Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thị trường và các định chế tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.48 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BÁO CÁO
CHỦ ĐỀ 3: LÃI SUẤT
HỌC PHẦN: THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH

Nhóm 1:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Mai Nguyễn Công Thuận_41K01.1
Hoàng Thị Ngọc Anh_43K28
Mai Lê Trâm Anh_43K28
Nguyễn Tô Phương Ánh_43K28
Ngô Thị Thu Uyên_43K28
Nguyễn Thị Hồng Vinh_43K28
Lê Thị Yến_43K28

Giảng viên: Hà Lê Hồng Ngọc

Đà Nẵng, ngày 1, tháng 9, năm 2018


MỤC
LỤC
I.



Khái niệm: ................................................................................................................................... 2

II. Quá trình thay đổi lãi suất ở Việt Nam qua các giai đoạn:..................................................... 2
1. Trước khi LSCB ra đời (5/2000):........................................................................................... 2


Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1993: ............................................................................... 2



Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2000: ............................................................................... 3

2.

Khi LSCB ra đời (tháng 5/2000) đến trước khi xảy ra khủng khoảng tài chính toàn cầu

năm 2007/2008: ...............................................................................................................................
3
3. Giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008: .......................................................... 4


Trong năm 2007: .................................................................................................................. 4



Trong năm 2008 :................................................................................................................. 5

3. Từ 2009 đến nay: ..................................................................................................................... 7
III. Nhận định về sự thay đổi lãi suất ở Việt nam qua các giai đoạn: .......................................... 9

IV. Tài liệu tham khảo: .................................................................................................................... 9

1


I. Khái niệm:
Lãi suất: là tỷ số (% năm) giữa số lợi tức thu được hằng năm so với tổng số vốn cho
vay.nhìn chung xét về bản chất lãi suất là công cụ phản ánh giả cả vốn tín dụng.
Nếu căn cứ vào chủ thể tín dụng, chia lãi suất ra làm ba loại là: lãi suất tín dụng thương
mại, lãi suất tín dụng ngân hàng, lãi suất tín dụng nhà nước.
Lãi suất chịu sự tác động bởi nhiều nguyên tố, ngược lại lãi suất cũng có tác động đối
với hoạt động của nền kinh tế, khi lãi suất thay đổi sẽ trực tiếp tác động đến các yếu tố
khác của nền kinh tế:
-

Lãi suất tác động đến đầu tư: Khi lãi suất tăng sử dụng vốn vay bất lợi, bởi vậy
nhu cầu đầu tư bị thu hẹp, chỉ tiêu cho đầu tư sẽ giảm và ngược lại, khi lãi suất
giảm, sử dụng vốn vay có lợi, bởi vậy sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, chi tiêu đầu tư
sẽ tăng lên.

-

Lãi suất tác động đến chi tiêu và tiêu dùng: Khi lãi suất trong nước tăng, phi phí
cơ hội của việc nắm giữ tiền tăng, do đó nảy sinh khuynh hướng tiết kiệm chi tiêu
để chuyển tiền vào lĩnh vực cho vay, làm cho khuynh hướng cận biên tiêu dùng
giảm, dẫn tới chi tiêu tiêu dùng giảm, ngược lại khi lãi suất giảm sẽ tác động làm
cho khuynh hướng cận biên tiêu dùng tăng, dẫn tới chi tiêu tiêu dùng tăng.

-


Lãi suất tác động đến xuất khẩu ròng: Khi lãi suất trong nước tăng, sử dụng vốn
vay bất lợi, bởi vậy làm giảm nhu cầu đầu tư cho xuất khẩu, mặt khác khi lãi suất
tăng sẽ tác động xấu đến tỷ giá hối đoái, gây bất lợi cho nhà xuất khẩu, do đó làm
giảm xuất khẩu ròng.

-

Lãi suất tác động đến lạm phát: Sự tăng, giảm lãi suất tác động đến cung cầu quỹ
cho vay từ đó tác động đến cung cầu tiền tệ. Ngân hàng trung ương cí thể tăng lãi
suất tái chiết khấu để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt khi nền kinh tế bị lạm
phát nhằm ổn định tiền tệ, gia tăng sức mua đối nội của tiền tệ và bình ổn tỷ giá
hối đoái. Ngược lại khi thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm kích cầu và
chống giảm phát tiền tệ, chống suy thoái kinh tế bằng cách giảm lãi suất tái chiết
khấu.

II.

Quá trình thay đổi lãi suất ở2 Việt Nam qua các giai đoạn:


1. Trước khi LSCB ra đời (5/2000):


Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1993:

Từ ngày 26/3/1988, NHNN đã đổi mới cơ cấu tổ chức theo Nghị định 53/HĐBT, đánh dấu
một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của ngân hàng cũng như điều hành về lãi
suất. Theo đó, nếu

3



trước đây hệ thống ngân hàng hoạt động độc quyền thì nay đã hình thành nên NHTM hoạt
động dưới sự kiểm soát của NHNN.
Theo đó, Quyết định số 25-NH/QĐ ngày 12/5/1980 của NHNN quy định lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn là 0,6%/tháng; lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-3 tháng là 0,9%/tháng; 2-6 tháng là
1,05%/tháng; từ 612 tháng là 1,2%/tháng; trên 12 tháng là 1,5%/tháng... Trong giai đoạn này, chính sách lãi
suất dần thể hiện được vai trò của mình trong công cuộc kiềm chế lạm phát, đồng thời đã
hình thành nhiều loại lãi suất phù hợp với yêu cầu thị trường như lãi suất liên ngân hàng...
Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế và lãi suất tiết kiệm,
lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay, hơn nữa có sự phân biệt lãi suất cho vay giữa
khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh gây ra tình trạng bất bình đẳng trong nền kinh tế.


Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2000:

Năm 1996, theo nghị quyết của Quốc hội, NHNN bãi bỏ chính sách thu thuế doanh thu của
các hoạt động tín dụng nhằm giảm chi phí cho vay, song lãi suất cho vay vẫn tăng đột biến
trên 20%/năm. Lãi suất cho vay duy trì có sự khác nhau giữa nông thôn và thành thị, trong
khi tại khu vực nông thôn, NHNN duy trì lãi suất cao hơn để kích thích nguồn vốn vay về
khu vực này.
Quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN ban hành nhằm xóa bỏ cách biệt giữa lãi suất cho vay ở
cả hai khu vực, đồng thời thu hẹp lãi suất trần và bãi bỏ chêch lệch 0,35%/tháng nhưng trên
thực tế càng đưa khu vực nông thôn vào tình cảnh thiếu vốn, không đảm bảo an toàn tín
dụng ở nông thôn, vì không áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất. Từ sau năm 1997, các
NHTM đã giảm lãi suất cho vay như gia hạn các khoản nợ từ 1-3 năm cho DN lên đến 5
năm, cho các tập đoàn nhà nước vay không thế chấp đẩy lãi suất cho vay từ 20,1%/năm
trong năm 1996 giảm còn 14,4%/năm duy trì trong 2 năm 1997-1998.
Lãi suất tín dụng tăng trong thời gian này đến trực tiếp từ việc vay mượn bởi các DNNN
nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính của mình được vững vàng hơn để vượt qua cuộc khủng

hoảng kinh tế. Trong năm 1999, việc mở rộng chính sách tín dụng không làm kích thích tăng
4


trưởng kinh tế, lãi suất huy động vốn và lãi suất tín dụng đã giảm lần lượt 2%/năm so với
những năm trước.
Tuy nhiên, năm 2000 đánh dấu bước phát triển mới trong cơ chế điều hành lãi suất. Theo đó,
NHNN đã chấp nhận thay đổi lãi suất cho vay không được vượt qua lãi suất cơ bản cộng
thêm 0,3% mỗi tháng cho vay ngắn hạn và 0,5% mỗi tháng cho vay trung và dài hạn. Về cơ
bản, quyết định này không khác mấy so với quyết định áp trần lãi suất như trước kia nhưng
các NHTM có thể chủ động hơn trong việc đưa ra lãi suất cho vay tương ứng với từng đối
tượng khách hàng mà họ hướng tới.

2. Khi LSCB ra đời (tháng 5/2000) đến trước khi xảy ra khủng khoảng tài
chính toàn cầu năm 2007/2008:

Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực tốc độ tăng
trưởng GDP gia tăng cao và lạm phát được duy trì ở mức thấp (IMF, 2012). Ngoài ra, nguồn
vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài cũng như nguồn kiều hối gia tăng mạnh đã gây
nhiều sức ép lên CSTT và các NHTM bắt đầu có những dấu hiệu thừa vốn.

Trong bối cảnh đó, NHNN đã đặt ra mục tiêu là điều hành CSTT một cách thận trọng để ổn
định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, thúc đấy tăng trưởng kinh tế, kích cầu nền kinh tế
và phát triển ổn định hệ thống ngân hàng. Do đó, chính sách lãi suất nói chung và LSCB nói
riêng được NHNN điều hành cụ thể như sau:

5


- Ban hành và áp dụng LSCB từ tháng 5/2000 thay thế quy định về trần lãi suất cho vay.

Theo đó, lãi suất cho vay của các NHTM không được vượt quá biên độ dao động cho phép
(0,3%/tháng đối với lãi suất vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với lãi suất vay trung và dài
hạn). Thực chất việc quản lý hoạt động ngân hàng thông qua LSCB cộng biên độ dao động
hoàn toàn tương tự như việc quy định trần lãi suất cho vay được áp dụng trong giai đoạn
trước. Việc khống chế lãi suất cho vay đã làm cho lãi suất không phản ánh đúng quan hệ
cung - cầu vốn trên thị trường. Cụ thể là LSCB và lãi suất cho vay của các NHTM đều giảm
trong năm 2000 và 2001, tuy nhiên, cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới sự gia tăng lãi
suất huy động vốn (lãi suất cho vay không tăng do LSCB được điều chỉnh giảm để kích cầu
và khắc phục tình trạng giảm phát). Điều này đã làm giảm rõ rệt khoản chênh lệch giữa lãi
suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các NHTM, tạo nên áp lực rất lớn cho hệ thống NHTM.

- Thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng của các NHTM vào giữa
năm 2002. Trong đó, các NHTM được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở cung - cầu
vốn trên thị trường (giữa người đi vay và người cho vay). Tuy nhiên, NHNN vẫn tiến hành
công bố LSCB để định hướng thị trường. Việc thay đổi cơ chế điều hành LSCB vào giữa
năm 2002 có tác động phần nào tháo gỡ khó khăn cho huy động vốn của NHTM đáp ứng
nhu cầu vay vốn ở mức cao. Giai đoạn 2000 - 2005 được đánh giá là giai đoạn kinh tế Việt
Nam có nhiều biến chuyển tích cực trong tăng trưởng GDP và lạm phát được kiểm soát ở
mức thấp. Tuy nhiên, đây cũng được xem là giai đoạn châm ngòi cho một thời kì lạm phát
cao 2007. Việc hạn chế mức tăng trưởng tín dụng của các NHTM kết hợp với tốc độ lạm
phát có xu hướng gia tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu rút tiền và vay tiền tăng
mạnh đã thúc đẩy các NHTM chạy đua nâng lãi suất huy động để cân đối nguồn vốn cho
hoạt động tín dụng. Mặt bằng lãi suất tiền gửi xoay quanh mức 9%/năm vào thời điểm cuối
năm 2005 và tiếp tục gia tăng cho đến năm 2012. Mức LSCB 7,8%/năm được NHNN duy trì
đến cuối năm 2005 thấp hơn rất nhiều so với mức lãi suất cho vay cao nhất của NHTM,
thậm chí có lúc còn thấp hơn cả lãi suất huy động. Rõ ràng, việc điều hành LSCB của
NHNN trong giai đoạn này bắt đầu trở nên kém hiệu quả và mờ nhạt. Tuy nhiên, sự ra đời
của Luật Dân sự năm 2005 đánh dấu một vai trò mới của LSCB, trong đó, lãi suất cho vay
trong các hợp đồng tín dụng không được vượt quá 150% LSCB (Điều 476). Điều này đã
6



không khuyến khích ngân hàng phát triển những sản phẩm dịch vụ mới, nhất là những mảng
có tỉ lệ rủi ro cao. Như vậy, LSCB trong giai đoạn này đóng vai trò là cơ sở để các NHTM
tham khảo và xác định lãi suất kinh doanh, nhưng hầu như ít có tác dụng đến thị trường, kể
cả vai trò định hướng.

3. Giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008:



Trong năm 2007:

Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp lực tăng
lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD. Nhưng lãi suất vẫn
tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy
động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi suất năm 2007
là Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử”, áp
dụng ngay từ ngày đầu tiên của năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm điện tử” tiền VND của
Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn
12 tháng với mức tăng từ từ 0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm,9,45%/năm và
9,48%/năm, tương ứng với các mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50 - 200 triệu VND và từ
200 triệu
VND. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng
trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm

7


Lãi suất đầu năm tăng do theo lộ trình giảm thuế được cam kết khi gia nhập tổ chức thương

mại thế giới WTO, các doanh nghiệp tăng nhập hàng và cần một lượng lớn USD để thanh
toán. Chính tín hiệu vui từ thị trường này đã khiến đồng USD từ mức dư thừa hồi trước Tết
trở nên có giá và các ngân hàng nhân cơ hội này gia tăng huy động.

Hơn nữa, theo Nghị định 1141 mà NHNN vừa ban hành, nhà băng phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc từ
5% lên 10%. Điều này khiến chi phí đầu vào của ngân hàng gia tăng lên đáng kể và các
nhà băng phải đau đầu với bài toán sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động.

Nhưng đến cuối năm, lãi suất lại có xu hướng tăng do trong quý III-2007 lãi suất tiết kiệm
đã bị cắt giảm do các ngân hàng buộc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên bây giờ tăng lãi huy
động cũng là cách bù vào. Cuối năm thường là khoảng thời gian các doanh nghiệp hoàn
thành các hợp đồng đã ký, chuẩn bị nguồn lực tích trữ hàng hóa mà giá cả nguyên vật liệu
nhập khẩu đầu vào năm sau thường cao hơn năm trước nên nhu cầu vốn thường cao hơn.
Có lẽ đây cùng là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng chuẩn bị một lượng
vốn lớn để giải ngân vào thời điểm này.



Trong năm 2008 :
8


Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với một
biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn
chính: Cuộc đua tăng
lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng
ngược lại,

9



đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất
năm
2008 diễn ra như sau:

- 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh :

Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là
các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6
năm 2008 là
18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân
hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh
lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau:

+ Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm
phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả
năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú
trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.

+ Kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá
lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá
chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ
bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25%
lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi
suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền
khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008,
đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính thanh
khoản của các ngân hàng bị
chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua

nhau tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng.
10


+ Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các ngân hàng
đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư
tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu
cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài
từ 1 năm trở lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát
triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng
thương mại. Bởi vậy, áp lực trong cân đối nguồn vốn
các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng
lãi suất để thu hút vốn.

+ Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có
tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ
đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có
những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất
khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt
sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham
gia.

+ Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu
dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các ngân hàng cổ phần
không tăng lãi suất sẽ
khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người
gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất âm. Mặt khác, do hiện nay nền kinh tế chưa hấp thụ hết dòng
vốn ngoại, trong khi nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục
chảy vào nên phải tăng lãi suất huy động để hút tiền đồng.


11


- 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh:

Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu
hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5%
xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008. Một số nguyên nhân:

+ các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao
và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì
nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản
xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. NH nào cũng chỉ muốn cho vay khách
hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi LS ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là
vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích nhu cầu vay của DN tốt thì phải hạ
LS huy động.

+ Tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự
điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND
dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên
tục hạ LS tiền gửi VND. Từ 16,5%-17,5%/năm giảm về từ 10,5%- 14,5%/năm.

+ Trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu
quản trị…, các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với trường hợp của mình, cũng như theo
hướng chung của hệ thống. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chi phí đầu vào tăng
lên, khi có điều kiện các ngân hàng sẽ xem xét để có điều chỉnh hợp lý, tính đến cả mục tiêu
lợi nhuận của mình nữa, cùng với nhận định việc giảm lãi suất huy động sẽ không ảnh
hưởng lớn tới tốc độ huy động trong thời gian tới.

4. Từ 2009 đến nay:


12


Từ năm 2009 đến 2014, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng trầm của
nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do lạm phát tăng cao
khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện tượng khan
hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc chạy đua lãi suất
mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi suất.
Trong giai đoạn 2012-2014, mặt bằng lãi suất đã liên tục giảm dần theo định hướng của
NHNN. Cùng với đó, các chỉ số kinh tế vĩ mô như GDP và lạm phát đều khởi sắc hơn, tạo đà
cho các ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Từ năm 2015 đến nay, mặt bằng lãi suất được duy trì tương đối ổn định theo chiều hướng
giảm nhẹ lãi suất VNĐ (tuy nhiên gần đây lãi suất huy động trung dài hạn có chiều hướng
tăng do các ngân hàng cần huy động nguồn vốn TDH để đáp ứng Thông tư 06), giữ nguyên
lãi suất huy động USD ở mức 0% và tiếp tục giảm lãi suất cho vay USD để hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế và chống đô la hóa.

13




Ngày 25/11/2009, NHNN bất ngờ công bố quyết định tăng lãi suất cơ bản lên

mức 8%
năm, ápdụng từ ngày 1/12/2009.
Đây là quyết định khá bất ngờ, bởi trong 11 tháng liên tiếp duy trì lãisuất cơ bản ở mức

7%/năm, NHNN vẫn khẳng định sẽ giữ mức này tối thiểu đến hết năm 2009.

Với mức lãi suất cơ bản mới, trần lãi suất kinh doanh tại các ngân hàng thương mại sẽ
là12%/năm, thay vì mức 10,5%/năm trước đó. NHNN cũng tăng một loạt lãi suất tái cấp vốn
(từ7% lên 8%/năm) và lãi suất chiết khấu (từ 5% lên 6%/năm). Các mức lãi suất mới này
cũng sẽ cóhiệu lực từ ngày 1/12, qua đó gián tiếp hạn chế tín dụng bằng cách tăng chi phí
vốn của các ngânhàng thương mại. Với trần lãi suất kinh doanh 12%/năm theo mức lãi suất
cơ bản mới, các ngânhàng sẽ có nhiều lựa chọn hơn để “kéo” khách hàng đến gửi tiền, tăng
cơ hội giành nguồn vốn từcác kênh đầu tư khác như vàng hay chứng khoán.

Những tháng cuối năm 2010, khi dự báo về mức lạm phát 2 con số dần trở thành hiện thực,
vượt xa mức dự kiến 8,5%, và chỉ tiêu GDP cả năm gần như chắc chắn sẽ hoàn thành, ngày
5/11/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức nâng lãi suất cơ bản VND từ 8%/năm
lên 9%/năm, mục đích là nhằm thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Sang năm 2011, chính sách tiền tệ tiếp tục được thắt chặt hơn nữa do lo ngại ngày càng lớn
về tình hình lạm phát, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu leo thang, kinh tế thế giới đầy bất ổn
với cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp.

14


Năm 2012 liên tiếp chứng kiến động thái hạ trần lãi suất huy động của NHNN. Ngày
12/3/2012, NHNN chính thức giảm trần lãi suất từ 14% xuống 13%. Một tháng sau đó,
NHNN tiếp tục hạ trần lãi suất xuống 12% và xuống 11% kể từ ngày 28/5/2012.

Chỉ 2 tuần sau, trần lãi suất ngắn hạn lại được hạ xuống mức 9%, đồng thời, trần lãi suất
huy động trung dài hạn (từ 12 tháng trở lên) được bãi bỏ. Cuối năm 2012, trần lãi suất huy
động ngắn hạn tiếp tục được giảm xuống 8%.
Năm 2013 Lãi suất huy động và cho vay VNĐ duy trì xu hướng giảm nhưng tốc độ đã chậm
lại so với năm 2012.

Năm 2014 Lãi suất huy động và cho vay VNĐ tiếp tục giảm để thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng tín dụng.
Đến năm 2016 Lãi suất huy động VNĐ tăng nhẹ ở kỳ hạn dài để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ
VNH cho vay TDH, trong khi đó lãi suất cho vay VNĐ khá ổn định và ít biến động
Năm 2017 Lãi suất huy động VNĐ có sự phân hóa theo nhóm NHTM, trong khi đó lãi suất
cho vay tương đối ổn định. Mặt bằng lãi suất USD tiếp diễn xu thế những năm trước: lãi
suất huy động tiếp

15


tục giữ nguyên ở mức 0%, lãi suất cho vay USD tiếp tục giảm nhẹ. Đối với nhóm NHTM,
áp lực về việc điều chỉnh lãi suất tỷ lệ nghịch với quy mô của ngân hàng.

III.

Nhận định về sự thay đổi lãi suất ở Việt nam qua các giai đoạn:

 LSCB của NHTW luôn được xây dựng và điều chỉnh dựa trên cơ sở lãi suất cho vay cơ

bản của các NHTM kết hợp với những phân tích đánh giá chi tiết tình hình kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế
trong từng thời kỳ cụ thế. Trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát (lạm phát
thực tế và lạm phát mục tiêu) được xem là những nhân tố quan trọng.
 Thành công của việc thực thi CSTT nói chung và hiệu quả truyền tải của LSCB đến nền

kinh tế nói riêng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như: sự ổn định về chế độ chính
trị; niềm tin của
người dân vào sự quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước; tỷ trọng thương
mại quốc tế giữa các quốc gia; sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia; sự phát

triển của thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu NHTW, cơ chế điều hành linh hoạt
CSTT của NHTW,...
 Sự thay đổi LSCB phụ thuộc vào sự lựa chọn mục tiêu của CSTT và diễn biến kinh tế vĩ

mô, tình trạng vốn khả dụng của NHTM; LSCB cần phải phản ánh vai trò của NHTW
là người cho vay
cuối cùng trên thị trường liên ngân
hàng.
 Việc công bố LSCB của NHTW tác động đến nền kinh tế theo nhiều kênh khác nhau và

không nên gây nên xáo trộn về lãi suất và giá tài sản (cổ phiếu và trái phiếu) trên thị
trường vốn và tỷ
giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính kinh
doanh thuận lợi, có hiệu quả.

16


 Hiệu quả của việc thực hiện CSTT thông qua công cụ LSCB của NHTW còn phụ thuộc

vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia nên rất khó để có thể đo lường một cách chính
xác ảnh hưởng của
một sự thay đổi của LSCB lên giá cả và độ trễ truyền dẫn của từng kênh
truyền dẫn.
 Ngoài ra, để hạn chế những suy thoái kinh tế kéo dài do ảnh hưởng của cuộc khủng

khoảng tài chính nói chung và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007/2008 nói
riêng, nhiều NHTW đã
linh hoạt áp dụng các công cụ truyền thống của LSCB, nghiệp vụ thị trường mở với một
số công cụ mới hoặc cách tiếp cập mới để bơm tiền vào nền kinh tế nhằm thúc đẩy chi

tiêu và do đó, giúp đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu.

 Các thuật ngữ:
CSTT: Chính sách tiền tệ
NHTM: Ngân hàng thương
mại NHNN: Ngân hàng nhà
nước LSCB: Lãi suất sơ bản
NHTW: Ngân hàng trung ương

IV.

Tài liệu tham khảo:

/> />%E1%BA%A5t />
17


V.

Câu hỏi

1.
Q: Vì sao lãi suất gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì cao hơn không kỳ hạn?
A: Vì: Gửi tiết kiệm không kỳ hạn là hình thức tiết kiệm mà người rút tiền theo yêu cầu
không cần phải thông báo trước. Tiền gửi tiết kiệm này có lãi suất thực gửi. Thông
thường người tiêu dùng chọn hình thức tiết kiệm không kỳ hạn này là để mục đích nhờ
ngân hàng giữ tiền giúp một thời gian và sẽ rút bất cứ lúc nào cần thiết. Vì vậy, ngân
hàng không thể dùng số tiền đó để đầu tư, cho vay hay đảm bảo các thanh khoản khác.
Mặt khác, đối với gửi tiết kiệm có kỳ hạn, ngân hàng có thể hoàn toàn yên tâm về khoảng
thời gian bạn rút tiền nên có thể tiến hành hoạt động đầu tư.

2.
Q: Từ ngày 1/06/2002 Việt Nam đã thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất và ngân hàng
thương mại căn cứ vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố để làm cơ sở xác
định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. Nhưng ngày 26/2/2008 Ngân hàng Nhà
nước ban hành công điện 02/CĐ-NHNN, trong đó yêu cầu các ngân hàng thương mại
điều chỉnh lãi suất huy động vốn không quá 12%/năm.Câu hỏi là Ngân hàng Nhà nước
ấn định lãi suất trần thì có đúng với chính sách tự do hóa lãi suất không?
A: Việc can thiệp vào các hoạt động của Ngân hàng thương mại (NHTM)từ Ngân
hàng trung ương (NHTW) là do chức năng quản lý của NHNN Việt Nam.
Việc quy định mức lãi suất trần là nhằm mục đích ổn định sự phát triển kinh tế vĩ mô
liên quan tới tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát cũng như yêu cầu sự duy trì cán cân
cung-cầu trong kinh tế tổng thể. Trong đó có lĩnh vực tài chính - Ngân hàng. Cục Dự trữ
liên bang Mỹ cũng từng có động thái tương tự như: Bơm tiền vào thị trường, đồng thời
hạ mức lãi xuất của đồng Dola
nhằm chống lại sự mất giá và cuộc khủng khoảng tài chính của Mỹ. Các động thái này
không có gì mâu thuẫn với chính sách tự do hóa thị trường tín dụng cả.
3.
Q: vấn đề thâm hụt ngân sách ảnh hưởng ntn tới lãi suất
18


A: vấn đề thâm hụt ngân sách dẫn tới nợ công tăng cao, Chính phủ tiếp tục đi vay qua
phát hành trái phiếu. Nhiều năm qua, trái phiếu Chính phủ là một kênh đầu ra quan trọng
cho các ngân hàng thương mại. đầu ra nhiều và thuận lợi hơn sẽ hạn chế động lực cạnh
tranh và hạ giá vốn - lãi suất
4.
Q: Tại sao k tăng lãi suất tiền gửi USD khi nó vẫn luôn ở mức 0
A: do lạm phát luôn ở mức cao nên tình trạng đô-la hóa của Việt Nam ở mức báo động,
cần kiểm soát. Lãi suất đang là một trong những yếu tố chịu nhiều áp lực nhất trong điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2018. Vì tăng lãi suất USD chúng ta phải

tăng lãi suất VND thì mới khuyến khích người nắm giữ USD bán chuyển đổi sang tiền
đồng. Nhưng nếu tăng lãi suất huy động VND sẽ tạo áp lực tăng lãi suất cho vay.

19



×