Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

HỌC tập và làm THEO PHONG CÁCH tư DUY của hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.46 KB, 106 trang )

Chuyên đề 1
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH TƯ DUY CỦA HỒ CHÍ MINH


LỜI NÓI ĐẦU
Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh
là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng ta hiện nay. Học tập và làm theo phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm
2016 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87- CT/QUTW ngày 8 tháng 7 năm 2016 của
Thường vụ Quân ủy Trung ương. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần phải
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phong cách tư duy, nâng cao bản lĩnh chính
trị, đạo đức cách mạng, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ trên cương vị, chức trách của mình, góp phần xây dựng Quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam trong tình hình mới.

2


NỘI DUNG
I. PHONG CÁCH TƯ DUY CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm phong cách tư duy và phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
a) Khái niệm phong cách tư duy
* Khái niệm phong cách
Phong cách có nhiều cách hiểu khác nhau, song mang tính hệ thống, tương
đối ổn định, là đặc điểm riêng, độc đáo, trong nhận thức và trong hoạt động thực
tiễn của con người. Phong cách là những hoạt động có ý thức, được rèn luyện
thành nền nếp, tương đối ổn định của một người, một lớp người, hay một cộng
đồng người, tạo nên sự khác biệt, có giá trị xã hội, được biểu hiện trong cuộc


sống của con người.
Phong cách gắn liền với đời sống của con người, có quan hệ chặt chẽ với
thói quen, tập quán, truyền thống, văn hóa, chịu sự tác động bởi hoàn cảnh sống
của chính con người. Phong cách, một biểu hiện cụ thể của đạo đức, song phong
cách không phải là đạo đức, không đồng nhất phong cách với đạo đức của con
người. Phong cách mang dấu ấn cá nhân rõ nét, bị chi phối bởi phong cách của
tập thể, phong cách cộng đồng, đồng thời cũng tác động trở lại phong cách tập thể
và phong cách của cộng đồng.
Phong cách Hồ Chí Minh là những nguyên tắc, lề lối, có tính ổn định, tạo
nên sự khác biệt, có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Phong cách
Hồ Chí Minh hình thành từ sự tiếp thu những nét đặc sắc trong truyền thống dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới. Phong cách Hồ Chí Minh - sự chắt lọc, kết tinh, những yếu tố tinh túy
phong cách của nhiều mẫu người khác nhau, trên nhiều công việc, cương vị,
như: người phụ bếp, bồi bàn, rửa ảnh, vẽ tranh, nhà báo, nhà văn, nhà thơ, người
tù, đảng viên Đảng Cộng sản, nhà ngoại giao, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước….
Phong cách Hồ Chí Minh tiêu biểu cho phong cách của một nhà cách mạng
chuyên nghiệp, luôn gần gũi với nhân dân. Người tự nhận “tôi là một người cách
mạng chân chính”1.
Phong cách Hồ Chí Minh là tài sản quý giá của dân tộc và nhân loại, biểu
hiện trong hoạt động sống hằng ngày của Người, như: phong cách tư duy, phong
cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt. Trong hệ thống phong
cách Hồ Chí Minh, phong cách tư duy giữ vị trí đặc biệt quan trọng, chi phối các
phong cách khác.
* Khái niệm phong cách tư duy
Tư duy là cách nghĩ, quá trình nhận thức thực tiễn trong bộ óc con người,
thông qua các thao tác như: quan sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp,
khái quát, trừu tượng hóa, tìm ra bản chất, quy luật của sự vật hiện tượng.
1


Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc guia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.587.

3


Có thể nói, tư duy là quá trình phản ánh hiện thực khách quan thông qua
lăng kính chủ quan của con người, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, quá trình tư duy hình thành các quan điểm, luận điểm, tư tưởng... Kết quả
tư duy được biểu hiện ở ngôn ngữ, do đó tư duy bao giờ cũng gắn với ngôn ngữ,
sự diễn đạt lủng củng, không phù hợp của ngôn ngữ, phản ánh quá trình tư duy
chưa hoàn thiện, chưa khoa học. Muốn đạt tới tư duy đúng đắn, khoa học, cần
phải có nhiều nguồn thông tin, tư liệu mới, phong phú, chính xác, đồng thời
có phương pháp tư duy lôgíc và phù hợp với điều kiện lịch sử.
Như vậy, phong cách tư duy là cách nghĩ, quá trình nhận thức hiện thực
khách quan trong bộ óc con người, mang đặc điểm riêng, tương đối ổn định, có
giá trị xã hội, được biểu hiện trong cuộc sống của con người.
Phong cách tư duy mang đặc điểm riêng của chủ thể tư duy, có tính
hệ thống, tương đối ổn định, trên cơ sở thực hiện một phương pháp tư duy
nhất định.
Trong phong cách tư duy có sự thống nhất giữa phương pháp, nội dung và
kết quả tư duy. Quá trình tư duy, chủ thể thực hiện những phương pháp, nội
dung và đạt được kết quả nhất định, nên phong cách tư duy là sự thống nhất giữa
các yếu tố như cách thức, nội dung và kết quả tư duy.
b) Khái niệm phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một chỉnh thể phát triển lôgíc, thể hiện
trong cuộc sống hằng ngày của Người. Kết quả phong cách tư duy Hồ Chí Minh
được biểu hiện ra bằng các luận điểm, quan điểm, tư tưởng, thông qua các bài
nói, bài viết, các tác phẩm, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có
thể hiểu phong cách tư duy Hồ Chí Minh là những nguyên tắc, lề lối, tương đối
ổn định, có tính cách mạng, khoa học và mang màu sắc riêng trong cách nghĩ

của Bác được thể hiện ở các luận điểm, quan điểm, tư tưởng, lề lối làm việc và
hành động thực tiễn của Người, có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Khái niệm phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho thấy đây là những nguyên
tắc, được lặp đi, lặp lại, mang tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, lý luận thống nhất
với thực tiễn, cụ thể và thiết thực, kiên định và linh hoạt, có đặc điểm riêng, mang
giá trị sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
hình thành trên cơ sở kế thừa truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương
và dân tộc Việt Nam. Trong đó, Người luôn chủ động nghiên cứu, tiếp thu
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, với phương châm:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”1
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
văn hóa phương Đông và phương Tây. Thực tiễn cách mạng thế giới, thực tiễn
cách mạng Việt Nam, là điểm xuất phát, cơ sở khách quan hình thành phong
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.255.

4


cách tư duy Hồ Chí Minh. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh ra đời và phát triển từ
những phẩm chất cá nhân tốt đẹp, như: sự thông minh, sáng tạo, tình cảm trong
sáng và sâu sắc, ý chí, nghị lực kiên cường của Người.
Khái niệm phong cách tư duy Hồ Chí Minh đề cập đến những nguyên tắc
chỉ đạo quá trình tư duy của Người. Đặc điểm nổi bật trong phong cách tư duy
của Người là tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, lý luận thống nhất với thực tiễn, thiết
thực và cụ thể, kiên định và linh hoạt. Khi học tập, nghiên cứu phong cách tư
duy Hồ Chí Minh cần phải phân biệt sự khác nhau giữa tư duy Hồ Chí Minh và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm, kết quả của quá

trình tư duy Hồ Chí Minh, biểu hiện ở các quan điểm, luận điểm, đồng thời
thông qua tư tưởng để tìm hiểu phong cách tư duy của Người.
2. Những đặc điểm chủ yếu trong phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
a) Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí Minh là độc lập, tự chủ
trong suy nghĩ và hành động, trong mọi hoàn cảnh đều làm chủ bản thân, làm
chủ công việc, luôn chịu trách nhiệm trước tập thể, trước nhân dân và đất nước
về công việc của mình. Tính sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là
vận dụng đúng đắn quy luật chung, phù hợp với đặc điểm riêng, đặc thù, luôn
tìm tòi, đề xuất những cái mới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Cái mới, cái
sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam,
đồng thời phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng thế giới. Trong phong
cách tư duy Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ,
không tách rời với cách mạng thế giới.
Nhờ phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh luôn bám sát
thực tiễn, hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, làm
giàu trí tuệ, bằng những kiến thức phong phú, sâu rộng, phát hiện ra quy luật, con
đường, mục tiêu, lực lượng, phương pháp tiến hành cách mạng ở Việt Nam.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điệu kiện của nhau. Đây là tư duy không lệ
thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, máy móc, đối lập với tư
duy giáo điều, rập khuôn, không tính đến đặc điểm thực tiễn, điều kiện cụ thể,
không biện chứng, phủ nhận sự phát triển và tiến bộ.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã chứng
minh phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trước khi
Người ra đi tìm đường cứu nước, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược diễn ra sôi nổi, với tinh thần “Kẻ trước ngã, người sau đứng dậy”, tiêu
biểu như: các phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Chiếu Cần Vương, cuộc khởi
nghĩa của nông dân Yên Thế, các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng tư sản
của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Song do nhiều nguyên nhân, các phong

trào đấu tranh chống thực dân Pháp đều bị thất bại. Hồ Chí Minh luôn trân trọng
và khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sỹ đương thời, nhưng tìm hướng đi
5


khác về con đường cứu nước, cứu dân. Từ phong cách tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo, Người đi về phương Tây, xem những gì đằng sau khẩu hiệu “Tự do,
bình đẳng, bác ái”, xem các nước khác họ làm như thế nào để về giúp đồng bào
mình. Khi đến với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Người khẳng định “Muốn cứu
nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản”. Đó là kết luận quan trọng của lòng yêu nước, thương dân, tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh, không đi theo con
đường của các nhà yêu nước trước đó, chọn hướng đi khác, tìm con đường cứu
nước đúng đắn cho nhân dân.
Sau khi miền Bắc được giải phóng năm 1954, từ những đặc điểm riêng của
đất nước, Hồ Chí Minh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, khi xác định con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Người nói: “Ta
không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa
lý khác... Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ
nghĩa xã hội”1. Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại, đòi
hỏi sự nỗ lực rất cao, phải tiến dần từng bước vững chắc, nên Người luôn ngăn
chặn, đấu tranh với những khuynh hướng chủ quan, nóng vội, gò ép bất chấp
quy luật khách quan và yêu cầu “Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững
chắc”2. Như vậy, sẽ khắc phục phần nào bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh biểu hiện
trên tất cả các nội dung trong đường lối cách mạng Việt Nam, như: tính chủ
động cách mạng vô sản ở thuộc địa, so với cách mạng vô sản ở chính quốc; nêu
cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, nhiệm vụ chống phong kiến được tiến hành

từng bước; quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; cũng như xác định
mục tiêu, lực lượng, phương pháp tiến hành cách mạng.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không có nghĩa là đóng cửa, khép kín,
hay suy nghĩ thiển cận, giản đơn, chủ quan. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tư
duy Hồ Chí Minh là trên nền tảng cách mạng, khoa học, tiếp thu chọn lọc những
tư tưởng tiến bộ phù hợp với dân tộc và điều kiện thực tế của đất nước.
b) Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
Lý luận gắn với thực tiễn, quá trình tác động, chuyển hóa giữa lý luận và
thực tiễn là nội dung quan trọng trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Thực
tiễn là toàn bộ hoạt động của con người, tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời
sống xã hội; lý luận là sự phản ánh thực tiễn sinh động, những kinh nghiệm, lý
thuyết được rút ra từ hoạt động thực tiễn của con người.

1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.391
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.71.

6


Phong cách tư duy thống nhất giữa lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh
được hình thành, phát triển trên cơ sở phép biện chứng duy vật chủ nghĩa
Mác -Lênin. Người khẳng định mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi
với hành, nói và làm thống nhất với nhau. Hồ Chí Minh xác định đúng đắn vai
trò của thực tiễn đối với lý luận, cũng như lý luận đối với thực tiễn. Người nói:
“Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo
thực hành” 1.

Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, một trong những phong cách tư duy
độc đáo, riêng biệt ở Hồ Chí Minh. Đây cũng là phong cách tư duy vừa có lý,
vừa có tình, tư duy đúng trước hết phải có lý, phù hợp với thực tế khách quan,
chân lý của thời đại. Hồ Chí Minh luôn phê phán, đấu tranh với lối tư duy rập khuôn,
máy móc, khô cứng, duy lý, không có sức thuyết phục, trong tư duy phải “thấu lý
đạt tình”.
Tư duy Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, hình thành
những luận điểm, quan điểm, tư tưởng, giải quyết những vấn đề đặt ra đối với
cách mạng Việt Nam. Do đó, có thể thấy phong cách tư duy Hồ Chí Minh điển
hình cho sự vận dụng phép biện chứng duy vật, lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất
phát, tiêu chuẩn hàng đầu của lý luận.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, cũng như
việc học tập lý luận, thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên tích cực học tập
và vận dụng sáng tạo lý luận, trên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Người chỉ ra những biểu hiện giáo điều của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí Minh lên án việc tiếp thu lý
luận theo kiểu thuộc lòng, từng câu, từng chữ và những người mắc
bệnh khinh lý luận, không thấy được vai trò của lý luận: “Không có lý luận
thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”2. Đúng như Lênin từng khẳng định, không
có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng, có một lý luận
tiên phong dẫn đường, đảng mới có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tiên phong
của mình.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò to lớn của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
đối với cách mạng nước ta, cái “cẩm nang thần kỳ”, kim chỉ nam cho mọi hành
động, con đường dẫn chúng ta tới thắng lợi cuối cùng, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Người là lãnh tụ thiên tài, tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trên tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, lý luận gắn với thực tiễn. Người nắm chắc bản chất cách mạng, khoa
học của lý luận Mác - Lênin, vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực

tiễn của cách mạng Việt Nam, không rập khuôn, máy móc. Theo Người tư duy
xa rời thực tiễn, điều kiện lịch sử cụ thể, hay tư duy kinh viện, lý luận suông, là
lối tư duy sơ cứng phủ nhận sự tiến bộ và phát triển.
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.120.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.274.

7


c) Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh có sự kế thừa và phát triển, cụ thể
và thiết thực
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, tiêu biểu cho phong cách
tư duy kế thừa và phát triển, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quá khứ, hiện
tại và tương lai. Người tiếp thu có chọn lọc, phát triển những yếu tố tích cực,
những hạt nhân hợp lý trong truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa phương
Đông và phương Tây, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người không sao chép, máy móc, cũng không
phủ định một cách giản đơn, sạch trơn, mà có sự phân tích sâu sắc tìm ra yếu tố
tích cực, phê phán những yếu tố tiêu cực, thủ cựu, làm giàu thêm vốn kiến thức và
hành trang của mình. Với phong cách tư duy kế thừa và phát triển làm cho Hồ Chí
Minh trở thành một nhà mác-xít chân chính, song cũng mang đặc điểm riêng của
dân tộc, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Phong cách tư duy kế thừa và phát triển, là trong tư duy luôn kế tiếp truyền
thống dân tộc Việt Nam hơn 4000 năm lịch sử, Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”1.
Hồ Chí Minh tiếp thu những hạt nhân hợp lý, yếu tố tích cực trong đạo

đức Nho giáo, đồng thời chỉ ra và phê phán những mặt tiêu cực, những yếu tố
hạn chế của đạo đức cũ. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất, đầu ngửng lên trời”2. Vì vậy, không nên tuyệt đối hóa dấu ấn Nho giáo trong
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh.
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, chịu tác động sâu sắc phong cách tư
duy của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh là tiêu biểu của phong cách tư duy
cụ thể và thiết thực. Đặc điểm này được thể hiện thông qua các tác phẩm, các
bài viết, bài nói, những luận điểm, quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Phong
cách tư duy cụ thể và thiết thực biểu hiện ngay ở phong cách làm việc, phong
cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt của Người.
Trong giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu
cầu cán bộ, đảng viên của Đảng phải bằng hoạt động thiết thực, những hành
động cụ thể, góp phần giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng đất nước giàu và mạnh, chứ không
phải tư duy chung chung, trừu tượng, xa rời điều kiện thực tiễn.
Từ phong cách tư duy cụ thể và thiết thực, năm 1946, nhằm bảo vệ chính
quyền non trẻ, Người chỉ ra nhiệm vụ của cách mạng là “diệt giặc đói, diệt giặc
dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Thi đua vì lợi ích của nhân dân và của đất nước, thi
đua không chỉ lấy thành tích mà quên mất lợi ích thiết thực của người dân, phải
“ích nước và lợi dân”.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.59.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.220.

2

8



d) Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh kiên định và linh hoạt
Kiên định và linh hoạt là đặc điểm nổi bật trong phong cách tư duy
Hồ Chí Minh, cũng là nghệ thuật chỉ đạo cách mạng, với sách lược linh hoạt,
mềm dẻo, song kiên định mục tiêu chiến lược đặt ra. Phong cách tư duy kiên
định và linh hoạt, còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình đấu tranh cách
mạng của Hồ Chí Minh, đòi hỏi vận dụng sáng tạo, phù hợp yêu cầu với thực
tiễn trong từng thời kỳ lịch sử.
Hồ Chí Minh cho rằng phải kiên định con đường cách mạng vô sản, mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định với vai trò lãnh đạo
của Đảng. Người nói: “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên,
lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”1.
Kiên định con đường cách mạng vô sản, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng, biểu hiện trong bất cứ không
gian, thời gian, mọi suy nghĩ, hành động của người cách mạng.
Tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, tùy hoàn cảnh cụ thể vận dụng
những hình thức, phương pháp phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao, tìm
tòi, đổi mới nội dung, phương pháp theo hướng nâng cao hiệu quả công việc.
Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kiên định và linh
hoạt, uyển chuyển trong phương pháp, song không xa rời nguyên tắc, không
cứng nhắc, dập khuôn máy móc.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, trước khi sang Paris làm thượng khách của
Chính phủ Pháp, Người căn dặn Cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch
Nước cần phải: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tư duy “Dĩ bất biến ứng vạn
biến”, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính nguyên tắc, sự kiên định, vững
chắc về mục tiêu chiến lược, đồng thời linh hoạt trong sách lược, phương
pháp đấu tranh.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Người mục tiêu chiến lược là bất
di bất dịch, nhưng tùy hoàn cảnh cụ thể của đất nước, tùy từng giai đoạn lịch sử,

đề ra sách lược phù hợp, linh hoạt đưa cách mạng đi lên.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; lý luận gắn với thực tiễn; kế
thừa và phát triển, cụ thể và thiết thực; kiên định và linh hoạt của Hồ Chí Minh,
có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau, là phong cách tư duy biện chứng,
khoa học, có ý nghĩa sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam.
II. ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH TƯ
DUY CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG QUÂN ĐỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Sự cần thiết đẩy mạnh học tập và làm theo phong cách tư duy của
Hồ Chí Minh trong quân đội giai đoạn hiện nay
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.603.

9


Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam, trong đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, cũng như
trong công cuộc đổi mới ngày nay. Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 8
tháng 7 năm 2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, học tập và làm theo
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh trong Quân đội là yêu cầu khách quan, làm
cho mỗi cán bộ, chiến sỹ hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách của
mình, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, trên cơ sở vững mạnh về chính trị.
Hiện nay tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; các nước,
nhất là những nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược theo hướng “vừa hợp
tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau” để bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc. Tranh chấp chủ quyền, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai,
khủng bố có chiều hướng gia tăng. Sau phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường

trực (PCA) về vụ kiện của Philippin đối với Trung Quốc, tình hình Biển Đông
có diễn biến phức tạp mới. ASEAN trở thành trung tâm an ninh, kinh tế, chính
trị; song nội khối đồng thuận chưa cao trong giải quyết một số vấn đề, nhất là
Biển Đông, biên giới; tình hình chính trị nội bộ một số nước không ổn định tác
động xấu đến quốc phòng, an ninh. Ở trong nước, các thế lực thù địch thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diexn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ... sử dụng chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta. Đối với quân đội chúng ráo riết thực hiện “phi
chính trị hoá” với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, nhằm tách quân đội ra
khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm lu mờ bản chất, truyền thống cách mạnh và hình
ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Công cuộc đổi mới thu được những thành tựu hết sức quan trọng, tạo ra
thế và lực mới, tăng cường sức mạnh của quân đội, tiềm lực quốc phòng, thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Song mặt trái của cơ chế thị trường, hội nhập
quốc tế, đã và đang tác động đến quân đội, ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách
tư duy, tư tưởng, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Hiện nay, kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
của Hồ Chí Minh chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận cán
bộ, chiến sỹ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng, khẳng định: “Việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào
chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn
mang tính hình thức”1.
Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị,
Chỉ thị 317-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tiếp tục đẩy
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr.193.


10


mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân
đội và toàn quân đã chỉ rõ những hạn chế, vướng mắc; đó là: Kết quả đạt được
một số lĩnh vực, nhiệm vụ chưa toàn diện, chưa tạo chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức trách nhiệm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Việc cụ thể hóa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
ở một số cơ quan, đơn vị chưa sát với chức trách nhiệm vụ của từng đối tượng
và đặc điểm, tình hình ở cơ quan đơn vị. Việc phát hiện, xây dựng, bồi dưỡng,
tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình ở một số đơn vị chưa thường
xuyên, chất lượng còn hạn chế.
Từ những hạn chế trên, đòi hỏi cần nhìn thẳng vào sự thật, khắc phục
triệt để những mặt còn tồn tại, nhằm xây dựng quân đội vững mạnh toàn
diện trong tình hình mới. Bởi vậy, đẩy mạnh học tập và làm theo phong cách
tư duy Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ trong quân đội là hết sức
quan trọng và cần thiết.
Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh làm cho cán bộ,
chiến sỹ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, ngang tầm nhiệm vụ, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Hơn lúc nào hết toàn quân phải ra sức phấn đấu, nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
2. Nội dung, biện pháp đẩy mạnh học tập và làm theo phong cách tư
duy của Hồ Chí Minh trong quân đội giai đoạn hiện nay
a) Đẩy mạnh việc học tập, nâng cao nhận thức phong cách tư duy của
Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội

Để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, mỗi cán bộ, chiến sỹ
phải nhận thức sâu sắc phong cách tư duy: độc lập, tự chủ, sáng tạo, lý luận thống
nhất với thực tiễn, kế thừa và phát triển, cụ thể và thiết thực, kiên định và linh hoạt
của Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh phải được gắn với
việc không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, năng lực công tác, ý thức trách
nhiệm, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật trong đơn vị. Nghiêm túc khắc phục những
hạn chế trong suy nghĩ và hành động, lời nói và việc làm, cả trong cuộc sống và
trong công tác.
Luôn đề cao và có ý thức tự rèn luyện, hoàn thiện bản thân trong hoạt
động quân sự, có phong cách tư duy biện chứng, khoa học, luôn xây dựng, giữ
vững lòng tin đối với mọi người trong đơn vị. Để có phong cách tư duy khoa
học đáp ứng nhiệm vụ xây dựng quân đội, cần đẩy mạnh việc học tập và làm
11


theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, lý luận thống nhất với thực
tiễn, thiết thực và cụ thể, linh hoạt và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh nằm trong tổng thể
của các hoạt động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội
Cụ Hồ”, với Phong trào Thi đua Quyết thắng, các cuộc vận động, các phong trào
của các cấp, các ngành... phê phán những biểu hiện chủ quan, nóng vội, giáo
điều, phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước đối với mọi cán bộ, chiến sỹ.
Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, chiến
sỹ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, đây là trách nhiệm của mỗi tổ
chức, cá nhân, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
b) Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, chỉ huy trong việc rèn luyện theo
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
Đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp trong quân đội có vai quan trọng đối với

sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, và “Muôn việc thành công
hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”1.
Người cán bộ, chỉ huy trong quân đội cần chủ động, tích cực học tập, rèn
luyện theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, đứng vững trên lập trường chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm chắc đường lối, quan điểm của
Đảng, hết lòng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, phục vụ quân đội, đấu tranh
cho lợi ích chung của tập thể, lợi ích chính đáng của mọi người trong đơn vị.
Đồng thời, không ngừng rèn luyện phong cách tư duy, nâng cao bản lĩnh chính
trị, độc lập, tự chủ, sáng tạo, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, nói đi đôi với làm,
thiết thực và cụ thể, kiên định và linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ.
Đổi mới phong cách tư duy trên tất cả các mặt công tác: quân sự, chính
trị, hậu cần, kỹ thuật... cho đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp, nhất là đối với đội
ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp trong quân đội, góp phần hoàn thành tốt
chức tránh, nhiệm vụ được giao. Bởi phong cách tư duy có vai trò chi phối, chỉ
đạo tất cả các hoạt động của người cán bộ, chỉ huy, hình thành phong cách sinh
hoạt, phong cách làm việc và các phong cách khác. Xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp trong quân đội có phong cách tư duy khoa học, cách mạng, nhạy bén,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm
nhiệm vụ.
Người cán bộ, chỉ huy phải thể hiện tính kiên định và nguyên tắc, chấp
hành nghiêm túc đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ
luật quân đội, quy định của đơn vị, linh hoạt, sáng tạo thực hiện các nhiệm vụ
được giao, nghiêm khắc với bản thân, bảo vệ cái đúng, đấu tranh phê phán
những biểu hiện tiêu cực và không phù hợp. Phát huy vai trò tiền phong gương
mẫu của mình, để mọi người noi theo, góp phần xây dựng và phát triển quân đội
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.280.


12


theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Với phương
châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, không sợ khó, sợ khổ, đi tiên
phong trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư, nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, làm có hiệu quả. Tạo môi
trường thuận lợi, cho đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp trong quân đội học tập và
rèn luyện theo phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
c) Phát huy vai trò của các tổ chức trong việc đẩy mạnh học tập và làm
theo phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
Để việc học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh đi vào chiều
sâu, đạt hiệu quả thiết thực, cần phát huy tốt hơn vai trò của các tổ chức trong
quân đội.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải khơi dậy lòng nhiệt tình, sự hăng say,
nhiệt huyết, tình cảm cách mạng, tinh thần vượt khó, không ngại gian khổ, của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từng bước đổi mới phương thức hoạt động của các
tổ chức đảng, phát huy tính tích cực, chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong học tập,
công tác của mỗi cán bộ, đảng viên. Coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, trong các tổ chức đảng. Làm
tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, gắn thực hiện
nhiệm vụ chính trị với xây dựng phong cách tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Tổ chức đảng các cấp có nghị quyết lãnh đạo sát đúng, quản lý chặt chẽ
đội ngũ cán bộ, đảng viên nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa đơn vị; duy
trì có chất lượng nền nếp đăng ký phấn đấu học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với cam kết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của
Đảng. Phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách,
thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây

mất đoàn kết nội bộ, hạn chế trong tư duy khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh trong thi hành kỷ luật đảng, kỷ luật quân
đội và pháp luật của nhà nước. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo
dục, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng viên, đấu tranh, phòng ngừa những vi phạm
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Phát huy vai trò của các tổ chức trong học tập và làm theo phong cách tư
duy của Hồ Chí Minh, xác định rõ phạm vi, trách nhiệm của trong thực hiện
nhiệm vụ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong đơn vị. Quan tâm xây
dựng, củng cố, kiện toàn hội đồng quân nhân, các tổ chức quần chúng vững
mạnh về mọi mặt. Mọi cán bộ, chiến sỹ cần tích cực tham gia sinh hoạt và hoạt
động trong các tổ chức, lắng nghe tiếp thu ý kiến đóng góp của quần chúng.
Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng trong quân đội luôn đặt mình trong
tổ chức, trong tập thể, tôn trọng tập thể và quy định của đơn vị. Mọi biểu hiện
chuyên quyền, độc đoán, dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, lợi dụng dân chủ
để “kéo bè, kéo cánh”, làm rối loạn kỷ cương, cầu danh, trục lợi, đứng trên tập
13


thể, đứng trên pháp luật Nhà nước, kỷ luật của quân đội, cần phải bị lên án và
loại bỏ.
d) Đấu tranh có hiệu quả bảo vệ tính đúng đắn, sáng tạo phong cách tư
duy của Hồ Chí Minh
Trong tình hình mới, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với
cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa và lý luận, coi đây là biện pháp quan trọng hàng đầu. Âm
mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhằm
xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của
Đảng, thực hiện “phi chính trị hóa quân đội”, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, lý luận diễn ra hết sức

quyết liệt, với nhiều nội dung, biện pháp khác nhau, nhất là kẻ thù tập trung
chống phá các nội dung trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Chúng đã và
đang tìm cách phủ nhận, xuyên tạc, thân thế, sự nghiệp, đời tư của Người, ảnh
hưởng đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin và trách nhiệm của cán bộ,
chiến sỹ.
Bên cạnh đó công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở một số đơn vị trong đấu tranh
chống các quan điểm thù địch, sai trái , thù địch về phong cách tư duy Hồ Chí
Minh, hiệu quả còn hạn chế. Việc phối hợp trong đấu tranh với những quan điểm
sai trái, đảm bảo thông tin, tư liệu, kinh phí, còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự
phát triển của tình hình.
Như vậy, song song với quá trình đẩy mạnh học tập và làm theo phong
cách tư duy Hồ Chí Minh, đòi hỏi phải lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh
với những quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay.
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh luôn khẳng định tính cách mạng, sự đúng
đắn, tính cách mạng, khoa học, giải đáp đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra,
có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, cần tích cực, chủ động tổ chức lực lượng, vận dụng phong phú các
hình thức, phương pháp đấu tranh, bảo vệ và phát triển những nội dung cơ bản
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh, định hướng nhận thức, củng cố niềm tin
cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội.
Để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch có hiệu quả, trước hết
mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng thường xuyên học tập và vận dụng sáng
tạo phong cách tư duy của Hồ Chí Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mới, thực
tiễn xây dựng quân đội, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
KẾT LUẬN
14


Phong cách tư duy Hồ Chí Minh mang tính biện chứng, khoa học, độc lập, tự

chủ, sáng tạo, lý luận thống nhất với thực tiễn, đồng thời có kế thừa và phát triển,
cụ thể và thiết thực, kiên định và linh hoạt. Việc đẩy mạnh học tập, làm theo theo
phong cách tư duy Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng đối với quân đội ta trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định, phải đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy về kinh tế. Qua các kỳ đại hội, nhất là Nghị quyết Đại hội lần
thứ XII của Đảng cũng chỉ ra, tiếp tục đổi mới phong cách tư duy, lề lối làm việc
của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5
năm 2016 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 8 tháng 7 năm 2016
của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó học tập và làm theo phong cách tư
duy của Người có ý nghĩa thiết thực cả trước mắt và lâu dài, nhằm làm cho cán
bộ, chiến sĩ trong toàn quân hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp
phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại./.

Chuyên đề 2
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CỦA HỒ CHÍ MINH
LỜI NÓI ĐẦU
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là một nội dung, bộ phận quan trọng
hợp thành hệ thống chỉnh thể phong cách của Người; là một trong những di sản vô
giá mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Phong cách làm việc
của Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung rất phong phú, được hình thành, phát
triển gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của Người. Phong
cách làm việc của Người là bài học, là chuẩn mực cho việc giáo dục, rèn luyện xây
dựng phong cách làm việc cho các thế hệ cán bộ, đảng viên, quần chúng hôm nay
và mai sau.
NỘI DUNG
I. PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm phong cách làm việc và phong cách làm việc Hồ Chí Minh

a) Khái niệm phong cách làm việc
15


Theo cách hiểu chung, phong cách làm việc là phong thái và cách điệu
làm việc. Còn theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt 1 về Phong cách và kế
thừa tinh thần luận bàn về phong cách làm việc trong các công trình khoa học
đã công bố, chúng ta có thể quan niệm: Phong cách làm việc là lề lối, cung
cách, cách thức làm việc riêng, tiêu biểu, ổn định của một người, một lớp
người trong thực hiện nhiệm vụ.
Trong cuộc sống, mỗi người đều có phong cách làm việc của mình. Dù
hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì phong cách làm việc bao giờ cũng là cái
riêng, tiêu biểu có tính hệ thống, ổn định và phản ánh nét đặc trưng của một con
người cụ thể. Đó là lề lối, cung cách, cách thức làm việc ổn định, mang sắc thái
của mỗi người. Phong cách làm việc là cái đời thường, dung dị, nhưng phản ánh
các phẩm chất bên trong của một con người. Phong cách làm việc cũng thể hiện
phẩm chất, năng lực, tính cách của một con người.
Phong cách làm việc của mỗi người phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, khí chất của họ; vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, điều kiện làm việc, sinh hoạt; sự giáo dục, rèn luyện, sự trải
nghiệm thực tiễn… Phong cách làm việc không phải là cái bẩm sinh, có sẵn, mà
được hình thành từ sự phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện không ngừng của mỗi người.
Phong cách làm việc có liên quan chặt chẽ với đạo đức; đạo đức được thể
hiện qua phong cách làm việc; qua phong cách làm việc có thể đánh giá được
đạo đức, đánh giá được nhân cách của một con người. Do đó, xây dựng một
phong cách làm việc mới, phong cách làm việc mang tính cách mạng và khoa
học là công việc của mỗi người phải phấn đấu bền bỉ suốt đời.
Đối với mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên, phong cách làm việc không
đơn giản là việc riêng của họ mà là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng lãnh
đạo và uy tín của tổ chức, của Đảng, của Nhà nước. Phong cách làm việc của

cán bộ, đảng viên là yếu tố đặc biệt trọng yếu trong bảo đảm tính chính xác của
việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định đó; đồng thời, tác động
trực tiếp đến việc xây dựng, củng cố khối đoàn kết nội bộ và mối liên hệ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cán bộ, đảng viên càng giữ cương vị cao, ảnh
hưởng của các quyết định lãnh đạo, quản lý của họ càng rộng lớn thì phong cách
làm việc càng có ý nghĩa quan trọng.
b) Khái niệm phong cách làm việc của Hồ Chí Minh
Giá trị và ảnh hưởng to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với Đảng, với
dân tộc Việt Nam và quốc tế được tạo nên bởi nhiều nhân tố, trong đó phải nói
tới phong cách làm việc của Người. Đó là phong cách làm việc mẫu mực của
một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính, thể hiện rõ sự thống nhất biện
chứng giữa tính chính trị - giai cấp, tính khoa học, vừa thấm nhuần chủ nghĩa
nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của nhà văn hoá lớn. Phong
cách làm việc của Hồ Chí Minh dựa trên nguyên tắc “bất biến” là mọi quyền
1

Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.

16


lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc phục tùng tổ chức, đoàn thể
cách mạng. Bởi thế, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng
của một vĩ nhân, bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, nhưng lại không xa lạ, khác
thường, mà là cái mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng có thể học tập và làm
theo. Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh được thể hiện qua tư tưởng và thực
tế làm việc của Người.
Nghiên cứu những bài viết, bài nói và từ trong thực tiễn làm việc của Người, có
thể quan niệm: Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức
làm việc có tính khoa học, mang đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh, được thể hiện chủ

yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
của cách mạng.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức làm
việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần
chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã tác động vào quần
chúng nhân dân bằng một tác phong sâu sát, với cách thức phù hợp để phát huy
cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc
quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân lãnh tụ và quần chúng nhân
dân của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ phẩm chất đạo đức cách mạng trọn đời hết
lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân như tâm nguyện
của Người.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh không chỉ là triết lý hành động, mà
còn là tấm gương mẫu mực để mọi người học tập, phấn đấu và noi theo bởi
những giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, bền vững và có sức lan tỏa vô cùng lớn.
2. Những đặc trưng chủ yếu trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh
a) Phong cách làm việc dân chủ
Phong cách làm việc dân chủ, hay “cách làm việc dân chủ” là đặc trưng chủ
yếu, nổi bật trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh. Sinh thời, Người luôn
yêu cầu cán bộ, đảng viên trong công tác phải xây dựng, rèn luyện tác phong làm
việc dân chủ. Bởi theo Người, trong công tác lãnh đạo, quản lý mà thực hành được
dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người
thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sức mạnh, sự
đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết thắng lợi
các nhiệm vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, trong chế độ ta “dân là chủ” và khi
dân là chủ thì cách lãnh đạo phải dân chủ. Người cho rằng, không một người nào
có thể hiểu được mọi thứ, làm hết được mọi việc. Ngay đến anh hùng, lãnh tụ
cũng vậy: “Đem so với công việc của cả loài người trong thế giới, thì những
người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua làm tròn một bộ phận mà thôi” 1. Do
đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải biết cách tập hợp được tài năng, trí tuệ của

nhiều người, của tập thể để phấn đấu cho mục tiêu chung. Mà muốn làm được
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 296.

17


như vậy phải tạo ra được một không khí dân chủ thực sự trong nội bộ. Thực hành
dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Người nhấn mạnh:
“Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới
làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen
ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. Và
trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt,
cũng tự sửa chữa được nhiều”1.
Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ, đảng viên không chỉ được Chủ
tịch Hồ Chí Minh xác định trong quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân,
mà còn trong quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa lãnh đạo với cán bộ, đảng
viên bình thường. Đối với người cán bộ dù ở cương vị lãnh đạo nào, hiểu dân và
hiểu cấp dưới đều có tầm quan trọng như nhau. Hiểu dân là để hiểu cấp dưới
được chính xác hơn, hiểu cấp dưới là để hiểu dân đầy đủ hơn. Càng gần dân,
hiểu dân và hiểu cấp dưới, người cán bộ lãnh đạo càng hiểu chính mình, có thêm
điều kiện để hoàn thiện các chủ trương, chính sách và có được phương pháp
công tác hữu hiệu.
Với cán bộ lãnh đạo, Người chỉ rõ: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm
và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì
bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng
những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà
trong Đảng. Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm
chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có

gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng.
Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức,
không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản”2.
Tuy nhiên, cách làm việc dân chủ không có nghĩa là mạnh ai nấy làm, mà
phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” hay còn gọi
là nguyên tắc “dân chủ tập trung”. Người phân tích: Phải tập thể lãnh đạo vì một
người có khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến mấy cũng chỉ
trông thấy, chỉ xem xét được một hay nhiều mặt của một vấn đề. Vậy nên phải có
nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người thì thấy rõ mặt này, người
thì thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều
người thì vấn đề được thấy rõ mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy
mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm. Có thể nói, tập thể lãnh đạo là phương
pháp đảm bảo dân chủ nhất, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng bao biện, độc đoán,
chủ quan.
Đối lập với phong cách làm việc dân chủ là phong cách làm việc quan
liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ quan liêu, những
người “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ.
Miệng thì nói "phụng sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 284.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 320.

18


quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính
phủ”1. Người chỉ rõ, nguyên nhân của căn bệnh quan liêu là xa nhân dân, khinh
nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân,

không yêu thương nhân dân. Để chữa căn bệnh quan liêu, Người khuyên cán
bộ phải: “Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều là: Đặt lợi ích nhân dân lên
trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải
thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân
dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự
mình phải làm gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính để nhân dân noi theo” 2.
Một vấn đề quan trọng trong phong cách làm việc dân chủ của Hồ Chí Minh
là phải chống chủ nghĩa cá nhân. Người phê phán chủ nghĩa cá nhân, cho đó là
một thứ vi trùng phá hoại cơ thể người cán bộ, đảng viên, làm cho họ không thể
làm việc gì cho sự nghiệp cách mạng, dù người đó tài giỏi mấy.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về phong cách làm việc dân chủ. Dù
ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, có uy tín tuyệt đối trong Đảng và trong
nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn giữ phong cách làm việc dân chủ với Bộ chính trị và
các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể cách mạng, chú ý lắng
nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và người dân bình thường. Đến những năm
cuối đời, Người vẫn thường làm việc với Bộ Chính trị vào những ngày 01 và 15
hằng tháng để bàn bạc trao đổi tập thể về những công việc của Đảng và Nhà
nước, cùng góp ý kiến phê bình một cách nhẹ nhàng thoải mái, nhưng rất hiệu
quả. Nhiều bài viết của Người đã được chuyển đến các đồng chí lãnh đạo chủ
chốt đọc và góp ý kiến trước khi công bố. Người còn trao đổi với cả các đồng
chí phục vụ hằng ngày về những bài báo ngắn, để sửa chữa những chỗ còn khó
hiểu trước khi đăng. Người trân trọng ý kiến của mọi người không phân biệt
chức vụ, cấp bậc cao hay thấp. Trong công tác lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Người đã sử dụng nhiều cơ quan, nhiều tổ chức chuẩn bị những việc cần thiết.
Trước khi quyết định, Người đều hỏi lại cẩn thận, chu đáo những người đã giúp
mình. Tất cả những ai đã được Người giao việc đều cảm nhận sâu sắc điều đó.
b) Phong cách làm việc khoa học
Một nét đặc sắc trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là làm việc
có tính khoa học. Người làm việc tận tâm, tận lực, hầu như không có thời gian
nghỉ rỗi, làm việc với lòng nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân nhưng với

cách làm việc rất khoa học. Ở đây có một sự thống nhất hài hòa trong con người
Hồ Chí Minh với cả tư cách của nhà cách mạng và nhà khoa học. Phong cách
làm việc khoa học của Hồ Chí Minh đối lập hoàn toàn và xa lạ với lề lối, cách
thức làm việc mang nặng cảm tính chủ quan, phất phơ, cốt cho hết ngày, không
quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc; làm việc một cách tự do, tùy tiện,
được chăng hay chớ, thiếu kế hoạch; thiếu ngăn nắp, luộm thuộm, lề mề, chậm
chạp, không coi trọng thời gian, lãng phí sức người sức của; làm việc thiếu tầm
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 176.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 177.

19


nhìn xa trông rộng… Những biểu hiện như thế đã được Người chỉ ra và yêu cầu
cán bộ, đảng viên phải kiên quyết khắc phục sửa chữa.
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh thể hiện trên những điểm
cơ bản sau đây:
- Làm việc phải có mục đích rõ ràng, biết quý trọng thời gian, giờ nào việc ấy.
Nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đã để lại cho chúng ta một tác
phong thiếu khoa học, “làm việc theo lối thủ công nghiệp” 1. Đó là hàng loạt
những thói quen như tự do, tùy tiện, được chăng hay chớ, không coi trọng thời
gian, thiếu nhìn xa trông rộng, ... Hồ Chí Minh phê phán những hiện tượng này
và yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên làm việc phải có mục đích rõ ràng, vì theo
Người: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không
bắn trúng đích nào”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở chúng ta phải biết quý
trọng thời gian, làm việc phải đúng giờ. Những năm tháng đi làm thuê trên

những con tàu viễn dương, hay đốt lò, quét tuyết, phụ bếp ở Lơ Havrơ, Niu
Yoóc, Bostơn, Luân Đôn... nếu không tự mình coi trọng thời gian, tranh thủ thời
gian, quyết tâm theo đuổi một chí lớn, thì Người đã không thể tiến hành việc tự
học cực kỳ gian khổ như Người đã kể lại. Người đã tiến hành việc tự học không
có thầy, không phương tiện, không thời gian. Cần học chữ nào, Người viết lên
cánh tay, vừa đi vừa xem, đến cuối ngày chữ bay dần hết cũng là lúc Người đã
nhớ được hết. Đêm khuya khi những người khác có thể rượu chè, cờ bạc, Người
đã tranh thủ ngồi học.
Cuộc sống của một người lao động làm thuê ở những nước công nghiệp
phương Tây đã tạo cho Người một thói quen làm việc biết quý trọng thời gian và
phải sắp xếp công việc hằng ngày có kế hoạch cho đến từng buổi, từng giờ. Khi
đã trở thành một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh đã định
hình được một tác phong khoa học trong công tác, trong lãnh đạo trên các cương
vị mà Người đã đảm nhiệm.
- Chương trình, kế hoạch đặt ra trong làm việc phải sát hợp.
Hồ Chí Minh vẫn luôn dạy cán bộ, đảng viên phải đặt kế hoạch cho sát,
cho phù hợp. Kế hoạch đặt ra để mình và mọi người thực hiện chứ không phải
để chiêm ngưỡng, đánh trống bỏ dùi. Một trong những hạn chế, khuyết điểm của
cán bộ, đảng viên, nhất là của những người lãnh đạo mà Người đã chỉ ra là:
“Chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Đặt ra kế hoạch và
chương trình không xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và
chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng không
triệt để”3.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 16.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 463.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 463.

2

20


Khi ra các quyết định phải có thông tin đầy đủ và bảo đảm có phương án
thực thi hiệu quả, không chủ quan duy ý chí, phải xây dựng thói quen tôn trọng
thực tế khách quan, không bóp méo sự thật, làm việc với tầm nhìn xa trông rộng
trên cơ sở dự báo khoa học về tình hình có liên quan để tránh bị động bất ngờ và
tránh xa vào công việc mang tính sự vụ thiển cận. Người đã phê phán gay gắt
những cán bộ mắc “Bệnh cận thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to
tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ… Những người như
vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”1.
Trong cán bộ, đảng viên thường có một khuyết điểm là đầu tư nhiều công
sức vào việc vạch ra chương trình, kế hoạch to tát, nhưng lại ít tìm cách để thực
hiện cho được kế hoạch, chương trình đã đề ra. Hơn nữa chương trình, kế hoạch
này chưa xong, chưa biết kết quả thực hiện ra sao đã nghĩ đến chương trình kế
hoạch khác. Vì vậy, Người thường nhắc nhở cán bộ: Kế hoạch một, biện pháp
mười, quyết tâm phải hai, ba mươi, muốn lãnh đạo đúng thì "phải tổ chức sự thi
hành cho đúng"2. Nếu chương trình kế hoạch có hay đến mấy, nhưng tổ chức thi
hành không đúng, thiếu biện pháp thích hợp, bản thân mình thiếu quyết tâm
hoặc không biến quyết tâm của lãnh đạo thành quyết tâm của quần chúng, thì
mọi chương trình, kế hoạch đều không trở thành hiện thực.
- Phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
Đây chính là tinh thần mà V.I.Lênin đã đề ra: Lãnh đạo mà không kiểm tra,
có nghĩa là không lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã lưu ý: “nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ
lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì
đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì,
dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm
rất to. Vì thế mà "đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị" mà công việc vẫn

không chạy”3.
- Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm.
Trong công tác lãnh đạo, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tổng kết thực
tiễn để rút kinh nghiêm từng việc, từng chủ trương, thấy rõ hay dở, đúng sai; từ
đó để bổ sung kịp thời những chủ trương chưa đúng, chưa đủ, và quan trọng hơn
là rút ra những kết luận mới để bổ sung cho lý luận. Vì vậy, Người căn dặn:
“Sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm riêng từng cán bộ,
từng địa phương. Kinh nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh
nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến những
kinh nghiệm ấy cho khắp tất cả cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi cán bộ, mỗi địa
phương sẽ học những kinh nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng
những kinh nghiệm cũ vào những công việc mới”4.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 297 - 298.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 325.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 636 - 637.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 238.
2

21


Không chỉ là lời huấn thị, là quan điểm về cách làm việc khoa học, mà
bản thân Người là một mẫu mực, là hiện thân tiêu biểu và cao đẹp nhất về
phong cách làm việc khoa học của người cán bộ, đảng viên. Trước yêu cầu
mới của sự nghiệp cách mạng, khi mà đất nước đang mở rộng giao lưu, hợp

tác quốc tế thì việc bồi dưỡng, rèn luyện tác phong làm việc khoa học cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta nói chung, trong quân đội nói
riêng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, góp phần hoàn thành thắng lợi sự
nghiệp cách mạng của Đảng.
c) Phong cách làm việc kỹ lưỡng
Phong cách làm việc kỹ lưỡng là cách làm việc kỹ, cẩn thận, không để cho
có sai sót. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã có nhiều giáo huấn rất sâu sắc và chính
Người là tấm gương mẫu mực cho cán bộ, đảng viên. Người căn dặn: “Có việc gì,
phải bàn tính kỹ lưỡng”1, “Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ
làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”2. Bởi theo Người: “Chỉ cảm giác thôi không đủ.
Muốn hiểu biết toàn bộ một sự vật, hiểu biết bản chất và quy luật nội bộ của nó, thì
phải suy xét kỹ lưỡng”3; và “Phải xem xét kỹ lưỡng, hiểu biết rõ ràng các thứ và
các mặt mâu thuẫn, mới tìm được cách giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn, cách
mạng mới thành công”4.
Theo Hồ Chí Minh, cách làm việc kỹ lưỡng là “đơn thuốc” chữa bệnh làm
việc máy móc hữu hiệu nhất. Vì vậy, đối với mỗi tổ chức, mỗi con người, Người
căn dặn:
“Bất kỳ việc to việc nhỏ:
Phải xem xét kỹ lưỡng,
Phải bàn bạc kỹ lưỡng,
Phải hỏi dân kỹ lưỡng,
Phải giải thích kỹ lưỡng cho dân,
Phải luôn luôn gần gũi dân.
Mong rằng các cán bộ ta cố gắng chữa hết bệnh máy móc, thì mọi việc sẽ
đều thành công mau chóng”5.
Phong cách làm việc kỹ lưỡng của Hồ Chí Minh còn là cách làm việc phải
biết xem xét trước sau, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể... Trong bài nói
chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, Người cho rằng: “Đối với công việc phải thế
nào? Trước hết, phải nghĩ cho kỹ, có việc làm trước mắt thành công nhưng thất
bại về sau. Có việc địa phương này làm có lợi nhưng hại cho địa phương khác.

Những cái như thế phải tránh… Phải có kế hoạch bước đầu làm thế nào? Bước
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 448.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 279.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 127.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 560.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 308.
2

22


thứ hai làm thế nào? Bước thứ ba làm thế nào? Thành công thì thế nào? Nếu thất
bại thì thế nào? Mỗi ngày lúc sáng dậy, tự hỏi mình ngày hôm nay phải làm gì?
Tối đi ngủ phải tự hỏi mình ngày hôm nay đã làm gì?”1.
Đối với những vấn đề mới, phức tạp, quan trọng đặc biệt, có ảnh hưởng lớn
tới đời sống xã hội thì càng cần phải kỹ lưỡng. Không ra quyết định khi chưa có
thông tin đầy đủ, chưa có phương án tính toán hiệu quả. Tránh chủ quan, duy ý chí.
Trong thư gửi hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc Người chỉ đạo: “Thảo
luận kỹ lưỡng những vấn đề rất quan trọng như: Chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy
chính quyền; sửa đổi và thống nhất cách làm việc; thiết thực thực hiện quân dân
chính nhất trí; giải quyết vấn đề cán bộ; chỉnh đốn và đẩy mạnh phong trào Thi đua
ái quốc”2.
Theo Hồ Chí Minh, làm việc kỹ lưỡng là “phải cẩn thận”, nhưng “cẩn
thận không phải là nhút nhát do dự” 3, mà phải chủ động nắm thời cơ cách mạng
để làm việc có hiệu quả nhất. Người nhấn mạnh: “Lênin dạy chúng ta đối với

mọi việc phải xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, không nóng nảy, hấp tấp. Song khi đã
định kế hoạch hẳn hoi rồi thì phải quả quyết thực hiện cho kỳ được”4.
Phong cách làm việc kỹ lưỡng của Hồ Chí Minh, nó đối lập với cách làm
việc qua loa, sơ sài. Người cho rằng: “Tất cả các nghị quyết của Đảng phải do
cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được
làm qua loa, sơ sài”5. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, Người cũng căn dặn: “khi
chúng ta phụ trách một công việc gì, bất kỳ to nhỏ, chúng ta cũng phải luôn luôn
nhớ đến việc đó quan hệ với cách mạng, ảnh hưởng đến cách mạng. Chúng ta
phải đưa toàn tâm toàn lực làm cho thành công, làm trọn nhiệm vụ. Chỉ làm cho
xong chuyện, làm qua loa, tức là có hại cho cách mạng, có hại đến nhân dân” 6.
Vì vậy, “Phải làm khẩn trương, nhưng tuyệt đối tránh nóng vội, qua loa”7.
d) Phong cách làm việc cụ thể
Một trong những nội dung biểu hiện đặc trưng phong cách làm việc của
Hồ Chí Minh đó là cách làm việc cụ thể, rõ ràng, không chung chung. Đây là
yếu tố rất quan trọng trong phong cách làm việc của một người cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để có quyết định đúng, người cán bộ,
đảng viên phải có phong cách làm việc cụ thể. Cụ thể thì mới hiểu rõ tình
hình công việc, hiểu rõ tình hình cấp dưới, từ đó mới đưa ra được quyết định
đúng đắn. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng “nồi vuông úp vung tròn”, tức
hỏng việc.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 68 - 69.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 323.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 69.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 288.
5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr. 287.
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr. 405.
7
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 14, tr. 44.
2

23


Phong cách làm việc cụ thể đòi hỏi “Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp
thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình” 1, “phải chân đi,
mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ” 2, “Cần phải lãnh đạo toàn
diện và cụ thể” 3, “phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời” 4. Hồ Chí Minh đã
phê phán bệnh hữu danh vô thực của cán bộ, đảng viên: “Làm việc không
thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có
chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho
oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch... Thế là dối trá với Đảng, có tội với
Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh
rất nguy hiểm” 5.
Phong cách làm việc cụ thể đòi hỏi phải “đi sâu đi sát, điều tra nghiên
cứu” , nắm việc, nắm người, nắm tình hình cụ thể. Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
biết sử dụng bộ máy, sử dụng những người cộng sự, những cơ quan giúp việc để
nắm được những thông tin cần thiết, chính xác, sàng lọc những thông tin sai
lệch, những báo cáo dối trá, những phản ảnh lựa chiều thiếu trung thực. Phải
xem xét, đối chiếu, so sánh những ý kiến khác nhau để lựa chọn cái đúng, không
nhầm lẫn đúng với sai. Kết hợp việc điều tra nghiên cứu của bộ máy giúp việc
và của người lãnh đạo; người lãnh đạo phải tỉnh táo, khách quan để đòi hỏi bộ
máy và chính bản thân mình: “Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây” 7.
Phải dựa vào kết quả điều tra, nghiên cứu chính xác, phải nắm chắc, phải

"hiểu thấu" vấn đề mới đi đến quyết định đúng đắn. Nếu cán bộ lãnh đạo, quản
lý quyết định sai, cấp dưới và quần chúng càng tích cực thực hiện thì hậu quả
càng lớn, tổn thất càng nhiều.
6

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về phong cách làm việc cụ
thể; Người đã có những quyết định đúng đắn đối với các vấn đề của cách mạng
Việt Nam, do nắm vững tình hình của đất nước mình và của thế giới. Trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, ngoài việc nắm bắt những thông tin qua báo
chí, từ báo cáo của các ngành các địa phương, Người luôn gần gũi với cuộc sống
của nhân dân để lắng nghe những ý kiến và nguyện vọng của dân. Trong 15 năm
sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, Người đã hơn bảy trăm lần đi thực tế xuống
các cơ sở, Người thường tranh thủ mọi cơ hội để đi thăm các địa phương, nông
trường, nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà trẻ, đơn vị quân đội, cơ
sở Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội... có những cơ sở Bác đến
thăm nhiều lần. Bác muốn hiểu tâm tư tình cảm của đồng bào, đồng chí và muốn
biết cuộc sống của người dân, chiến sĩ… như thế nào? Bác thường đến thăm một
cách bất ngờ không báo trước để thấy thực chất tình hình cơ sở chứ không nghe
báo cáo. Khi xuống cơ sở, điều Bác quan tâm đầu tiên là xem nhà ăn tập thể,
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 10, tr. 213.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 249.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 13, tr. 91.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 625.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 297.
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 13, tr. 91.
7
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 319.
2

24


khu vệ sinh, nơi ở trước rồi mới ra hội trường nói chuyện với mọi người.
Đối với đồng bào ở nông thôn, Bác rất chú ý đến những ngày tháng giáp hạt và
đòi hỏi các đồng chí có trách nhiệm phải nắm chắc tình hình, có sẵn biện pháp
để đề phòng. Trong những chuyến đi thăm cơ sở Người luôn lắng nghe những
kiến nghị của quần chúng và đề ra những sáng kiến quan trọng, những ý kiến chỉ
đạo sâu sắc, những gợi ý thiết thực, đòi hỏi mọi người có liên quan suy ngẫm và
tìm mọi cách thực hiện cho được. Điều đáng chú ý là những ý kiến lớn của Bác
không phải là những bài diễn văn dài dòng mà thường được Bác diễn đạt cụ thể,
ngắn gọn bằng những cách nói dân gian, những quan điểm triết lý truyền thống
rất trúng, rất hay, dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ thực hiện.
Người nhiều lần phê phán tệ quan liêu xa rời quần chúng, xa rời thực tế
cuộc sống, thói lên mặt quan cách mạng, mệnh lệnh, cửa quyền, ức hiếp đối với
quần chúng ở một số cán bộ lãnh đạo, đảng viên. Mỗi chuyến đi thăm đồng bào,
cơ sở, Người đều để lại những ấn tượng sâu sắc, gần gũi đối với mỗi người dân.
Người gặp gỡ bà con nông dân ngay trên đồng ruộng, bỏ dép, xắn quần lội
xuống nơi bà con đang cấy để thăm hỏi bà con, cùng tát nước chống hạn, cuốc
đất trồng cây như một lão nông quen việc đồng áng...
e) Phong cách làm việc tới nơi, tới chốn
Phong cách làm việc tới nơi, tới chốn là cách làm việc chu đáo, triệt để,
không bỏ dở. Tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh là một mẫu mực về
“đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn”1.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoạt động lãnh đạo thường được thông

qua nhiều khâu, nhiều tổ chức với những cơ chế làm việc đa dạng, phức tạp nên
dễ sinh ra cách làm việc không tới nơi, tới chốn, gây mất uy tín của Đảng, Nhà
nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân và tạo sơ hở cho các phần tử xấu lợi
dụng. Để chữa cách làm việc không tới nơi, tới chốn, bệnh hình thức, xây dựng
phong cách làm việc thiết thực, người cán bộ lãnh đạo khi ra các quyết định, kế
hoạch cần căn cứ vào tình hình thực tế, năng lực của tổ chức, của đội ngũ cán
bộ, trình độ, thói quen, tâm lý, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, luôn tính
đến hiệu quả công việc, chỉ nói những điều cần thiết, chỉ hứa những điều có thể
làm, điều nhất định làm. Đã ra nghị quyết là phải chỉ đạo làm đến nơi, đến chốn,
kiểm tra ráo riết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những cán bộ vạch ra “Chương trình
công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực” 2. Theo Người, để vạch kế hoạch
một cách thực sự khoa học, người cán bộ “phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt
công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm,
không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc
chính, lộn xộn, không có ngăn nắp” 3. Một việc chính có thể có nhiều cách thực
hiện. Người yêu cầu cán bộ: Chủ trương một, biện pháp mười, quyết tâm phải
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 131.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 463.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 332.
2

25


×