kẽ hở pháp luật và do thực hiện pháp luật không
nghiêm, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý nên nhiều người nảy sinh hành vi
gian lận; hệ thống pháp luật của nước ta chưa có những hình phạt thích đáng
cho những kẻ lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để gian lận bảo hiểm. Cụ thể:
Khi bị phát hiện gian lận, người mua bảo hiểm chỉ bị từ chối bồi thường.
Pháp luật về KDBH đã có những quy định cụ thể, tạo điều kiện cho DN bảo
hiểm có cơ sở để từ chối bồi thường hay hủy hợp đồng khi phát hiện những
hành vi gian dối, trục lợi bảo hiểm. Có điều, việc giải quyết như vậy vẫn chỉ
nằm trong khuôn khổ các quan hệ dân sự. Nếu khách hàng bảo hiểm khai gian
Nhóm 6 - N03

Page 10


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
để đòi bồi thường thì chỉ không được bồi thường, chứ không chịu chế tài xử
phạt. Vì vậy, những hành vi gian lận này vẫn cứ tồn tại và phát triển. Theo Điều
22 Luật KDBH, hợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi:
- Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm;
- Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm không tồn tại;
- Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo
hiểm đã xảy ra;
- Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao
kết hợp đồng bảo hiểm;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Theo đó, khi hợp đồng bảo hiểm vô hiệu thì khách hàng có hành vi gian
dối chỉ bị từ chối bảo hiểm mà không phải chịu hình phạt nào.
Hiện nay, tình trạng gian lận bảo hiểm lên tới mức báo động, nhưng nhà
bảo hiểm rất khó mạnh tay xử lý. Theo Khoản 3, Điều 14 Nghị định

98/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm : phạt tiền từ 90 - 100 triệu đồng đối với hành vi gian dối, giả mạo tài liệu
trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường, trả
tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó để xử phạt cá nhân, mà chủ yếu là
áp dụng đối với trường hợp cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra tại các công
ty, nếu phát hiện thì xử phạt.
Bên cạnh đó, cho tới nay, Bộ luật Hình sự chưa có nhóm tội danh cho các
tội phạm trên thị trường bảo hiểm. Với quy định hiện hành, nhà bảo hiểm rất
khó để đề nghị xử lý hình sự với đối tượng có hành vi, thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tiền bồi thường của nhà bảo hiểm. Thứ nhất, với hành vi gian dối
Nhóm 6 - N03

Page 11


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
nhưng chưa thực hiện trót lọt thì không thể xử lý, bởi chưa có thiệt hại xảy ra,
mới chỉ yếu tố gian dối mà chưa có yếu tố chiếm đoạt. Thứ hai, với hành vi thực
hiện trót lọt, nhà bảo hiểm đã bồi thường thì lại e ngại trách nhiệm của chính
cán bộ bảo hiểm. Bởi lẽ, sẽ có nhân viên, không loại trừ là lãnh đạo của công ty
phải chịu trách nhiệm vì để hành vi phạm tội xảy ra. Hơn nữa, các biện pháp
phòng ngừa gian lận bảo hiểm lại chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Thứ hai, do sự lơ là, bỏ qua quy trình, quy định nội bộ. Một nguyên
nhân rất lớn dẫn đến tình trạng trên là do áp lực về doanh thu đối với nhân viên
bán bảo hiểm và cả nhà bảo hiểm. Đơn cử như một vụ tranh chấp đòi bồi
thường xe cơ giới, trong đó khách hàng mua bảo hiểm và nhà bảo hiểm đã cấp
Giấy chứng nhận bảo hiểm dù khách hàng chưa trả phí. Sau khi xe tải gặp tai
nạn, khách hàng mới đến nộp phí, song nhân viên kế toán của công ty bảo hiểm
vẫn thu phí mà không xem xét tình trạng thực tế của đối tượng được bảo hiểm.
Khách hàng đòi bồi thường dựa trên 2 căn cứ: nhà bảo hiểm đã chấp nhận cho

khách hàng nộp phí và văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính yêu cầu DN bảo
hiểm không được cấp Giấy chứng nhận khi khách hàng chưa đóng đủ phí. Văn
bản của Bộ Tài chính còn nói rõ, nếu DN bảo hiểm đã cấp Giấy chứng nhận,
nhưng chưa thu đủ phí thì vẫn có trách nhiệm giải quyết bồi thường theo phạm
vi bảo hiểm. Do đó, nhà bảo hiểm này đã phải bồi thường cho khách hàng.Tăng
cường kiểm soát đối với việc tuân thủ các quy trình, quy định nội bộ của nhân
viên bảo hiểm sẽ giúp nhà bảo hiểm hạn chế nguy cơ khách hàng gian lận.
Thứ ba, mức độ cạnh tranh của thị trường bảo hiểm là nguyên nhân
khách quan khiến tình trạng gian lận bảo hiểm ngày càng tăng nhanh. Đời sống
ngày càng phát triển, hiện đại. Theo đó, các dịch vụ chăm sóc cho khách hàng
lại càng sôi động hơn bao giờ hết. Cạnh tranh trong nước càng ngày căng thẳng
giữa các DNBH. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150
của WTO. Gia nhập WTO là động lực cho sự phát triển của đất nước song cũng
đặt ra những thách thức nhất định. Một trong những thách thức đặt ra cho các
Nhóm 6 - N03

Page 12


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước là nước ta đã cam kết tự do hàng hóa dịch
vụ bảo hiểm. Việc cho phép tồn tại hình thức chi nhánh DNBH ở nước ngoài tại
Việt Nam làm cho sự cạnh tranh vốn đã gay gắt nay còn gay gắt hơn. Sự chảy
máu chất xám nguồn nhân lực chủ chốt sang DNBH mới cũng là điều đáng lo
ngại. Hơn nữa, các DNBH nước ngoài có năng lực, vốn và thương hiệu tốt hơn
so với DNBH trong nước. Đặc biệt, DNBH ở nước ngoài cung cấp một số sản
phẩm BH qua biên giới vào nước ta không phải mất bất kì một khoản phí mà
DNBH trong nước phải đóng gọi là thuế. DNBH trong nước cũng không thể
nắm bắt được các DNBH nước ngoài đang đầu tư lĩnh vực bảo hiểm nào, thông
tin của các DNBH nước ngoài... Áp lực kinh doanh, áp lực cạnh tranh…khiến

cho nhiều DNBH đôi khi phải lựa chọn việc gian lận bảo hiểm.
Thứ tư, thị trường bảo hiểm luôn sôi động, phức tạp, tình hình cạnh
tranh ngày càng khốc liệt nên các doanh nghiệp bảo hiểm luôn phải giữ bí mật
thông tin. Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm hầu như không có. Vì vậy, một đối tượng tài sản nào đó có thể
tham gia bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm. Khi rủi ro tổn thất xảy ra họ
đã được nhận tiền bồi thường ở tất cả các công ty bảo hiểm.

2. Nguyên nhân chủ quan
+ Thứ nhất, thái độ từ phía xã hội, người dân nói chung đối với trục
lợi bảo hiểm. Một là, thái độ thờ ơ nói chung của xã hội đối với vấn đề trục lợi
bảo hiểm. Hành vi gian lận bảo hiểm, nếu so với các hành vi tiêu cực khác, sẽ
được coi là nhỏ, không có ảnh hưởng gì đến đại đa số nhân dân, đương nhiên xã
hội càng bàng quan và thờ ơ. Thứ hai là phản xạ cảm giác (hay nhận thức) đạo
đức về hành vi gian lận bảo hiểm. Về bản chất, hành vi gian lận bảo hiểm cũng
giống như một hành vi ăn cắp, tuy nhiên ít người nhìn nhận hành vi này là phi
đạo đức. Điều này là khác biệt so với các thị trường phát triển, khi đa số người
dân cho trục lợi bảo hiểm là hành vi phi đạo đức cần lên án.
Nhóm 6 - N03

Page 13


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Mặt khác, nhận thức của người dân về pháp luật còn nhiều yếu kém, nhất
là những văn bản pháp quy về bảo hiểm. Nhiều người dân nhận thức còn rất mơ
hồ về bảo hiểm và họ cho rằng quỹ bảo hiểm giống như quỹ phúc lợi. Cho nên
đã có rất nhiều trường hợp nói sai sự thật để giúp nạn nhân nhận quyền lợi bảo
hiểm.
+ Thứ hai, từ phía doanh nghiệp bảo hiểm:

Các doanh nghiệp bảo hiểm “nạn nhân” của gian lận bảo hiểm, cũng đóng
vai trò lớn trong việc trục lợi bảo hiểm ngày càng khó kiểm soát ở Việt Nam.
Do một số nguyên nhân chính sau:
- Không có sự chia sẻ thông tin phòng chống gian lận bảo hiểm giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này dẫn đến việc người gian lận ở doanh nghiệp
này bị phát hiện có thể tham gia bảo hiểm ở doanh nghiệp khác một cách dễ
dàng. Các kịch bản gian lận cũng rất hiếm khi được chia sẻ giữa các công ty để
cùng xây dựng các biện pháp phòng chống gian lận.
- Chưa tuân thủ nghiêm túc quy trình khai thác, giám định bồi thường.
Việc này có nhiều nguyên nhân: có thể do trình độ, ý thức của cán bộ, có thể do
năng lực của bản thân công ty chưa đáp ứng được việc tuân thủ quy trình nghiệp
vụ đề ra (ví dụ công ty chỉ có một vài văn phòng chi nhánh thì không thể đủ khả
năng giám định kịp thời những tai nạn ở khu vực xa xôi), có thể do cả nguyên
nhân cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp và sức ép kế hoạch doanh thu
của cán bộ (dẫn đến bỏ qua một số thủ tục trong quy trình khai thác, như đánh
giá rủi ro trước khi cấp đơn bảo hiểm)…
- Dịch vụ phục vụ khách hàng kém của các công ty bảo hiểm. Đây cũng
là nguyên nhân phát sinh gian lận bảo hiểm. Có nhiều ví dụ về dịch vụ phục vụ
kém của doanh nghiệp bảo hiểm (thời gian giải quyết bồi thường, thái độ phục
vụ của cán bộ, viện dẫn lý do từ chối bồi thường không hợp lý, “mặc cả cò
Nhóm 6 - N03

Page 14


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
cưa”… dẫn tới ức chế cho khách hàng và khơi gợi ở họ phản ứng gian lận lần
sau “cho bõ tức”).
- Chủ động tham gia hành vi gian lận bảo hiểm của cán bộ nhân viên
doanh nghiệp bảo hiểm: Hành vi này hoặc có thể chỉ là thuần túy “chiều” khách

hàng để giữ khách (ví dụ giải quyết bồi thường sai cho một khách hàng lớn để
giữ khách với suy nghĩ “thả con săn sắt bắt con cá rô”), hoặc chủ động tư vấn,
tham gia cùng khách hàng trục lợi để hưởng lợi cá nhân.
- Điều khoản, phạm vi bảo hiểm: điều khoản bảo hiểm của một số công ty
bảo hiểm đối với các nghiệp vụ hay bị gian lận hiện nay như bảo hiểm xe cơ
giới, bảo hiểm con người và nhận thấy các điều khoản điều kiện bảo hiểm các
công ty BH đang áp dụng hiện nay cũng tương đối chặt chẽ. Vấn đề ở chỗ,
nhiều công ty không áp dụng mức miễn thường có khấu trừ đối với bảo hiểm
vật chất xe ô tô – nếu áp dụng, theo chúng tôi đây cũng là biện pháp tốt để hạn
chế hành vi trục lợi bảo hiểm cơ hội.

IV. Biện pháp để hạn chế tình trạng gian lận bảo hiểm:
1. Phát hiện và ngăn chặn gian lận bảo hiểm
1.1. Các biện pháp chống gian lận của bên mua bảo hiểm và gian lận
đòi bồi thường.
Một là, nhà nước cần rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật về bảo
hiểm nhằm điều chỉnh các quy định chưa phù hợp, bổ sung các quy định còn
thiếu hoặc chưa rõ. Nhà nước cần thống nhất các hoạt động kinh doanh bảo
hiểm vào một nguồn luật để tránh chồng chéo, điều chỉnh những quy định mâu
thuẫn nhau trong các nguồn luật về một nội dung liên quan hoạt động bảo hiểm.
Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện một số nội dung quy định trong
luật, thống nhất các khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong các văn bản pháp luật
Nhóm 6 - N03

Page 15


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
Nâng mức xử phạt đối với hành vi gian lận vì mức xử phạt hiện nay còn
quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe những kẻ có hành vi gian lận. Số tiền mà họ bị phạt

nếu bị phát hiện hiện nay là rất nhỏ so với số tiền mà họ nhận được nếu gian lận
thành công.
Hai là, nước ta chưa có một văn bản pháp luật nào quy định rõ khái niệm
về trục lợi bảo hiểm, các hành vi được coi là trục lợi bảo hiểm; nghĩa vụ của các
đối tượng có liên quan trong quá trình thực hiện bảo hiểm nhằm phòng chống
trục lợi bảo hiểm; các quy định các chế tài đối với các hành vi trục lợi bảo hiểm
theo các mức độ xử phạt vi phạm hành chính...; quy định tiêu chuẩn ngành nghề
đối với cán bộ giám định bồi thường bảo hiểm… Kẽ hở trong Luật kinh doanh
bảo hiểm cũng như chưa có hành lang pháp lý đầy đủ đã tạo điều kiện cho trục
lợi bảo hiểm phát triển. Yếu tố quan trọng nhất là thời gian, theo quy định của
Luật kinh doanh bảo hiểm khi nhận được đầy đủ hồ sơ, chứng từ thì trong vòng
15 ngày phải giải quyết bồi thường, nếu từ chối bồi thường phải có văn bản và
nêu rõ lý do. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay chống trục lợi
chỉ như hình thức tự vệ, chưa có hệ thống, bộ máy cũng như con người chuyên
nghiệp, đặc biệt chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp.
Đề nghị Quốc hội nên tội phạm hóa một số hành vi gây nguy hiểm cho xã
hội trong trục lợi bảo hiểm. Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Hình sự, trong đó quy
định hành vi trục lợi bảo hiểm “chưa đạt đã hoàn thành” (chưa đạt về mục đích tức chưa nhận tiền thì bị phát hiện, nhưng đã hoàn thành về hành vi như tráo
biển số xe lừa mua bảo hiểm trót lọt, tạo dựng hiện trường giả, sửa chữa hồ sơ
tai nạn của cơ quan công an…) vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, cần tách từ một số tội danh đã có (tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, tội tham ô tài sản, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước)

Nhóm 6 - N03

Page 16


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm

thành một số tội danh riêng cho lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và xây dựng cấu
thành tội phạm cho những tội danh sau:
+ Tội tổ chức gian lận bảo hiểm;
+ Tội gian lận bảo hiểm;
+ Tội cố ý tạo điều kiện cho người khác gian lận bảo hiểm.
+ Tội cố ý làm trái các quy định trong kinh doanh bảo hiểm.
+ Tội thiếu trách nhiệm trong thực hiện các quy định trong kinh doanh bảo
hiểm.
Việc quy định cụ thể các tội danh để xử lý hình sự đối với các hành vi vi
phạm pháp luật bảo hiểm là xuất phát từ đòi hỏi của việc xây dựng một thị
trường bảo hiểm trong sạch và phát triển bền vững. Việc phân hóa trách nhiệm
hình sự này thực chất là việc cụ thể hóa trong Bộ Luật Hình sự các hành vi vi
phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự bằng các tội danh tương ứng khi các
hành vi này đã được xác định là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các
luật chuyên ngành về bảo hiểm.
Ba là, sửa đổi Khoản 3, Điều 15 Nghị định số 41/2009/NĐ-CP về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Hiện tại, điều khoản
này quy định, “phạt tiền 70 triệu đồng đối với tổ chức, cá nhân đã nhận được
tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm do có hành vi gian dối, giả mạo các tài liệu
trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm”. Sắp tới, nên sửa đổi lại là
“phạt tiền 70 triệu đồng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi gian dối, giả mạo
các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm”, thì mới có tác
dụng răn đe, ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm.
Bốn là, cần sớm có chế tài nghiêm khắc, đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn,
thậm chí xử lý hình sự đối với hành vi trục lợi bảo hiểm, gây hậu quả lớn; đồng
thời cần có cơ chế bảo vệ, động viên nhân chứng hợp tác giúp đỡ cơ quan Công
Nhóm 6 - N03

Page 17



Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
an để điều tra xác minh làm rõ. Kiến nghị Bộ Công an có cơ chế riêng để tăng
cường, tích cực phối hợp điều tra giải quyết các vụ khiếu nại bồi thường bảo
hiểm có dấu hiệu nghi vấn trục lợi, do các doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị (kể
cả các doanh nghiệp bảo hiểm không có vốn nhà nước).
Năm là, để ngăn chặn và phát hiện gian lận của người trung gian, điều rất
quan trọng là phải có các quy trình và sự ủy quyền rõ ràng. Các quy trình này
phải bảo đảm việc thu phí bảo hiểm hợp lý, thẩm tra, chi trả hoa hồng và kiểm
tra người trung gian. Một yếu tố mới được nêu ra là cần phải liên lạc trực tiếp
với chủ hợp đồng bảo hiểm. Hơn nữa, việc chia sẻ kiến thức giữa những người
bảo hiểm cũng được đề cập đến.

2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức
Gian lận bảo hiểm là một vấn đề khá phổ biến hiện nay, gian lận bảo
hiểm đang là một vấn đề gây nhiều tranh cãi về các biện pháp khắc phục cũng
như phòng chống, để có thể giảm được những vụ gian lận bảo hiểm ngoài việc
phát hiện và ngăn chặn thì phía nhà nước nên cần đưa ra những tuyên truyền
nhằm từ đó nâng cao nhận thức của người dân về tác hại mà việc gian lận bảo
hiểm mang lại – đó là những hậu quả xấu ảnh hưởng không chỉ tới bản thân
mình mà còn cho toàn xã hội.
Tuyên truyền là một biện pháp gần gũi với người dân nhất, đó là những
người tham gia mua bảo hiểm và yếu tố quyết định tới việc gian lận bảo hiểm sẽ
tăng hay giảm, nhận thức của họ được khai thông thì những việc làm của họ sẽ
đi theo chiều hướng đúng đắn hơn.
+ Trước tiên, về phía nhà nước:
Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
trong hợp tác, trao đổi thông tin, kinh nghiệm phòng, chống gian lận bảo
Nhóm 6 - N03


Page 18


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
hiểm, tăng cường công tác tuyên truyền cho quần chúng nhân dân nâng cao
hiểu biết tác hại của gian lận bảo hiểm.
+ Thứ hai, về phía các doanh nghiệp bảo hiểm:
- Chủ động phòng ngừa tội phạm, nghiên cứu, bổ sung, xây dựng mới,
ban hành quy trình làm việc chặt chẽ, thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát
nhanh nhạy, hiệu quả bảo đảm trong mọi tình huống, điều kiện đều thực hiện
nghiêm túc quy trình, tích cực phối hợp với cơ quan Công an kịp thời phát hiện,
bắt giữ tội phạm .
- Các doanh nghiệp cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng nhân viên đại
lý. Đó phải là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức và
am hiểu các vấn đề kinh tế - xã hội và kĩ thuật liên quan đến nghề nghiệp.
- Tổ chức các khóa học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cũng như đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên đại lí bảo hiểm.
+ Thứ ba, các cá nhân cần nâng cao nhận thức để vấn đề phòng chống
gian lận bảo hiểm , nhằm chung tay với nhà nước cũng như toàn xã hội loại bỏ
vấn đề gian lận bảo hiểm ra ngoài xã hội:
- Cảnh giác với những đại lý BH không có đăng ký. Trước khi mua BH,
liên hệ với DNBH hoặc Hiệp hội BH nhân thọ hoặc phi nhân thọ để bảo đảm
rằng đại lý tiếp cận mình là một đại lý được uỷ quyền.
- Nếu có điều kiện thì nên hạn chế việc trả phí BH bằng tiền mặt, mà thay
bằng séc. Hãy trả phí BH trực tiếp cho DNBH thay vì trả cho đại lý.
- Đảm bảo chắc chắn rằng nhận được đơn BH bằng văn bản sau khi đã
trả phí BH kỳ đầu tiên.

Nhóm 6 - N03


Page 19


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm
- Kiểm tra kỹ càng đơn BH ngay lập tức để bảo đảm chắc chắn rằng
phạm vi BH đáp ứng được yêu cầu của mình và bảo đảm rằng số phí BH mình
đã trả được phản ánh trong giấy chứng nhận BH hoặc đơn BH. Hãy đòi biên lai
thu phí làm chứng cho việc đã trả phí.
- Kín đáo liên hệ với DNBH, Hiệp hội BH nhân thọ hoặc phi nhân thọ và
cảnh sát nếu bị lừa đảo hoặc bị xúi giục gian lận. Cung cấp càng chi tiết những
thông tin như tên những cá nhân có hành vi gian lận, số tiền, ngày tháng và
hình thức gian lận.

Kết luận
Vấn đề gian lận bảo hiểm đang được trú trọng hơn và đang được những
cơ quan chức năng cũng như những người làm bảo hiểm phòng chống một cách
triệt để nhằm cải thiện thị trường giúp ổn định hơn, để làm được điều đó cần sự
chung tay góp sức của toàn xã hội và đặc biệt đó là ý thức của những người
tham gia mua bảo hiểm vì họ là những người quyết định sự ổn định của thị
trường này, chính vì vậy pháp luật cần quy định chặt chẽ và nghiêm khắc hơn
nữa đối với vấn đề gian lận bảo hiểm để người tham gia bảo hiểm có thể ý thức
hơn đối với việc mình làm.

Nhóm 6 - N03

Page 20


Bài tập nhóm số 2 môn Luật kinh doanh bảo hiểm


Danh mục tài liệu tham khảo
- Nguyễn Văn Định (chủ biên), Giáo trình bảo hiểm, Nxb. Đại học kinh tế quốc
dân, Hà Nội, 2008.
- LKDBH năm 2000; Luật sửa đổi, bổ sung LKDBH năm 2011 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
- Bộ Luật dân sự năm 2005.
- Các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
- TS Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và pháp luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam,
Nxb Tư pháp, 2007
- PGS.TS Nguyễn Văn Định, Giáo trình bảo hiểm – Hà Nội, nxb Kinh tế quốc
dân, 2008
- Các wesite:
http://www. mof. gov. vn
http://www. avi. org. vn
http://www. webbaohiem. net
http://www. tailieu.vn
http://www. doc.edu.vn

Nhóm 6 - N03

Page 21



×