Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.37 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG
ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN
*****

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------------------

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO: ĐẠI HỌC

LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY

1. TÊN HỌC PHẦN:
Tiếng Việt: Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ
Tiếng Anh: Foreign investment and technology transfer
Mã học phần:

Tổng số tín chỉ: 3

2. BỘ MÔN PHỤ TRÁCH GIẢNG DẠY: Kinh tế đầu tư
3. ĐIỀU KIỆN HỌC TRƯỚC:
Môn Kinh tế đầu tư
4. MÔ TẢ HỌC PHẦN:
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội. Các nguồn này bao gồm đầu
tư trực tiếp (FDI) và đàu tư gián tiếp. Trong các hình thức đầu tư gián tiếp thì nguồn vốn
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) chiếm tỷ trọng cao nhất đồng thời cũng là nguồn vốn
có tác động mạnh nhất. Môn học tập trung nghiên cứu hai nguồn vốn đầu tư nước ngoài
là FDI và ODA từ góc độ nước nhận đầu tư. Đặc biệt trong hoạt động FDI thì phần lớn
các nguồn lực mà các nhà đầu tư nước ngoài mang vào nước nhận đầu tư là công nghệ,


do đó chuyển giao công nghệ được coi là một hoạt động tất yếu khách quan trong các dự
án FDI. Môn học nghiên cứu các vấn đề lý luận của những hoạt động này đồng thời
thông qua thực tiễn Việt Nam đánh giá những tác động tích cực cũng như tiêu cực tới sự
phát triên kinh tế và xã hội trong hơn 20 năm tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
5. MỤC TIÊU HỌC PHẦN:
Học phần cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về hoạt động đầu tư nước ngoài, cụ
thể là hiểu biết các lý thuyết về đầu tư nước ngoài, đặc điểm của các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, đánh giá được tác động của nguồn vốn này đối với nước nhận đầu tư. Sinh
viên nắm được những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chuyển giao công nghệ thông
qua đầu tư nước ngoài. Từ đó, sinh viên có thể tiếp tục nghiên cứu thực tiễn các hoạt
động này ở Việt Nam.
6. NỘI DUNG HỌC PHẦN:

1


PHÂN BỔ THỜI GIAN
STT
1
2
3
4
5

Nội dung
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4

Chương 5
Tổng số

Tổng số tiết
3
9
6
4
8
30

Trong đó
Ghi chú
Lý thuyết
Thảo luận
3
0
7
2
4
2
4
0
6
2
24
6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHẸ

Đầu tư nước ngoài là một hoạt động mang tính tất yếu trong nền kinh tế của mọi quốc
gia trên thế giới trong xu thế họi nhập. Xét trên gó độ một quốc gia thì đầ tư nước ngoài
bao gồm đầu tư của nước khác vào quốc gia này và đầu tư của quốc gia này ra nước
ngoài. Phạm vi nghiên cứu của môn học là tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư từ
nước ngoài vào một quốc gia. Trong chương này sinh viên sẽ làm quen với các khái niệm
về đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, phân biệt được sự khác nhau giữa đầu
tư trong nước với đầu tư nước ngoài, giữa chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước
ngoài và chuyển giao công nghệ thông thường.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Đặc điểm
1.2. Phân loại đầu tư nước ngoài
1.2.1. Đầu tư gián tiếp nươc ngoài
1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3. Chuyển giao công nghệ
1.3.1. Khái niệm
1.3.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ
1.4. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế thế giới
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân,2010, chương 1 và 3
2. Giáo trình Đầu tư quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2001, chương 1
3. Đặng Kim Nhung, Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường, NXB
Nông nghiệp, 1992, chương 1

CHƯƠNG 2: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

2


Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang giữ một vai trò quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, từ những nước rất phát triển như Mỹ,
các nước EU đến các nước đang phát triển như Trung Quốc hay Việt Nam. Động cơ nào
khiến cho phần lớn các quốc gia trên thế giới tăng cường thu hút nguồn vốn này? Bên
cạnh những “cái được” từ việc thu hút nguồn vốn này thì không ít vấn đề mà các nước
đang phát triển phải đối mặt. Chương này sẽ giúp sinh viên giải đáp những câu hỏi trên.
2.1. Lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô
2.1.2. Các lý thuyết vi mô
2..2. Phân loại hoạt động FDI
2.2.1. Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn
2.2.2. Phân loại theo mục tiêu đầu tư
2.2.3. Phân loại theo phương thức đầu tư
2.3. Tác động của nguồn vốn FDI tới nước nhận đầu tư
2.3.1. Những tác động tích cực
2.3.2. Những tác động tiêu cực
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Thương mại, Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, 2004, chương 6
2. Giáo trình Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân,2010, chương 3
3. Giáo trình Đầu tư quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2001, chương 2,6,7
4. Trang web của một số công ty xuyên quốc gia như Coca Cola, Honda, Intel,
Canon,...
5. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Đầu tư trực
tiếp nuốc ngoài www.fia.mpi.gov.vn

CHƯƠNG 3: NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
Hỗ trợ phát triển chính thức là một trong nhiều hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài,
nguồn vốn này do chính phủ các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế cung cấp cho các
quốc gia nghèo như một khoản vay có ưu đãi. Mặc dù đều có vai trò quan trọng đối với
các nước nghèo song ODA và FDI là 2 nguồn vốn rất khác biệt nhau, có liên quan chặt
chẽ với nhau. Chương này sẽ phân tích các đặc điểm và vai trò của nguồn vốn ODA

thông qua các ví dụ thực tiễn của Việt Nam.
3.1. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
3.1.1. Tính ưu đãi
3.1.2 Tính ràng buộc
3.1.3. Khả năng gây nợ
3.2. Phân loại nguồn vốn ODA
3.3. Tác động của nguồn vốn ODA tới nước nhận đầu tư

3


Tài liệu tham khảo:
1. Trang thông tin điện tử của WB, ADB, JICA, OECD
2. Helmut Führer, Director of the Development Co-operation Directorate from
1975- 1993, The Story of Official Development Assistance, OECD 1994.
3. Trang thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao Nhật Bản
www.mofa.go.jp/policy/oda/summary
4. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Hợp tác tác
phát triển www.mpi.gov.vn/odavn/

CHƯƠNG 4: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Công nghệ là một nguồn lực quan trọng mà các nhà đầu tư thường di chuyển sang quốc
gia khác trong quá trình thực hiện đầu tư ở nước ngoài. Việc tiếp nhận công nghệ mang
lại nhiều thuận lợi cho nước nhận đầu tư song cũng đặt ra không ít vấn đề do đặc tính
phức tạp của công nghệ. Các nước đang phát triển có trình độ công nghệ thấp cùng với
sự hạn chế trong công tác quản lý chuyển giao công nghệ nên nguy cơ trở thành “ bãi rác
thải” công nghệ là rất cao.
4.1. Tổng quan về công nghệ
4.1.1. Khái niệm và thành phần của công nghệ

4.1.2. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia
4.1.3. Công nghệ thích hợp
4.2. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước ngoài
4.2.1. Vai trò của chuyển giao công nghệ đối với các bên tham gia
4.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển giao công nghệ và chiến lược phát triển sản
phẩm
4.2.3. Nội dung chuyển giao công nghệ
4.3. Các bước tiến hành chuyển giao công nghệ trong dự án FDI
Tàu liệu tham khảo
1. Đặng Kim Nhung, Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường, NXB
Nông nghiệp, 1992, chương 2,5.
2. Giáo trình Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân,2010, chương 5
3. Giáo trình Đầu tư quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2001, chương 2,6,7
4. Nguyễn Anh Tuấn, Chuyển giao công nghệ thông qua FDI: thực tiễn ở một số
nước đang phát triển và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, tháng
1/2007, tr 51- 67.
5. Nguyễn Thị Hường, Quản trị dự án đầu tư nước ngoài và chuyển giao công
nghệ,NXB Thống kê, 2000, chương 1,3.

4


CHƯƠNG 5: MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ BIỆN PHÁP TĂNG
CƯƠNNGF THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Để hoạt động đầu tư nước ngoài phát huy được vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của các nước thì nó rất cần đến một môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường này
bao gồm 3 môi trường thành phần, đó là: môi trường của nnước nhận đầu tư, môi trường
của nước đi đầu tư và môi trường đầu tư khu vực, quốc tế. Tuy nhiên, môi trường đầu tư
của nước nhận đầu tư có thể nói là đóng vai trò quyết định bởi nó tác độn trực tiếp đến
hiệu quả của hoạt động đầu tư. Chương này tập trung phân tích các yếu tố của môi

trường đầu tư tại nước nhận đầu tư, đánh giá tác động của từng yếu tố trong môi trường
đầu tư này đồng thời phân tích các giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vón đầu tư
nước ngoài. Bên cạnh nhũng cấn đề lý luận, sinh viên sẽ tìm hiểu thực tiến của Việt Nam
để hoàn thiện kiến thức.
5.1. Môi trường đầu tư nước ngoài
5.1.1. Môi trường của nước nhận đầu tư
5.1.2. Môi trường của nước đi đầu tư
5.1.3. Môi trường khu vực và quốc tế
5.2. Những biện pháp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài
5.2.1. Tăng cường thu hút nguồn vốn ODA
5.2.2. Tăng cường thu hút nguồn vốn FDI
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Đầu tư quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2001, chương 4,5
2. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Đầu tư trực
tiếp nuốc ngoài www.fia.mpi.gov.vn
3. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Hợp tác tác
phát triển www.mpi.gov.vn/odavn/
7. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Thương mại, Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, 2004.
2. Đặng Kim Nhung, Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường, NXB
Nông nghiệp, 1992.
3. Giáo trình Đầu tư quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2001.
4. Giáo trình Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân,2010.
5. Helmut Führer- Director of the Development Co-operation Directorate from
1975- 1993, The Story of Official Development Assistance, OECD 1994
6. Nguyễn Anh Tuấn, Chuyển giao công nghệ thông qua FDI: thực tiễn ở một số
nước đang phát triển và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, tháng
1/2007, tr 51- 67.

5



7. Nguyễn Thị Hường, Quản trị dự án đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ,
NXB Thống kê, 2000.
8. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Hợp tác tác
phát triển www.mpi.gov.vn/odavn/
9. Trang thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, mục Đầu tư trực
tiếp nuốc ngoài www.fia.mpi.gov.vn
10. Trang thông tin điện tử của WB, ADB, JICA, OECD
11. Trang web của một số công ty xuyên quốc gia như Coca Cola, Honda, Intel,
Canon,...

8. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HỌC PHẦN:
- Tham gia đầy đủ các buổi học: điểm tối đa là 8 điểm. Hệ số 0,1
- Phát biểu thảo luận: điểm tối đa là 2 điểm. Hệ số 0,1
- Bài tập nhóm: điểm tối đa là 10 điểm. Hệ số 0,2
- Thi hết học phần: điểm tối đa là 10 điểm. Hệ số 0,7

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) có bản chất như đầu tư nói chung, đó là sự tìm kiếm
lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để thực hiện một hoạt
động. Tuy nhiên, ĐTNN nhấn mạnh vào địa điểm thực hiện hoạt động này- là ở quốc gia
khác với quốc gia của tổ chức hoặc cá nhân sở hữu nguồn lực đầu tư (hay còn gọi là nhà

đầu tư). Như vậy, có thể hiểu ĐTNN là sự di chuyển các nguồn lực từ quốc gia này sang
quốc gia khác để tiến hành những hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi ích hữu hình hoặc
vô hình. Tuy nhiên không phải tất cả các nguồn lực cần thiết cho một hoạt động đầu tư
đều có thể di chuyển được do các nguyên nhân xuất phát từ quốc gia sơ hữu nguồn lực
cũng như từ quốc gia tiếp nhận nguồn lực. Cụ thể là nhà đầu tư nước ngoài luôn sử dụng
một số nguồn lực của nước nhận đầu tư như nhân lực, nguồn tài nguyên, .... Nước nhận
đầu tư gọi là nước chủ nhà (host country), nước của chủ đầu tư là nước đầu tư (home
country).
1.1.2. Phân loại ĐTNN
Khác với cách phân loại các hoạt động đầu tư trong nước, hoạt động ĐTNN
thường được phân loại dựa trên mối quan hệ giữa chủ sở hữu các nguồn lực đầu tư với cá
nhân/tổ chức trực tiếp sử dụng các nguồn lực này. Theo cách đó thì ĐTNN được phân
thành 2 loại là: đầu tư nước ngoài gián tiếp (FII- Foreign indirect investment) và đầu tư
nước ngoài trực tiếp (FDI- Foreign direct investment).
Đầu tư nước ngoài gián tiếp là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư (chính phủ, các tổ
chức tài chính phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các cá nhân) của một quốc gia cho
chính phủ hay các tổ chức của một quốc gia khác vay, cho không hoặc đóng góp một
khoản vốn để thực hiện những hoạt động đầu tư theo các cam kết cụ thể được các bên
thỏa thuận. Bên cho vay vốn không trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện đầu tư và

7


không chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn, song bằng những quy định riêng (thậm
chí là kèm theo những điều kiện ràng buộc về kinh tế hoặc chính trị) bên cho vay có thể
kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Đối với các nước đang phát triển (ĐPT) như Việt
Nam thì hình thức ĐTNN gián tiếp dưới dạng hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Do đó đối với hình thức
FPI thì môn học này chỉ đề cập đến nguồn vốn ODA.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư của quốc

gia này (một doanh nghiệp hay một cá nhân cụ thể) mang các nguồn lực cần thiết sang
một quốc gia khác để thực hiện hoạt động đầu tư. Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá
trình khai thác kết quả đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn của mình
theo quy định của quốc gia nhận đầu tư.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư nước ngoài
ĐTNN và đầu tư trong nước đều có những đặc điểm chung như tính rủi ro và khả
năng sinh lời, tuy nhiên ĐTNN lại có những điểm khác biệt quan trọng, đó là:
ĐTNN phụ thuộc nhiều vào quan hệ ngoại giao giữa nước nhận đầu tư với các
nước đi đầu tư cũng như tình hình chính trị trong khu vực và trên thế giới.
Với việc di chuyển các nguồn lực sang nước khác, chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với
những vấn đề về thuế nhập khẩu, thủ tục hải quan và hàng loạt những chính sách liên
quan như chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái, thuế thu nhập doanh nghiệp, sử dụng đất,
thuê lao động,...
Một trong những nguồn lực mà chủ đầu tư thường mang sang nước khác là công
nghệ, có thể là công nghệ sản xuất hay công nghệ quản lý.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chuyển giao công nghệ
1.2.1. Khái niệm
Chuyển giao công nghệ (CGCN) thực chất là hoạt động mua bán quyền sử dụng
công nghệ (trong một số rất ít trường hợp là mua bán quyền sở hữu công nghệ). Chủ sở
hữu công nghệ bán quyền sử dụng công nghệ cho một tổ chức hoặc cá nhân khác trong
khi vẫn giữ quyền sở hữu công nghệ này. Công nghệ là một trong các nguồn lực của đầu

8


tư, do đó nếu chủ đầu tư mang công nghệ ra nước ngoài thì hoạt động CGCN là tất yếu
trong quá trình thực hiện đầu tư tại nước nhận đầu tư. Do đó, trong hai hình thức ĐTNN
thì hình thức FDI thường đi kèm với hoạt động CGCN vì công nghệ là một phần của các
nguồn lực đầu tư được chủ đầu tư mang sang nước khác.
1.2.2. Đặc điểm

Hoạt động CGCN hay việc mua bán quyền sử dụng công nghệ không đơn thuần
như mua bán một hàng hoá thông thường bởi công nghệ là kiến thức. Đối với hàng hoá
thông thường thì quyền sử dụng thường đi kèm với quyền sở hữu. Tổ chức hay cá nhân
sở hữu hàng hoá sau khi bán hàng hoá thì sẽ không còn quyền sở hữu hàng hoá đó nữa.
Nhưng đối với hàng hoá là công nghệ thì khác. Tổ chức hay cá nhân sở hữu công nghệ
sau khi bán quyền sử dụng công nghệ thì vẫn còn nguyên quyền sở hữu công nghệ này
và đồng thời có thể bán quyền sử dụng công nghệ nhiều lần cho những đối tác khác
nhau. Và đặc biệt, trong trường hợp công nghệ bị “mất cắp” thì khả năng trả lại là không
có. Quá trình thực hiện CGCN thường diễn ra từng bước trong một khoảng thời gian
nhất định theo thỏa thuận của hai bên, gồm bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao,
khoảng thời gian này dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Khác với hàng hóa thông
thường, giá trị của hàng hóa công nghệ khó xác định một cách chính xác bởi công nghệ
bao gồm những thành phần vô hình liên quan tới chất xám, trí tuệ con người.
Hoạt động CGCN có thể thực hiện theo hai hình thức: hoặc như một hoạt động
thương mại độc lập hoặc là một phần của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong
trường hợp thứ nhất, các bên tham gia CGCN chỉ cam kết thực hiện một hợp đồng mua
bán công nghệ. Bên bán công nghệ không tham gia vào quá trình khai thác công nghệ.
Trường hợp thứ hai, khi công nghệ được coi như một phần vốn đầu tư thì các bên tham
gia CGCN phải thực hiện hợp đồng CGCN như một hoạt động bắt buộc trong quá trình
đầu tư. Các bên được hưởng lợi nhuận và phải chịu trách nhiệm từ việc sử dụng công
nghệ này theo tỷ lệ vốn góp.
1.3. Mối quan hệ giữa CGCN và ĐTNN

9


Mục đích của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tối đa hóa
lợi nhuận của các nguồn lực đầu tư qua việc thực hiện sản xuất một sản phẩm nào đó ở
nước ngoài. Một trong các nguồn lực quan trọng để thực hiện quá trình sản xuất là công
nghệ, nhà đầu tư đã di chuyển công nghệ từ nước này sang nước khác. Công nghệ sẽ

được một tổ chức khác tại nước nhận đầu tư sử dụng để tạo ra sản phẩm có chất lượng
như mong muốn của nhà đầu tư. Do đó tổ chức này cần phải nắm được các nguyên lý
hoạt động, các đòi hỏi về nhân lực, dịch vụ và nguyên vật liệu đầu vào cho công nghệ,
các thông tin kỹ thuật, phương pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm của công nghệ, các bí
quyết, cách giải quyết những vấn đề kỹ thuật trong quá trình sử dụng công nghệ, v...v.
Hay nói một cách khác, tổ chức này phải làm chủ hoàn toàn được công nghệ. Việc hướng
dẫn cho tổ chức khác làm chủ từng bước và cuối cùng là làm chủ hoàn toàn công nghệ
trong quá trình sản xuất là một nhu cầu tất yếu của nhà đầu tư cũng như của tổ chức sử
dụng công nghệ. Chính vì vậy nên hoạt động CGCN được coi như một hoạt động tất yếu
trong các dự án FDI.
Đối với hình thức đầu tư gián tiếp, mặc dù không trực tiếp tham gia vào quá trình
thực hiện và khai thác đầu tư nhưng tổ chức cho vay vốn hay chính phủ nước cho vay
vốn có thể yêu cầu nước nhận đầu tư tiếp nhận vốn dưới dạng một công nghệ nào đó,
thông thường là công nghệ quản lý. Trong trường hợp này thì hoạt động CGCN được coi
là một phần của quá trình đầu tư.
1.4. Vai trò của ĐTNN và CGCN đối với sự phát triển kinh tế thế giới
ĐTNN là một hoạt động kinh tế xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử kinh tế thế giới.
Tuy nhiê, trong khoảng gần 7 thập kỷ gần đây (từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2) thì
hoạt động này đã phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu với nhiều sắc thái, đặc
biệt đi kèm với nó là hoạt động CGCN đã tác động mạnh đến nền kinh tế của rất nhiều
quốc gia và kinh tế toàn cầu.
1.4.1. Phát huy lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế
Mỗi quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển đều có những lợi thế so sánh
nhất định, không có quốc gia nào mạnh toàn diện và không có quốc gia nào yếu toàn

10


diện. Những nước phát triển như Nhật Bản hay Mỹ có lợi thế là công nghệ hiện đại
nhưng giá lao động cao và hạn chế về nguồn tài nguyên, trong khi đó ở nhiều nước đang

phát triển như Việt Nam, Trung Quốc thì tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao
động dồi dào và rẻ. Đối với một hàng hoá nào đó, ví dụ như ôtô, những linh kiện đòi hỏi
trình độ công nghệ cao sẽ được sản xuất tại những nước phát triển, còn những linh kiện
khác và công đoạn lắp ráp có thể thực hiện ở những nước đang phát triển thì giá thành
ôtô sẽ hạ mà các yếu tố sản xuất của các nước đều được khai thác triệt để. Nhờ đó mà lợi
nhuận của các chủ sở hữu các yếu tố sản xuất tăng lên, lợi ích cho các nước tăng, sản
lượng thế giới cũng tăng và gắn kết các nước với nhau, đẩy nhanh quá trình nhất thể hoá
kinh tế khu vực và thế giới.
1.4.2. Thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá
Tự do hoá kinh tế và những tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã
thúc đẩy sự liên kết các thị trường hàng hoá, dịch vụ của các nước với nhau để hình
thành nên một thị trường quốc tế, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX. Các công ty
xuyên quốc gia (TNCs- transnational companies) đang theo đuổi các chiến lược kinh
doanh toàn cầu trên cơ sở tăng cường chuyên môn hoá và hợp tác giữa các nước. Tại Việt
Nam, nhờ có hoạt động ĐTNN mà nhiều ngành kinh tế có cơ hội tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá. Nhiều TNCs đã có mặt tại Việt Nam để thực hiện sản xuất và lắp ráp như
Toyota, Ford, Siemen,... hoặc để thăm dò và khai thác tài nguyên như Shelf, Total, BP,...
1.4.3. Tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư
Cơ cấu kinh tế có nhiều cách phân loại: theo ngành, theo lãnh thổ hoặc theo thành
phần kinh tế.
Cơ cấu một nền kinh tế theo ngành được nhìn nhận trên góc độ tỷ lệ đóng góp của
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ vào GDP. Xuất phát điểm của hầu hết các nền kinh
tế là nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, sau đó đến công nghiệp và dịch vụ. Trong quá
trình phát triển thì tỷ trọng nông nghiệp giảm dần nhường chỗ cho công nghiệp và dịch
vụ. Những nước phát triển hiện nay là những nước có tỷ trọng ngành dịch vụ cao nhất,
sau đó đến công nghiệp và thấp nhất là nông nghiệp.

11



Cơ cấu theo lãnh thổ là tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng miền địa
phương trong một quốc gia. Để phát triển bền vững thì mọi quốc gia đều quan tâm đến
sự cân đối giữa các vùng lãnh thổ với những chiến lược đầu tư phát triển khác nhau.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế là tỷ trọng đóng góp của các thành phần
như kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước vào GDP. Dù với chế độ chính trị nào thì
các quốc gia cũng đều co chủ trương khuyến khích khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát
triển dể giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
Như vậy có thể thấy rằng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia nói
riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung theo chiều hướng tích cực luôn đòi hỏi phải có
đầu tư. Với những nguồn lực đầu tư trong nước còn hạn chế thì nguồn vốn ĐTNN gián
tiếp hay trực tiếp đều có vai trò quan trọng.

12


CHƯƠNG 2

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
2.1. Các lý thuyết kinh tế
2.1.1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô
Lý thuyết kinh tế vĩ mô cơ bản của FDI là lý thuyết về lưu chuyển dòng vốn dựa
trên nguyên tắc lợi thế so sánh các yếu tố đầu tư (như vốn, lao động) giữa các nước đặc
biệt là các nước phát triển và đang phát triển. Theo mô hình lý thuyết thương mại quốc tế
của Heckcher và Ohlin - HO (1933), hai nước A và B có các điều kiện sau:
- Trình độ công nghệ sản xuất như nhau,
- Nhu cầu và thị hiếu về hai loại hàng hoá nào đó X và Y như nhau,
- Các yếu tố cần thiết cho việc sản xuất hai loại hàng hoá trên như nhau, hàng hoá
X cần nhiều vốn, Y cần nhiều lao động,
- Sự lưu chuyển hàng hoá giữa hai nước là tự do, không có thuế, không có chi phí
vận chuyển,

- Cả hai nước đều sử dụng hết khả năng về vốn, công nghệ và lao động của mình.
Giả định rằng không có sự lưu chuyển các yếu tố sản xuất qua biên giới và hiệu
quả kinh tế không phụ thuộc vào quy mô thị trường của các nước.
Tuy nhiên trong thực tế thì sự sẵn có của hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn
của hai nước laị khác nhau. Mô hình HO chỉ ra rằng sản lượng của 2 nước sẽ tăng lên
nếu như mỗi nước tập trung sản xuất để xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều yếu tố sản
xuất dư thừa và nhập khẩu những hàng hoá dùng nhiều yếu tố khan hiếm. Do đó sự xuất
hiện hoạt động thương mại quốc tế được giải thích từ sự chênh lệch tính dư thừa và khan
hiếm của các yếu tố sản xuất giữa các nước.
Mô hình HO đã được một số nhà kinh tế sử dụng để giải thích cho hoạt động FDI
với việc lọai bỏ hai giả định đã nêu trên. Richard S. Eckaus cho rằng khả năng về vốn
giữa các nước là khác nhau do đó sẽ có nước thừa vốn và nước thiếu vốn. Tại những
nước thừa vốn thì hiệu quả sử dụng vốn thấp hơn so với những nước thiếu vốn nên sẽ
xuất hiện lưu chuyển dòng vốn giữa các nước. Theo tác giả này thì mục đích tối đa hoá
hiệu quả sử dụng vốn là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự di chuyển vốn quốc tế.

13


Thống nhất với quan điểm trên, A. MacDougall giải thích rằng nguyên nhân của
sự lưu chuyển vốn quốc tế là do sự chênh lêch về năng suất cận biên của vốn giữa các
nước. Những nước thừa vốn có năng suất cận biên của vốn thấp hơn là những nước thiếu
vốn. Quan điểm này được M. Kemp phát triển thành mô hình MacDougall- Kemp như
sau:
Mô hình này được xây dựng trên các giả định: nền kinh tế thế giới chỉ có hai
nước I và II; trước khi di chuyển vốn thì năng suất cận biên của vốn đầu tư ở nước I
(thừa vốn) thấp hơn ở nước II (thiếu vốn); theo quy luật thì năng suất cận biên của vốn
giảm dần. Luồng FDI sẽ hình thành và di chuyển từ nước I sang nước II cho đến khi
năng suất cận biên của vốn ở hai nước bằng nhau (tại điểm S). Kết quả là sản lượng thế
giới tăng lên do sử dụng một cách hiệu quả hơn các nguồn lực sản xuất. Mô hình cũng

giải thích sự ảnh hưởng khác nhau của FDI ở nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Ở
nước I, thu nhập từ sử dụng vốn tăng lên do năng suất cận biên của vốn tăng, trong nước
II thì diễn ra ngược lại. Như vậy FDI mang lại lợi ích cho cả 2 nước.

M2
M1
M’2
M

M’
M’1

O1

S

O

Hạn chế của mô hình MacDougall- Kemp:

14

O2


- Chỉ giải thích cho hoạt động FDI, không thể hiện được bản chất và vai trò của
đầu tư gián tiếp,
- Chưa phản ánh được lợi thế so sánh của các nước,
- Chưa nêu được những tác động tiêu cực đối với nước chủ nhà (có thể phá huỷ và
thao túng tình hình sản xuất, kinh tế- xã hội, phá huỷ môi trường,...) và nước đầu tư (như

nạn thất nghiệp do một phần vốn bị chuyển ra nước ngoài),
- Sự gia tăng sản lượng thế giới còn phụ thuộc nhiều vào hoạt động thương mại
quốc tế và đầu tư gián tiếp. Sự phụ thuộc này chưa được thể hiện ở mô hình.
Kết luận: Phân tích mô hình MacDougall- Kemp có ý nghĩa quan trọng đến sự
phát triển của lý thuyết FDI, trong đó đặc biệt là lý thuyết thuế tối ưu của FDI. Một số
nhà kinh tế cho rằng việc đánh thuế ĐTNN sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho nước chủ
nhà. Bên cạnh đó, một số lại cho rằng việc đánh thuế cao tuy làm tăng ngân sách của
nước chủ nhà song sẽ giảm lợi ích của nền kinh tế về mặt lâu dài.
Lý thuyết Krugman (1983) lại giải thích nguyên nhân của ĐTNN với mục đích
khai thác hiệu quả của vốn là do có sự khác biệt về chính sách kinh tế vĩ mô của các
nước tham gia đầu tư. Lý thuyết này cũng giải thích ĐTNN từ góc độ hiệu quả sử dụng
các yếu tố đầu tư như hai lý thuyết trên.
K.Kojima, xuất phát từ góc độ tỷ suất lợi nhuận để giải thích ĐTNN, những nước
có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các nhà đầu tư. Sự chênh lệch tỷ suất lợi nhuận giữa
các nước là do khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
Ngoài các lý thuyết đã nêu trên, còn có một số lý thuyết khác như lý thuyết phân
tán rủi ro của D. Salvatore (1993) với việc giải thích rằng các nhà đầu tư không chỉ quan
tâm đến hiệu quả sử dụng vốn mà còn quan tâm đến mức độ rủi ro của từng khoản đầu tư
cụ thể. Để tránh nguy cơ phá sản tại thị trường nội địa, các nhà đầu tư không dồn hết vốn
của mình vào đầu tư trong nước mà giành một phần đề đầu tư ra nước ngoài.
2.1.2. Các lý thuyết kinh tế vi mô
Các lý thuyết tổ chức công nghiệp ra đời tư những năm 1960 đã giải thích FDI
như là kết quả tự nhiên từ sự tăng trưởng và phát triển của các công ty lớn độc quyền ở
Mỹ. Theo Stephen Hymer (1976), do muốn độc quyền nên các công ty ở Mỹ đã mở rộng

15


ra thị trường quốc tế để khai thác các lợi thế so sánh của mình về công nghệ, quản lý,...
mà các công ty trong cùng lĩnh vực ở các nước khác không có được.

Theo Charles Kindleberger (1969) và Richard E.Caves (1970) thì những sản phẩm
mới thường có xu hướng độc quyền và giá thành hạ nên các công ty có sản phẩm mới
tích cực mở rộng phạm vi sản xuất của mình ra thị trường quốc tế để tối đa hoá lợi
nhuận. Như vậy, các lý thuyết tổ chức công nghiệp đều giải thích nguyên nhân của FDI
là nhằm khai thác lợi thế độc quyền của các công ty lớn.
Robert Z. Aliber (1970) đã giải thích hiện tượng FDI là do thuế nhập khẩu khiến
cho giá thành hàng hoá cao nên các công ty lớn thay vì sản xuất trong nước để xuất khẩu
sẽ tiến hành sản xuất ngay tại nước ngoài, vượt qua hàng rào thuế quan để giảm giá
thành và tạo nên các công ty xuyên quốc gia.
Vernon (1966) đã dựa trên lý thuyết chu kỳ sản phẩm để giải thích. Nhà kinh tế
học này dựa vào sản phẩm nhiều hơn là dựa vào quốc gia hay công nghệ chế tạo ra sản
phẩm để giải thích nguyên nhân FDI. Trên các cơ sở giả định của HO, Vernon giả định
thêm là sự thay đổi công nghệ dẫn đến các sản phẩm mới, các sản phẩm này sẽ mang lại
lợi nhuận cao khi được sản xuất hàng loạt với tay nghề giỏi, các yếu tố này chỉ có sẵn ở
những nước công nghiệp có nhiều vốn. Mặt khác, sản phẩm và phương pháp chế tạo nó
phải được thương mại hoá. Phương pháp sản xuất đã được tiêu chuẩn hoá để lao động
tay nghề thấp hơn có thể sử dụng được và khai thác được lợi thế so sánh trong quá trình
sản xuất sản phẩm ở nước ngoài.
Mỗi sản phẩm đều phải trải qua các giai đoạn gồm ý tuởng, nghiên cứu, sản xuất
thử, sản xuất hàng loạt, bào hoà và suy thoái. Các giai đoạn trước khi sản phẩm bão hoà
được các nước phát triển với ưu thế về vốn thực hiện rất hiệu quả. Để phát triển thì công
ty phải mở rộng thị trường xuất khẩu, tuy nhiên những hoạt động xuất khẩu này lại gặp
hàng rào thuế quan ngăn cản nên công ty phải chuyển việc sản xuất ra nước ngoài.
Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamatsu (1962) đã xây dựng lý thuyết chu
kỳ sản phẩm bắt kịp. Chu kỳ sản phẩm được bắt đầu từ lúc nhập khẩu với chất lượng tốt
hơn, sau đó những sản phẩm này làm cho nhu cầu tiêu thụ nội địa tăng lên và thị trường
được mở rộng. Như vậy, xuất hiện nhu cầu sản xuất trong nước với sự giúp đỡ về vốn,
công nghệ của các nước phát triển. Trong quá trình sản xuất, nước nhập khẩu học hỏi

16



được nhiều kinh nghiệm trong quản lý, nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành và mở rộng sản xuất để đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tiêu dùng trong
nước. Khi đó lại xuất hiện nhu cầu xuất khẩu hàng hoá sang một nước khác và tại nước
thứ ba này chu trình lại diễn ra như vậy. Lý thuyết Akamatsu đã giải thích FDI qua quá
trình phát triển liên tục của sản phẩm, từ nhập khẩu đến sản xuất trong nước và chuyển
sang xuất khẩu.
Một số nhà kinh tế học khác có cùng quan điểm với Akamatsu đã giải thích con
đường hình thành và phát triển các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia như sau:

Sản xuất
trong nước

Xuất
khẩu ra
nước
ngoài

Văn phòng
đại diện

Chi nhánh
bán hàng ở
nước ngoài

Chi nhánh
sản xuất ở
nước ngoài


Dunning (1983) giải thích: một TNC sẽ đầu tư ra nước ngoài khi nó có lơị thế độc
quyền (vốn, công nghệ, kỹ thuật, quản lý,...) so với các công ty của nước nhận đầu tư.
Việc khai thấc lợi thế độc quyền này phải sử dụng được ít nhất một yếu tố đầu vào rẻ (lao
động hoặc tài nguyên) và chỉ khi đó FDI mới xuất hiện. Trong trường hợp nếu TNC
không phát hiện ra được yếu tố đó thì sẽ cho các công ty của nước ngoài thuê lợi thế độc
quyền và như vậy lợi nhuận sẽ giảm hơn so với FDI.
Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của V.Lenin, một số nhà kinh tế Macxit đã
giải thích nguyên nhân công ty tư bản độc quyền trong ngành chế tạo tiến hành đầu tư
sang các nước ĐPT để khai thác nguồn lao động rẻ và nguyên liệu dồi dào, FDI là sự
sống còn của CNTB và các TNCs thực hiện các hoạt động này như là công cụ lợi hại của
chủ nghĩa đế quốc.
Đánh giá những lý thuyết trên
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô mang tính trừu tượng, chưa phân biệt được sự khác
nhau giữa FPI và FDI, chỉ nêu được một khía cạnh của ĐTNN là sự di chuyển các nguồn
lực mà chủ yếu là vốn, trong khi đó ĐTTT không đơn thuần chỉ là sự di chuyển vốn mà

17


quan trọng hơn là đặc trưng bởi những hoạt động CGCN, kiến thức quản lý và thị trường
thông qua các TNCs. Các lý thuyết vĩ mô này chỉ nêu được điều kiện cần có để xuất hiện
ĐTNN trong khi đó sự lưu chuyển vốn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác của môi
trường đầu tư.
Các lý thuyết vi mô tiếp cận từ góc độ của một TNC do đó có tính cụ thể hơn, các
lý thuyết này giải thích ĐTNN chủ yếu là FDI là kết quả tự nhiên của qúa trình khai thác
các lợi thế độc quyền nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên các lý
thuyết này cũng chỉ giải thích các nguyên nhân từ chiến lược của các TNCs, chưa tính
đến các nguyên nhân quan trọng khác từ phía nước chủ nhà, từ sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học công nghệ, dịch vụ và thương mại toàn cầu.
2.2. Phân loại hoạt động FDI

2.2.1. Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn
- Vốn hỗn hợp (vốn trong nước và nước ngoài)
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp
đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở
nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách
nhiệm và phân chia các kết qủa kinh doanh cho các bên tham gia.
Hình thức này thường không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn,
cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
* Doanh nghiệp liên doanh (hay công ty liên doanh) là doanh nghiệp được
thành lập tại nước nhận đầu tư (nước chủ nhà) giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà
trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa
vụ theo tỷ lệ góp vốn. Cần lưu ý rằng mục tiêu liên doanh giữa các nước phát triển và
đang phát triển về cơ bản là khác nhau. Liên doanh tại các nước công nghiệp phát triển là
nhằm mục đích tập trung, đa dạng hoá sản phẩm, giảm rủi ro trong kinh doanh, tìm kiếm
thị trường mới và cùng nhau khai thác tài nguyên, trong khi liên doanh ở các nước đang
phát triển là nhằm chuyển giao tay nghề, tiếp thu khả năng nghiên cứu và quản lý thị
trường cũng như chuyển giao công nghệ.
Những lý do để các bên cùng tham gia liên doanh có thể kể đến như sau:

18


-

Hạn chế rủi ro trong kinh doanh

-

Đạt được quy mô kinh tế cần thiết


-

Sử dụng được các công nghệ cần thiết

-

Mở rộng phạm vi hoạt động trên thế giới

-

Ngăn ngừa cạnh tranh

-

Cùng khai thác tài nguyên thiên nhiên

-

Vượt qua các hệ thông bảo hộ mậu dịch cũng như các quy định khác của

chính phủ nước nhận đầu tư
Bên cạnh những ưu điểm mà liên doanh mang lại cho nước chủ nhà thì cũng còn
những điểm bất lợi như:
- Nếu trình độ quản lý của phía nước chủ nhà yếu kém hơn nhiều so với phía
nước ngoài thì sẽ bị phía nước ngoài chi phối do đó hiệu quả đầu tư có thể không cao
như dự kiến.
- Nếu phần vốn đóng góp của nước chủ nhà chỉ là quyền sử dụng đất như trong
nhiều liên doanh ở Việt Nam và cùng với trình độ kỹ thuật non kém của mình, nước chủ
nhà sẽ mất dần quyền kiểm soát hoạt động của các liên doanh và dần dần trở thành “bãi
rác” chứa những công nghệ lạc hậu cũ kỹ do nước ngoài thải ra

* Doanh nghiệp cổ phần FDI (hay công ty cổ phần) là doanh nghiệp có các cổ
đông nước ngoài và trong nước (cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức) nhưng cổ đông
nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức doanh nghiệp hiện đại.
Tuy đều là doanh nghiệp có vốn hỗn hợp song doanh nghiệp cổ phần FDI có cơ cấu tổ
chức và cách thức hoạt động rất khác so với doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn FDI
Đây là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và
họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các kết quả sản xuất kinh doanh.
Hình thức đầu tư này có ưu điểm đối với nước chủ nhà là không phải góp vốn và
không phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đầu tư đối với những lĩnh vực có
độ rủi ro cao hoặc với những ngành sản xuất mới. Với phía nước ngoài thì đây là cũng
hình thức đầu tư được ưa chuộng bởi ngoài việc phải tuân thủ những quy định có tính
pháp luật của nước chủ nhà thì bên phía nước ngoài toàn quyền trong việc điều hành và

19


quản lý doanh nghiệp của mình, không bị bất kỳ sự can thiệp nào khác, không mất nhiều
thời gian cho việc tìm “tiếng nói chung” với những người cùng tham gia điều hành như
hình thức liên doanh. Thực tế cho thấy rằng không ít liên doanh hoạt động kém hiệu quả
cũng chỉ vì ban lãnh đạo không thống nhất quan điểm trong quản lý và điều hành doanh
nghiệp liên doanh.
2.2.2. Phân loại theo mục tiêu
FDI phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư mà có thể chia làm đầu tư theo chiều
ngang - HI (horizontal integration) và đầu tư theo chiều dọc - VI (vertical integration).
HI là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất một sản
phẩm nào đó và chuyển toàn bộ quy trình sản xuất sản phẩm này ra nước ngoài. Sản
phảm được hoàn thiện và được tiêu thụ ngay tại thị trường của nước nhận đầu tư hoặc
xuất khẩu sang thị trường nước thứ ba. Sản phẩm này cạnh tranh mạnh mẽ với các sản
phẩm cùng loại của những nhà sản xuất của nước nhận đầu tư. Còn với hình thức VI, thì

chủ đầu tư chuyển một hoặc một vài khâu trong quy trình sản xuất sản phẩm ra nước
ngoài trên cơ sở nghiên cứu kỹ lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư (nhân công rẻ,
nguyên vật liêu dồi dào, gần thị trường tiêu thụ,..). Như vậy, kết quả của quá trình sản
xuất là các bán thành phẩm hoặc chỉ là chi tiết của một sản phẩm nên thường không tạo
ra sự cạnh tranh với các nhà sản xuất sản phẩm hoàn thiện tại nước nhận đầu tư.
2.2.3. Phân loại theo phương thức thực hiện
FDI có thể thực hiện theo 2 hướng là đầu tư mới hoặc sáp nhập và mua lại (M&AMerger and Acquisition). Đầu tư mới là việc chủ đầu tư thực hiên đầu tư ở bằng cách
xây dựng các doanh nghiệp mới ở nước ngoài, đây là hướng đi truyền thống và thường
được chủ đầu tư của các nước PT áp dụng ở nước ĐPT. Còn hướng thứ hai là sáp nhập
hoặc mua lại các công ty cuả nước khác thường được tiến hành giữa các nước PT, các
NICs và rất phổ biến trong những năm gần đây.
Mỗi quốc gia nhận đầu tư có thể lựa chọn cho mình phương thức phù hợp trong
từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Ví dụ, trong giai đoạn đầu thu hút FDI, các
nước ĐPT chủ yếu lựa chọn phương thức đầu tư mói do ở các nước này năng lực sản

20


xuất còn thiếu và yếu. Đầu tư mói sẽ giúp hình thành nên hàng loạt cơ sở sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là trong những lĩnh vực mới mà nước nhận đầu tư chưa từng có.
2.3. Tác động của FDI tới các nước tham gia đầu tư
Trước những năm 1970, dòng FDI chủ yếu được thực hiện giữa các nước tư bản
phát triển (TBPT) với nhau như một sự trao đổi và từ các nước TBPT sang các nước
ĐPT như một sự ban ơn bởi khi đó còn tồn tại quan điểm cho rằng các nước TBPT đều
có thế mạnh tuyệt đối, còn các nước ĐPT đều ở thế yếu tuyệt đối. Quan điểm này đã bị
thực tế phủ nhận bởi mỗi nước đều có thế mạnh so sánh của mình, các nước ĐPT có ưu
thế về lao động rẻ do đó có thể xuất khẩu những hàng hoá có hàm lượng lao động lớn và
thậm chí xuất khẩu cả lao động. Sự ra đời của các nước công nghiệp mới (NICs) đã
khiến cho dòng FDI tăng lên rất mạnh giữa các nước TBPT với NICs, giữa NICs và các
nước ĐPT và giữa các nước TBPT với các ĐPT.

FDI càng ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong sự phát triển của nền
kinh tế thế giới nói chung. FDI không những mang lại lợi nhuận cho nước đi đầu tư mà
còn giúp các nước nhận đầu tư phát triển và phục hồi kinh tế, lẽ dĩ nhiên để phát huy
được hiệu quả của FDI thì nước nhận đầu tư phải có những điều kiện nhất định sẽ được
đề cập tới ở phần sau.
2.3.1. Đối với nước đi đầu tư
Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lenin, thì FDI là yếu tố sống còn của
CNTB, do đó mục đích tiến hành đầu tư ra nước ngoài là:
- Tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc giảm chi phí lao động do sử dụng nguồn lao
động rẻ mạt. Mặt khác, đối với những công nghệ đã cũ, khi trong nước không còn điều
kiện để phát triển thì nhà đầu tư có thể di chuyển sang những nước có trình độ công nghệ
thấp hơn để kéo dài chu kỳ sống cho sản phẩm và công nghệ, nhờ vậy mà tạo thêm được
lợi nhuận.
- Tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới: thông thường, những nước ĐPT do
trình độ công nghệ còn thấp nên chưa khai thác được hết những nguồn nguyên vật liệu,

21


tài nguyên phong phú của mình. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ tận dụng lợi thế này để thực
hiện việc khai thác hoặc sản xuất các bán thành phẩm và nhập trở lại nước đi đầu tư
- Trong trường hợp các nước phát triển đầu tư sang nhau thì một mục đích rất rõ
rệt là hợp tác, trao đổi và liên kết cùng với nhau để cùng phát triển, hạn chế bớt sự cạnh
tranh không cần thiết.
2.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
2.3.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia.
(Giải thích thông qua mô hình Harrod- Domar)
ICOR- incremental capital output ratio
Phân tích phương trình kinh tế vĩ mô, đối với nền kinh tế đóng thì Y = C+I, trong

đó Y là tổng thu nhập quốc nội, C là tổng tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, I là đầu tư. Đối
với nền kinh tế mở có sự tham gia của hoạt động xuất (X) nhập (M) khẩu thì Y + M = C
+ I + X. Như vậy, M - X = (C+I) -Y. Nếu M>X thì C + I > Y, tiêu dùng trong nước vượt
quá GDP. Ta lại có S = Y- C, trong đó S là tiết kiệm trong nước, do đó M - X = I –S , nếu
tiết kiệm trong nước nhỏ hơn đầu tư thì M>X, có nghĩa rằng bổ sung nguồn vốn nước
ngoài để cân bằng cán cân thanh toán vĩ mô là điều không thể tránh khỏi.
Đóng góp của khu vực FDI vào GDP của nước chủ nhà: Nguồn vốn bên ngoài
được bổ sung qua các hình thức vay nợ, nguồn viện trợ và FDI, trong đó nguồn FDI
chiếm một tỷ trọng đáng kể đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội của nhiều nước chủ nhà
đặc biệt là các nước ĐPT. Năm 1996, tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI vào GDP của
một số nước như sau: Bỉ - 45,8%; Hà Lan - 30,9%; Anh - 20,5%; Trung Quốc- 24,7%;
Malayxia - 48,6%; Singapore - 72,6%. Đối với Việt Nam, tỷ trọng này năm 1996 là
7,7%; sau đó tăng lên 8,6% vào năm 1997; 9,8% vào năm 1998 và năm 2000 đạt khoảng
11,4%.
FDI gián tiếp làm tăng thêm phần tiết kiệm trong nước bởi tăng thu nhập của
người lao động sẽ khiến khoản tiết kiệm cá nhân tăng thêm, bên cạnh đó một phần thu
nhập của nhà đầu tư nước ngoài lại dùng để tái đầu tư, kết quả là thúc đẩy tăng trưởng
đầu tư trong nước.

22


Tác động của FDI đối với cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà: cũng có
các quan điểm đánh gía khác nhau. Một số quan điểm cho rằng ĐTNN làm xấu đi cán
cân thanh toán quốc tế thông qua biểu thức: B = (X+I) - (T + M + R+ P), trong đó B là
độ ảnh hưởng, X là giá trị xuất khẩu từ FDI, I là ngoại tệ do nhà đầu tư chuyển vào, T là
giá trị công nghệ nhập khẩu trong các dự án FDI, M là giá trị nhập khẩu nguyên vật liệu,
R là giá trả cho giấy phép sử dụng công nghệ, P là phần lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.
Nếu các nhà đầu tư nước ngoài phải nhập khẩu công nghệ, nguyên vật liệu và sản phẩm
lại hướng vào thị trường nội địa thì lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu cán cân thanh toán quốc tế.

Tuy nhiên, điều này trong thực tế chưa được chứng minh. Một nghiên cứu được thực
hiện tại 5 nước là Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malayxia, Indonesia và Philippine lại
cho thấy điều ngược lại. Trong khoảng 3 năm đầu tiếp nhận FDI thì cán cân thanh toán
của các nước này giảm xuống (nhiều nhất là 9%), sau đó tình hình dần được cải thiện và
sau hơn 10 năm thì cán cân đã đạt khoảng 7- 8%.
2.3.2.2. Chuyển giao và phát triển công nghệ
Công nghệ là yếu tố quyết định sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của mọi quốc
gia, do đó tăng cường khả năng công nghệ là một trong những mục tiêu được ưu tiên
phát triển hàng đầu. Để thực hiện được mục tiêu này không những chỉ cần nhiều vốn mà
còn đòi hỏi một trình độ phát triển nhất định. Đầu tư trong lĩnh vực này thường có tính
rủi ro cao nên đã tạo ra những hạn chế rất lớn cho những nước nghèo. ĐTNN đặc biệt là
FDI là nguồn quan trọng để phát triển trình độ công nghệ của nước chủ nhà. Quá trình sử
dụng và CGCN từ các dự án FDI đã tạo ra mối liên kết cung cấp các dịch vụ công nghệ
từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trong nước. Bằng cách này, năng lực công nghệ trong
nước gián tiếp được tăng cường.
Bên cạnh việc chuyển giao những công nghệ sẵn có, các TNCs còn góp phần tích
cực nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) của nước chủ nhà. Đến giữa
những năm 1990 đã có 55% các chi nhánh của các TNCs lớn và 45% các chi nhánh của
các TNCs vừa và nhỏ đã thực hiện các hoạt động R&D tại các nước đang phát triển.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy rằng phần lớn các hoạt động nghiên cứu và
phát triển của các TNCs ở nứơc ngoài là việc cải biến công nghệ cho phù hợp với điều

23


kiện sử dụng. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này bởi trình độ công nghệ còn
thấp nên các chủ đầu tư thường nhập những công nghệ không mấy hiện đại để sử dụng ở
Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với những công nghệ hiện đại hơn khiến cho các nhà
đầu tư và phát triển công nghệ trong nước tích luỹ thêm được kinh nghiệm trong thiết kế,
chế tạo, sử dụng công nghệ nguồn và từ đó dần nâng cao khả năng công nghệ của mình.

2.3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
- Nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý
Các nhà đầu tư nước ngoài phải sử dụng nguồn nhân lực của nước chủ nhà, để
đáp ứng được yêu cầu sản xuất, nguồn nhân lực này cần được đào tạo một cách cơ bản,
một số được đào tạo trong nước, một số khác được đào tạo tại nước ngoài. Bên cạnh việc
nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ kỹ thuật, đội ngũ quản lý của nước chủ nhà
cũng được tiếp cận với cách làm việc và quản lý tiên tiến. Ví dụ ở Công ty liên doanh lắp
ráp ôtô VIDAMCO giữa Daewoo của Hàn Quốc và một công ty ôtô của Bộ Quốc phòng
(đi vào hoạt động năm 1995) đến 1998 đã đào tạo được 25% tổng số kỹ sư và cán bộ của
liên doanh taị Hàn Quốc, hơn 35% số công nhân được thực tập tại các dây chuyền công
nghệ tại các chi nhánh của Daewoo ở Ấn Độ và Indonesia. Tại Việt Nam hiện nay
khoảng 50% doanh nghiệp có vốn ĐTNN có quỹ đào tạo riêng. Trong những dự án có
quy mô lớn thì nhà đầu tư nước ngoài chú trọng đầo tạo cán bộ quản lý một cách có hệ
thống hơn các nhà đầu tư trong nước.
Các TNCs của Nhật Bản ở Mỹ có chi phí đào tạo bình quân cho mộtngười lao
động cao hơn gấp 2,5 lần so với chi phí đầo tạo lao động cùng loại của các công ty của
Mỹ ở các nước khác.
Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực
của doanh nghiệp mình mà còn có những chương trình đào tạo khác để góp phần phát
triển giáo dục của nước chủ nhà như mở những lớp phổ cập kiến thức cho người dân địa
phương, các hoạt động trợ cấp phương tiện dụng cụ học tập, khuyến khích học tập,...
- Tăng cường sức khoẻ và dinh dưỡng
Thông qua việc đầu tư vào các ngành y tế, dược phẩm, nông nghiệp, chế biến thức
ăn, công nghệ sinh học, chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và nguồn thực phẩm

24


được tăng lên. Nhiều nhà đầu tư đã nghiên cứu để tìm ra sản phẩm y dược mới, thực
phẩm mới phù hợp với nước chủ nhà đông thời phổ biến các kiến thức về sức khoẻ và

dinh dưỡng, đây là vấn đề rất quan trong đối với những nước đang phát triển. Tính đến
cuối năm 1998, tổng vốn FDI vào lĩnh vực chế biến thực phẩm và y dược khoảng 1 tỷ
USD.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ĐTNN còn mang theo những ảnh hưởng
tiêu cực đến sức khoẻ cộng đồng như việc phát triển sản xuất rượu, bia, thuốc lá, thực
phẩm có ga,... Để hạn chế được ảnh hưởng này cần có một chính sách đầu tư hợp lý của
nước chủ nhà.
- Tạo một lượng lớn việc làm
Số người làm việc trực tiếp trong các dự án có vốn FDI ngày càng tăng ở cả
những nước PT và đang PT trong đó có phụ nữ và trẻ em. Theo con số thông kê chính
thức ở Việt Nam, cuối năm 1993 số lao động làm việc trong lĩnh vự này là 49.892, giữa
năm 94 tăng lên 88.054 và cuối năm 98 khỏng 270.000 người. Ngoài lực lượng lao động
trực tiếp, các dự án có vốn NN tạo được một số lượng lớn lao động gián tiếp thông qua
các hợp đồng cung cấp dịch vụ, gia công và đại lý.
Qua kết quả khảo sát số việc làm trực tiếp và gián tiếp do FDI tạo ra tại 10 doanh
nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau ở Việt Nam như sản xuất kinh doanh ôtô, sản xuất
thức ăn gia súc, điện tử, chế biến nông sản, vận tải,...người ta thấy rằng tại thời điểm
năm 1998, tỷ lệ tạo ra việc làm trực tiếp và gián tiếp thấp nhất là 1/1,97 và cao nhất là
1/59,1. Nếu dựa vào tỷ lệ thấp nhất để tính thì cuối năm 1998 ước tính có khoảng
532.000 lao động gián tiếp đã được tạo ra do các dự án FDI.
Tiền lương và thu nhập trong khu vực FDI hiện nay cũng cao hơn rất nhiều so với
các khu vực trong nước. Mức lương tối thiểu ở thành phố HCM và Hà Nội là 80
USD/người/tháng. Mức lương của các cán bộ quản lý người Việt Nam trong các liên
doanh còn cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như vậy không thể không nói đến những
tác động tiêu cực khác như hiện tượng “chảy máu chất xám” của nước chủ nhà do sự
chênh lệch và thu nhập và các chính sách đãi ngộ khác, tạo ra sự bất bình đẳng, xúc
phạm nhân phẩm người lao động,...

25



×