Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận pháp luật về doanh nghiệp tư nhân thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.84 KB, 34 trang )

KHOA LUẬT- ĐẠI HỌC HUẾ

NIÊN LUẬN
Huế ,1/2013

Đề tài : “Pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân. Thực trạng và giải pháp”

Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Hà
Sinh viên :
Phạm Thị Khánh Linh
Lớp :
Luật K34B


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, việc xây dựng một
khung pháp lý hoàn thiện để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động kinh tế là một
yêu cầu bức thiết. Song song với việc công nhận sự tồn tại của các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế thì nhà nước cũng ban hành các văn bản pháp luật quy
định về tổ chức và hoạt động của chúng. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời trên
cơ sở hợp nhất Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 nhìn
chung đã quy định tương đối đầy đủ về các loại hình doanh nghiệp tại nước ta,
trong đó có cả doanh nghiệp tư nhân. Để góp phần tìm hiểu một số vấn đề về
doanh nghiệp tư nhân, bài tiểu luận với đề tài “Pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân.
Thực trạng và giải pháp” hi vọng qua đó góp phần hiểu thêm về những quy định
của pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam.

MỤC LỤC:
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
2.


3.
4.

Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG

1.1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP TƯ
NHÂN
Khái quát về doanh nghiệp tư nhân

1.1.1 khái niệm doanh nghiệp tư nhân
1.1.2 Đặc điểm


1.2 Quy chế pháp lí của doanh nghiệp tư nhân
1.2.1Quyền và nghĩa vụ
1.2.1.1Quyền của doanh nghiệp tư nhân
1.2.1.2Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
1.2.2 Hình thành và chấm dứt doanh nghiệp tư nhân
1.2.2.1 Thành lập doanh nghiệp tư nhân
1.2.2.2 Chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân
Chương 2: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN tại việt nam và một số
giải pháp:
2.1Khái quát chung về quá trình phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

2.2Đánh giá thực trạng doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam
2.3Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển DNTN tại Việt Nam:
PHẦN KẾT LUẬN
I.

Mở đầu:
1. Tính cấp thiết của đề tài : Doanh nghiệp tư nhân ởViệt Nam được đánh
giá là một trong các hình thức kinh tế năng động và linh hoạt nhất trong
tổng thể bức tranh kinh tế hiện nay. Với sự hướng dẫn và điều chỉnh của
bộ luật doanh nghiệp từ năm 1990 đến 2005, bộ phận kinh tế này đã khởi
sắc và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc gia. Luật
Doanh nghiệp năm 2005 đã cải tiến nhiều điều khỏan không còn phù hợp
của luật Doanh nghiệp năm 1990 và 1999 và đã làm giảm các rào cản về
mặt thủ tục đối với các doanh nghiệp tư nhân. Việc đăng ký kinh doanh
và nộp đơn xin thành lập doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn rất nhiều so
với trước đây. Hệ thống doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam cũng có
nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tếquốc gia. Các doanh nghiêp tư
nhân cũng tuyển một lượng lớn lao động nhân công và giúp giải quyết
tình trạng thất nghiệp. Chúng ta có thể thấy việc phát triển doanh nghiệp


II.

tư nhân Việt Nam dưới sự điều chỉnh của các bộ luật kinh tế, đặc biệt là
bộ luật doanh nghiệp 2005 là một vấn đề rất đáng quan tâm và cần
nghiên cứu tìm hiểu kĩ, đặc biệt đối với các bạn sinh viên. Vì vậy qua
việc nghiên cứu đề tài này sẽ có thể làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến
doanh nghiệp tư nhân.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3. Mục tiêu: Niên luận tập trung nghiên cứu và đưa ra những giải pháp hỗ

trợ tổng thể trên phương diện vĩ mô nhằm phát triển doanh nghiệp tư
nhân trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: bài viết tạp trung nghiên cứu pháp
luật Việt Nam về doanh nghiệp tư nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương ph áp luận duy vật lịch sử
và duy vật biện chứng, bài niên luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, thống kê và phương pháp
thực chứng thông qua các công cụ tổng hợp, so sánh từ các dãy số liệu
thống kê, điều tra
Trong nghiên cứu, còn tiến hành tham vấn ý kiến của các nhà doanh
nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia nghiên cứu trong
lĩnh vực phát triển doanh nghiệp.
Nội dung:

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1 Khái niệm:
1.1.1 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân
Khái niệm doanh nghiệp ra đời khá muộn ở Việt Nam. Doanh nghiệp tư nhân
ra đời sai Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng; khi Nhà nước ban hành
các văn bản pháp luật thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân nói chung và
daonh nghiệp tư nhân nói riêng. Văn bản đầu tiên là Nghị định số 27/HĐBT1998 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau đó ngày 21/12/1990 Luật doanh nghiệp tư
nhân được ban hành. Luật Doanh nghiệp tư nhân quy định: “Nhà nước công
nhận sự tồn tại lâu dài và sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận
sự bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp khác”.
Hiến pháp 1992 của Việt Nam cũng ghi nhận: “Nhà nước phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
đa dạng, dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân”; “ các cơ


sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước

pháp luật”.
Qua đó, cho thấy đầu những năm 1990, hình thức doanh nghiệp tư nhân đã
được thừa nhận và sau này ngày càng được hoàn thiện hơn qua các văn bản
Luật.
Một trong những văn bản đánh dấu rõ nét nhất sự hoàn thiện đối với các loại
hình doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng
là Luật doanh nghiệp 1999. Luật doanh nghiệp 1999 đã bổ sung cả cơ cấu lại
các quy định về doanh nghiệp tư nhân, từ khái niệm, cơ cấu tổ chức, trình tự
thành lập, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân cũng như của chủ
doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã đặt cơ sở cho sự phát
triển đồng bộ, thống nhất giữa các loại hình doanh nghiệp.
Tại Điều 99 của Luật doanh nghiệp 1999, doanh nghiệp tư nhân được quy
định như sau: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp”.
Ngày 29/11/2005, Luật doanh nghiệp 2005 được Quốc hội ban hành thay thế
cho Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2000). Luật doanh
nghiệp năm 2005 ra đời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng mạnh
của Việt Nam và phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế trên thế giới.
Trong Luật doanh nghiệp 2005, một lần nữa, vị trí và vai trò của doanh nghiệp
tư nhân được khẳng định thông qua sự bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các quy
định về loại hình doanh nghiệp tư nhân. Tại Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005
quy định: “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ một loại chứng
khoán nào; mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư
nhân”.

Đặc điểm:

Thứ nhất,về chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân

1.1.2


Theo quy định của pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp tư nhân thuộc nhóm
doanh nghiệp một chủ sở hữu. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do
một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và đầu tư, mỗi cá nhân chỉ được quyền sở
hữu một doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp mà tất cả tài sản thuộc về một chủ sở
hữu duy nhất; người chủ này là một cá nhân, một con người cụ thể. Cá nhân
này vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lí hoạt động
của doanh nghiệp tư nhân.
Cá nhân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành quản lý doanh nghiệp. Song
chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất , vì vậy cá nhân
có quyền quyết định mọi vấn đề lien quan đến tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp . chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện pháp luật
của doanh nghiệp tư nhân. Một trong nhứng ưu điểm của việc lựa chọn
mô hình doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền lực quản lý
doanh nghiệp với bất kì đối tượng nào khác. Chủ doanh nghiệp có quyền
định đoạt đói với tài sản doanh nghiệp cũng như có toàn quyền quyết
định đối với tài sản doanh nghiệp cũng như toàn quyền quyết định việc
tổ chức quản lý doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Chủ
doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình quản lý doanh nghiệp. trong
trường hợp thuê người quản lý, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu pháp lý
trước hoạt động doanh nghiệp dưới sự quản lý , điều hành của người
được thuê. Giới hạn trách nghiệm được phân chia của chủ doanh nghiệp
và người được thuê quản lý thông qua mộ hợp đồng. nhưng về cơ bản ,

người chịu trách nghiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba đối
với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn là chủ doanh nghiệp tư
nhân.
Thứ hai, về vốn của doanh nghiệp tư nhân
Vốn của doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tư nhân tự khai, chủ
doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ khai báo chính xác tổng số vốn đầu tư,
trong đó nêu rõ: sô vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng


và các tài sản khác. Đối với vốn bằng tài sản khác, còn phải ghi rõ loại tài sản,
số lượng, giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Toàn bộ vốn và tài sản, kể cả vốn
vay và tài sản thuê, được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp tư nhân đều phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài
chính của doanh nghiệp tư nhân.
Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
tăng, giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép vào sổ kế
toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký, thì
chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã khai báo với cơ quan
đăng kí kinh doanh.
Thứ ba, về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân
Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ đến
hạn của doanh nghiệp. Trách nhiệm vô hạn nghĩa là chủ doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình mà không có sự phân biệt tài
sản trong kinh doanh và tài sản ngoài kinh doanh.
Tài sản trong kinh doanh là những tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, tài sản ngoài kinh doanh là những tài sản tiêu dung
hàng ngày như: xe cộ, nhà cửa…không đưa vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, chế độ trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp tư nhân khác

với chế đố trách nhiệm tài sản của công ty. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn
của chủ doanh nghiệp tư nhân có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Chế độ trách nhiệm vô hạn có những điểm đáng lưu ý:
Thứ nhất, trách nhiệm của người điều hành doanh nghiệp trong quan hệ với chủ
doanh nghiệp không phải là người điều hành doanh nghiệp. Trách nhiệm này được
giải quyết trên cơ sở hợp đồng của chủ doanh nghiệp với người điều hành doanh
nghiệp và các quy định trong pháp luật hợp đồng.
Thứ hai, vấn đề tài sản của vợ chồng. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình,
vợ chồng có tài sản riêng. Các tài sản riêng của vợ (hoặc của chồng ) không phải là
tài sản của chủ doanh nghiệp và không đem ra thanh toán nợ của chủ doanh nghiệp.
Thứ ba, chế độ trách nhiệm vô hạn cũng có nhược điểm làm cho các chủ doanh
nghiệp tư nhân không dám đầu tư vào những lĩnh vực , khu vực có nhiều rủi ro cao.


Điều đó có thể dẫn đến sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế và có những nhu
cầu của xã hội không được đáp ứng.

Thứ tư, về phát hành chứng khoán của doanh nghiệp tư nhân
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân
không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Như vậy, khác với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong quá
trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân không được quyên huy
động vốn bằng việc phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái
phiếu… Đây cũng là một hạn chế của loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Thứ năm, về tư cách pháp nhân
Doanh nghiệp tư nhân là tổ chức kinh tế không có tư cách pháp nhân. Đây là
loại hình doanh nghiệp duy nhất không có sự tách bạch về tài sản (chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của doanh nghiệp). Vì
thế nó không thỏa mãn một trong các điều kiện cơ bản của một pháp nhân
1.2 Quy chế pháp lý về doanh nghiệp tư nhân:

1.2.1 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân.
a)Quyền của doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh với tư cách là một
chủ thể kinh doanh độc lập. Nhà nước không chỉ thừa nhận sự tồn tại và phát triển
lâu dài của doanh nghiệp tư nhân mà còn thừa nhận là một chủ thể pháp lý độc lập.
Điều đó được thể hiện một cách rõ nét trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân có các quyền sau:
- Tự chủ kinh doanh, chủ động chọn ngành, nghề, địa bàn đầu tư; chủ động
mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh; được nhà nước khuyến khích
ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ công ích;
Quyền này xuất phát từ nguyên tắc tự do kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân
sau khi thừa nhận về mặt pháp lý , trở thành chủ thể kinh doanh độc lập sẽ


có quyền kinh doanh độc lập sẽ có quyền kinh doanh đúng với ngành nghề
đã đăng kí. Đó có thể là bất cứ ngàng nghề gì, thuoccj bất cứ lãnh vực nào
không thuộc danh mục ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh. Sự lụa chọn
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp tư nhân . Chủ doanh
nghiệp tư nhân sẽ dựa trên khả năng của chính mình, quy mô kinh
doanh ,nhu cầu của thị trường để quyết định các phương hướng đầu tư,
kinh doanh. Việc kinh doanh ngành nghề gì, kinh doanh như thế nào không
nhất thiết phụ thuộc vào ý chí chủ quan ban đầu (ở thời điểm đăng kí kinh
doanh) của chủ doanh nghiệp tư nhân. Việc thay đổi ngành nghề kinh
doanh được pháp luật chấp nhận ở bất kì thời điểm nào và cũng hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ doanh nghiệp
- Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn
Yếu tố đóng một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh, ngay cả đối với
những loại hình doanh nghiệp một chủ vốn cũng là một thứ không thể thiếu tình

trạng thiếu thốn vốn chính là đặc điểm thường thấy của doanh nghiệp tư nhân vì
vốn của doanh nghiệp có nguồn từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Luật doanh
nghiệp năm 2005 cho phép doanh nghiệp tư nhân lựa chọn những hình thức, cách
thức động vốn linh hoạt và quyền này do chủ doanh nghiệp thực hiện.
Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng;
Doanh nghiệp tư nhân có quyền tự mình tìm kiếm khách hàng và kí kết hợp
đồng , nghĩa là được quyền quyết định xem ai sẽ là đối tác của mình trên thương
trường.
Đây cũng là một trong những công cụ để một loại hình doanh nghiệp một chủ như
doanh nghiệp tư nhân có thể có chỗ đứng tồn tại được trong môi trường kinh
doanh mà cạnh tranh chính là động lực chủ yếu của sự phát triển. Trong môi trường
đó, buộc chủ doanh nghiệp tư nhân phải tìm kiếm những nơi có đầu tư tương lai,
những đối tác làm ăn có lợi. Nhà nước không can thiệp vào doanh nghiệp tư nhân tư
nhân quan hệ với những đối tác nào ,quan hệ ra sao nếu như những quan hệ ấy vẫn
không nằm ngoài những gì pháp luật cho phép.
-

-

Kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu;
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cho doanh nghiệp nói chung


-

quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu như một quyền đương nhiên
của một doanh nghiệp chứ không phải quyền riêng cảu các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu trước đây, doanh ngiệp được tự mình quyết
định các phương án xuất nhập hàng hóa, dịch vụ của mình mà không cần
bất cứ một loại giấy phép xuất khẩu nào. Như vậy với tư cách là một doanh

nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng
đương nhiên có quyền này. Trong bối cảnh chung đó, doanh nghiệp tư
nhân khi có trong tay quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cũng hoàn toàn có
thể sử dụng quyền này như một công cụ để cạnh với các loại hình doanh
nghiệp tư nhân khác trên thị trường.
Tuyển dụng, thuê mướn, bố trí, sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh;

Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả và
khả năng cạnh tranh;
- Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ;
- Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của doanh nghiệp;
Đây là quyền đầu tiên và cũng là quyền cơ bản nhất của doanh nghiệp tư
nhân. Không giống như các loại hình công ty như công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân tư nhân
chỉ có một chủ duy nhất. Tài sản của doanh nghiệp không được hợp thành từ tài sản
vốn góp của các thành viên như hình thức công ty ,tài sản của doanh nghiệp tư nhân
tư nhân chính là tài sản của cá nhân chủ doanh nghiệp. Do đó, so với các hình thức
công ty, tài sản của doanh nghiệp tư nhân tư nhân khó tách bạch với tài sản dân sự
cũ chủ doanh nghiệp tư nhân tư nhân. Đồng thời, vốn của chủ doanh nghiệp tư
nhân là do chủ doanh nghiệp tư nhân tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân
có quyền tự tăng giảm vốn đầu tư mà không phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh
doanh, trừ trường hợp giảm vốn đầu tư xuống dưới mức đã đăng kí, vì vậy. Tài sản
của doanh nghiệp tư nhân tại một thời điểm nhất định phụ thuộc hoàn toàn vào
hành vi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Khái niệm “tài sản của doanh nghiệp” đối với
trường hợp doanh nghiệp tư nhân cũng có thể hiểu đó là tài sản đưa vào kinh doanh
của chủ doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói, do chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ
doanh nghiệp đối với những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân nên
không thể có giới hạn giữa tài sản của chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp
-



tư nhân. Một cách khác, có thể hiểu, khối tài sản riêng của doanh nghiệp tư nhân
cũng vẫn có thể tồn tại nhưng là trong một khoảng thời gian nhất định và phụ thuộc
hoàn toàn vào chủ doanh nghiệp tư nhân . Về nguyên tắc, doanh nghiệp tư nhân sẽ
có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản của doanh nghiệp nhưng
trên thực tế, chỉ có chủ doanh nghiệp tư nhân mới có đủ điều kiện, khả năng để
thực hiện quyền này.
-

Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được luật quy định;
Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nài, tố cáo;
Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật;
Các quyền khác do pháp luật quy định.

. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã thể hiện sự đổi mới thông qua việc nâng cao và
tính tự chủ của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng trong
quá trình hoạt động kinh doanh trách được các tác động không có lợi từ bên ngoài.
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã thể hiện sự dổi mới thông qua việc nâng cao tính tự
chủ của doanh nghiệp tư nhân trong việc tự mình hạn chế sự can thiệp quan lieu,
tiêu cực tói chính hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế đến mức tối đa sự “ sách
nhiễu” của các cơ quan chức năng , những người có thế lực đồi với haotj động kinh
doanh của doanh nghiệp.
a.2) Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân có các nghĩa vụ sau:

Như vậy, về cơ bản , doanh nghiệp tư nhân có tất cả các quyền và nghĩa vụ của
một doanh nghiệp, ngoài ra ,nó còn có quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ doanh
nghiệp:
Một là, quyền quản lí doanh nghiệp

Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.


Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành
hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh
nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh
và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh
nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Hai là, quyền cho thuê doanh nghiệp
Điều 144 luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về quyền cho thuê toàn bộ của chủ
doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh
nghiệp của mình nhưng phải báo cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho
thuê có công chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế. Trong thời hạn
cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với
tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người
thuê đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng
cho thuê
Ba là, quyền bán doanh nghiệp
Điều 145, Luật doanh nghiệp năm 2005 cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền
bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán
doanh nghiệp của mình cho người khác. Chậm nhất mười lăm ngày trước ngày
chuyển giao doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng
văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Thông báo phải nêu rõ tên, trụ sở của
doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người mua; tổng số nợ chưa thanh toán của doanh
nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và thời hạn thanh toán cho từng chủ nợ; hợp đồng lao động

và các hợp đồng khác đã ký mà chưa thực hiện xong và cách thức giải quyết các hợp
đồng đó. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ
trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác.
Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về lao
động. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh lại theo quy định của Luật
này.


1.2.2 Hình thành và chấm dứt DNTN:
1. a) Thành lập doanh nghiệp tư nhân
a. Đối tượng có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tư nhân
Theo Khoản 1, 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005, mọi cá nhân có quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp, trừ các trường hợp sau:
1. Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản
nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị
mình;
2. Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam;
4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà
nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
5. Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự;
6. Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh
doanh;
7. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
( theo quy định tại Điều 94 Luật phá sản Doanh nghiệp, Hợp tác xã 2004, thì:

-Người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng
quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không
được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày
công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản.
Người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp khác mà
doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý
ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.
-Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc


(Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên
của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá
sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, trừ trường hợp bị tuyên bố phá sản vì lý do
bất khả kháng).
* Các điều kiện khác
Ngoài hai điều kiện trên còn các điều kiện khác như điều kiện về ngành nghề
kinh doanh, điều kiện về tên doanh nghiệp… cũng đóng góp những phần không nhỏ
để làm căn cứ xét tính hợp pháp của việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư
nhân.
- Thứ nhât, với nghành nghề kinh doanh.
Với điều kiện này, pháp luật quy định doanh nghiệp được kinh doanh tất cả
ngành nghề mà pháp luật không cấm. Về cơ bản, ngành nghề kinh doanh được chia
theo các nhóm: Nhóm ngành nghề kinh doanh tự do, nhóm ngành nghề kinh doanh
có điều kiện ( phải có chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề) và nhóm
ngành nghề kinh doanh bị cấm. Như vậy chủ đầu tư có thể lựa chọn bất cứ ngành
nghề nào nằm ngoài nhóm ngành nghề bị cấm kinh doanh, đặc biệt đối với ngành
nghề kinh doanh có điều kiện thì việc chọn ngành nghề kinh doanh được coi là hợp
pháp khi chủ đầu tư đáp ứng đầy đủ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên

quan đến ngành nghề đó.
- Thứ hai, điều kiện về tên doanh nghiệp
Với điều kiện về tên doanh nghiệp, khoản 1, khoản 2, điều 31 Luật kinh
doanh năm 2005 quy định: tên doanh nghiệp phải được viết tắt bằng tiếng Việt và
có thể kèm theo chữ số và
kí hiệu, phải phát âm được và có ít nhất 2 thành tố:
loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Như vậy, với quy định này, tên của các doanh
nghiệp tư nhân phải đều phải kèm theo cụm từ “ Doanh nghiệp tư nhân”. Ngoài ra,
pháp luật còn nêu ra một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn teen cho doanh
nghiệp như: khong đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã
đăng kí, không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chình trị - xã hội, để làm toàn bộ hoặc một
phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan,


đơn vị hoặc của tổ chức đó, không được sử dụng từ ngữ, kí hiệu vi phạm truyền
thống lịch sử, văn hóa đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta để đặt tên riêng
cho doanh nghiệp. Ngoài ra pháp luật cũng cho phép các doanh nghiệp được dịch
tên sang tiếng nước ngoài hoặc viết tắc, tuy nhiên trong mọi trường hợp vẫn phải
thể hiện đầy đủ tên của doanh nghiệp bằng tiếng Việt trên biển hiệu của doanh
nghiệp.

b. Thủ tục thành lập
trước đây, thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân phải trải qua ba bước: xin phép
thành lập, ký quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh. Hiện nay, việc thành lập
doanh nghiệp tư nhân nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung đơn giản, gọn
nhẹ hơn, chỉ còn một bước duy nhất ký kinh doanh và Đăng báo công khai.
Đăng ký kinh doanh là việc ghi nhận về mặt pháp lý sự ra đời của một doanh nghiệp.
Kể từ thời điểm đăng kí kinh doanh, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
doanh nghiệp tư nhân mới có tư cách chủ thể để tham gia các hoạt động kinh doanh

trên thương trường. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân chỉ xác nhận khi chủ
doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc tiến
hành đăng ký kinh doanh được quy định như sau:
Trước hết, chủ doanh nghiệp tư nhân nộp một bộ hồ sơ đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật tới Phòng đăng ký kinh doanh của tỉnh nơi doanh nghiệp tư nhân
đặt trụ sở chính. Hồ sơ đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân gồm có:
1. Giấy đề nghị đăng kí kinh doanh;
2. Bản sao Giấy chứng minh nhân dân; Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp

pháp khác.
3. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với

doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có
vốn pháp định.
4. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp

kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ
hành nghề.


Cơ quan đăng kí kinh doanh xem xét hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu từ chối thì thông
báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lí do
và các yêu cầu sửa đổi.
Đăng báo công khai: Luật doanh nghiệp quy định, chậm nhất là 30 ngày sau khi nhận
được giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, chủ doanh nghiệp phải công bố hoạt động
của mình trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng kí kinh doanh hoặc
một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung
sau:
-


Tên doanh nghiệp tư nhân;

-

Địa chỉ, trụ sở chính của doanh nghiệp tư nhân, chi nhánh, văn phòng đại diện
(nếu có);

-

Mục tiêu, ngành nghề kinh doanh;

-

Họ tên, địa chỉ thường trú của doanh nghiệp tư nhân;

-

Nơi đăng kí kinh doanh.

Việc đăng báo công khai này có ý nghĩa như một lời tự giới thiệu của doanh nghiệp
để công chúng biết rằng: tại thời điểm này, có một doanh nghiệp được thành lập và
hoạt động trên thương trường.

b.2) Chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
2. Giải thể
a. Khái niệm

Giải thể doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp đó về
mặt pháp lí và trên thực tế.



b. Các trường hợp giải thể

Theo Điều 157 Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân giải thể
trong các trường hợp sau:
-Theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân.Đây là trường hợp giải thể
tự nguyện,nghĩa là theo nguyện vọng của chính bản thân chủ doanh
nghiệp.Luật doanh nghiệp đã tôn trọng quyền tự do kinh doanh của chủ
doanh nghiệp.Việc thành lập doanh nghiệp hay giải thể doanh nghiệp sẽ
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí và suwjluwaj chọn của chủ doanh nghiệp tư
nhân.
-Doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.Đây là
trường hợp giải thể bắt buộc đối với doanh nghiệp tư nhân.Việc quy định
này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong việc áp dụng
luật.
-Doanh nghiệp tư nhân sẽ bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
khi có sự vi phạm pháp luật.Tại Khoản 2 Điều 165 Luật doanh nghiệp
2005quy định doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
và bị xóa tên trong sổ đăng kí kinh doanh trong các trường hợp sau đây:
+Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng kí kinh doanh là giả mạo;
+Doanh nghệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật;
+Không đăng kí mã số thuế trong thời hạn một năm kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh ;
+Không hoạt động tại trụ sở đăng kí đăng kí trong thời hạn sáu tháng liên
tục,kể từ ngày được cấp giấy chắng nhận đăng kí kinh doanh hoặc chứng
nhận thay đổi trụ sở chính ;
+Không báo cáo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan
đăng kí kinh doanh trong mười hai tháng liên tục;

+Ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo
với cơ quan đăng kí kinh doanh;


+Doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định đến cơ quan đăng kí
kinh doanh trong thời hạn ba tháng ;kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản;
+Kinh doanh ngành, nghề bị cấm
c. Thủ tục giải thể doanh nghiệp

Việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện theo quy định sau đây:
Trước hết phải thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp .
Quyết định giải thể doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây
1.Tên,địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp
2.Lý do giải thể ;
3.Thời hạn ,thủ tục thanh toán hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp;thời hạn thanh toán nợ;thanh lý hợp đồng không vượt quá 6 tháng ;kể từ ngày
thông qua quyết định giải thể;
4.Phương án xử lí các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;
5.Họ ,tên ,chữ kí của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp tổ chức thanh lí tài sản doanh nghiệp;trừ trường
hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lí riêng. Trong thời hạn bảy
ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan
đăng kí kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan,
người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính
và chi nhánh của doanh nghiệp.
Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu đăng báo thì quyết định giải thể doanh
nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên
tiếp .
Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương án
giải quyết nợ.Thông báo phải có tên.địa chỉ của chủ nợ ,thời hạn ,địa điểm và phương

thức thanh toán số nợ đó ;cách thứ và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ .Các
khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo số thứ tự sau đây:


-Các khoản nợ lương,trợ cấp thôi việc ,bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật
và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng
lao động đã kí kết ;
-Nợ thuế và các khoản nợ khác .
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp ,phần còn
lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân ,các thành viên ,cổ đông hoặc chủ sỡ hữu công
ty.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh
nghiệp,người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể doanh
nghiệp dến cơ quan đăng kí kinh doanh ,Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày
nhận hồ sơ hợp lệ ,cơ quan đăng kí kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí
kinh doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan
đăng kí kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí kinh doanh.
Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, doanh
nghiệp giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh. Trình tự và thủ tục giải thể được thực hiện theo quy định của pháp
luật.
Sau thời hạn 6 tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng kí kinh doanh không
nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể
và cơ quan đăng kí kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí kinh doanh.
Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, các thành viên hợp
danh đối với công ty hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán.
3. Phá sản


Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dưới sự tác động của quy luật cạnh
tranh, bên cạnh những doanh nghiệp đứng vững và phát triển, cũng có những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và bị phá sản. Sự phá sản doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, một doanh nghiệp phá
sản có thể ảnh hưởng đến lợi ích của những người có liên quan cũng như lợi
ích chung toàn xã hội. Chính vì vậy, ngày 30 tháng 12 năm 1993, Quốc hội
nước ta đã ban hành Luật phá sản doanh nghiệp và đã được thay thế cho Luật


phá sản ban hành ngày 15/6/2004.
Theo quy định của Luật phá sản, doanh nghiệp tư nhân “lâm vào tình trạng phá
sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu”.
Dấu hiệu xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là:
-

Doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn

-

Việc thanh toán này không thực hiện được khi chủ nợ có yêu cầu

Thủ tục phá sản bao gồm: nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; phục hồi hoạt
động kinh doanh; thanh lí tài sản, các khoản nợ; tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của luật, Thẩm
phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục, hoặc là phục hồi hoạt động kinh
doanh hay là thanh lí tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định chuyển từ thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc
tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.


Chương 2: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN tại việt nam và một số giải
pháp:
I.1.
Khái quát chung về quá trình phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.
Nhìn nhận về sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, nhiều ý kiến kể
cả
trong và ngoài nước thường đánh giá là chậm và năng lực cạnh tranh còn yếu,
trình độ
kỹ thuật sản xuất cũng như quản lý kinh doanh còn thấp. Tuy nhiên đi vào tìm hiểu


thực
tế, theo tác giả doanh nghiệp tư nhân Việt Nam dù còn nhỏ nhưng đã phát triển
khá 12
nhanh nếu tính tới điều kiện bộ phận này mới chỉ được phép tự do hoạt động thời
gian
gần đây. Điểm lại cả quá trình từ đầu đổi mới, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân
là bộ
phận “đáng thương” so với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp
nhà
nước, vì đáng lẽ (như các nước tiên tiến khác) nó phải là trụ cột của nền kinh tế,
phải
được luật pháp nhà nước quan tâm hơn cả, nhưng thực tế nó chỉ là bộ phận “ăn
theo”
những cởi mở của chế độ đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Từ sau khi tuyên bố đổi mới, năm 1987, luật đầu tư trực tiếp đối với các doanh
nghiệp vốn nước ngoài được chế định và công bố, cũng đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp nước ngoài được phép hoạt động công khai. Nhưng hết những năm 80s
kinh tế

tư nhân vẫn chỉ được hoạt động trong tình trạng nửa kín nửa hở. Vào thập kỷ 90s,
luật
công ty, rồi luật doanh nghiệp tư nhân được chế định tháng 12 năm 1990, có hiệu
lực từ
năm 1991, nhưng khi đó vẫn hầu như chưa có doanh nghiệp đăng ký. Bên cạnh lý
do
thủ tục qui trình đăng ký phức tạp, thiếu minh bạch, một lý do quan trọng hơn là
sự tồn
tại của kinh tế tư nhân chưa được hiến pháp đảm bảo. Thời gian đó hiến pháp
(được
sửa đổi năm 1982) vẫn qui định kinh tế tư nhân là thành phần phải “cải tạo” (xóa
bỏ),
bởi vậy không ai muốn lộ diện làm “ông chủ”. Điều kỳ lạ là trong khi đầu tư nước
ngoài
(đương nhiên là tư nhân) được hoạt động công khai, mà khối tư nhân trong nước


lại bị
hiến pháp ngăn cản. Chỉ tới năm 1992, hiến pháp buộc phải sửa đổi, chính thức
công
nhận sự tồn tại (không khuyến khích) của kinh tế tư nhân, quyền tư hữu tài sản,
khi đó
luật Công ty và luật Doanh nghiệp Tư nhân mới bắt đầu có đối tượng để điều
chỉnh.
Dù vậy, số liệu thống kê cho thấy, trong suốt thập kỷ 90s, doanh nghiệp tư nhân
đăng ký chính thức tăng dần đều đặn nhưng với tốc độ tương đối “cảnh giác”.
Phần lớn
vẫn hoạt động trong tình trạng “du kích” (kín cổng, cao tường, không lộ diện), đặc
biệt
những doanh nghiệp có đầu tư máy móc thiết bị (mà thực tế số này rất hãn hữu).

Nhìn
vào cơ cấu ngành nghề, có thể thấy đa phần hoạt động trong lĩnh vực thương
nghiệp,
do đặc điểm không cần đầu tư tài sản cố định nhiều, phòng khi “lâm sự” có thể
“giải tán”
nhanh chóng.
Những năm sau của thập kỷ 90s, tình hình ngày càng trở nên ổn định hơn, do sự
xuất hiện ngày càng nhiều của đầu tư nước ngoài, của đội ngũ doanh nghiệp tư
nhân
trong nước. Khả năng nhà nước dùng quyền lực ban hành luật lệ đi ngược dòng
chảy
của đổi mới gần như khó có thể xảy ra, mà trái lại, sức ép của hội nhập (thị trường
tự
do) quốc tế (là thành viên của ASEAN từ 1995, tham gia vào AFTA) đã buộc nhà
nước
phải có những chính sách cởi mở hơn nữa với đầu tư nước ngoài, và theo đó là
với khu
vực doanh nghiệp tư nhân.
Bước ngoặt lớn của chế độ qui định đối với bộ phận kinh tế tư nhân được đánh
dấu


bằng luật doanh nghiệp mới năm 2000. Chế độ đăng ký kinh doanh được thay cơ
chế13
“xin – cho”, rồi đội đặc nhiệm rà soát bãi bỏ giấy phép con thực hiện tinh thần luật
doanh nghiệp mới được thành lập là những động thái mới của nhà nước, đã tạo
được
một môi trường đầu tư thông thoáng (hơn nhiều so với trước) cho kinh tế tư
nhân.
Những doanh nghiệp ẩn mình trước đó nay đã có thể ra công khai. Số doanh

nghiệp
đăng ký chỉ sau một thời gian ngắn đã hơn cả con số tích lũy 10 năm trước đó.
Lĩnh vực
hoạt động cũng được đa dạng hóa, không chỉ loanh quanh trong thương nghiệp
mà lan
rộng sang các ngành công nghiệp. Thêm nữa không còn nỗi lo bị quốc hữu hóa tài
sản,
doanh nghiệp tư nhân bắt tay vào đầu tư nhà xưởng, máy móc thiết bị, thay thế
chiến
thuật “du kích” bằng sản xuất qui mô lớn, chiến đấu trường kỳ.
Doanh nghiệp tư nhân- đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn không được
coi là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế, nhưng với nỗ lực vượt khó của mình,
đang ngày càng thể hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình thông qua sự gia tăng về
số thuế đóng góp cho ngân sách nhà nước trong năm 2011.
Cùng nhìn lại những con số thống kê mà Vietnam Report mới công bố về Bảng xếp
hạng V1000 năm 2012 - Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
lớn nhất Việt Nam, có thể thấy, mặc dù đi đầu vẫn là doanh nghiệp nhà nước,
nhưng khối doanh nghiệp tư nhân cũng đã ghi dấu ấn của mình với số thuế đóng
góp trong năm 2011 lên đến con số 12.038 tỷ đồng, chiếm gần 22 % trong tổng số
thuế mà 1000 DN thuộc bảng xếp hạng đã đóng góp vào ngân sách quốc gia, tăng
4 điểm phần trăm so với Bảng xếp hạng V1000 năm trước (Biểu đồ 1).
Trong bối cảnh ảm đạm của nền kinh tế khi mà các doanh nghiệp đang phải mò
mẫm tìm đường cứu mình thoát khỏi nguy cơ phải tạm dừng hoạt động, thậm chí
là phá sản, thời điểm phục hồi kinh tế vẫn còn rất mơ hồ, không thể dự báo trước


bởi các yếu tố tiêu cực từ suy yếu của hệ thống tài chính toàn cầu cùng những bất
ổn vĩ mô trong nước vẫn đang tiếp tục gia tăng ảnh hưởng, sự gia tăng trong tỷ
trọng đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân là dấu hiệu tốt báo hiệu ý thức về
trách nhiệm xã hội của khối tư nhân đang ngày càng được cải thiện và họ luôn sẵn

sàng, tích cực đồng lòng chung sức cùng quốc gia.

Biểu đồ 1: Cơ cấu nộp thuế TNDN theo loại hình
hoạt động (Tính trên tổng số thuế đã nộp trong năm
2011 của 1000 DN thuộc bảng V1000 năm 2012)
Dữ liệu thống kê về khối tư nhân cũng chỉ ra rằng, sự cải thiện này phần lớn đến
từ ngành ngân hàng- tài chính- bảo hiểm- vàng bạc, và ngành xây dựng- bất động
sản- vật liệu xây dựng. Với hơn 36,1% đóng góp của ngành ngân hàng- tài chínhbảo hiểm- vàng bạc và 26,1% của ngành xây dựng- bất động sản- vật liệu xây dựng
vào tổng số thuế nhóm tư nhân đã nộp cho ngân sách, có thể thấy, nền kinh tế
Việt Nam vẫn đang được củng cố chủ yếu dựa vào tăng trưởng tín dụng (Biểu đồ
2).
Và mặc dù tài chính ngân hàng đang lao đao vì các khoản nợ xấu khổng lồ và nguy
cơ mất khả năng thanh toán, bên cạnh bất động sản đang được đánh giá là ngành
có lượng tồn kho lớn nhất, hệ lụy tới toàn bộ nền kinh tế khi "đóng góp" tới gần
19,3% vào tổng nợ xấu toàn quốc gia xét theo ngành nghề kinh doanh, những
đóng góp tích cực về thuế của các đơn vị tư nhân trong 2 ngành này là rất đáng
được ghi nhận. Trong khi đó, ngành viễn thông mặc dù là điểm sáng của Bảng xếp


hạng (đóng góp tới gần 20% tổng số thuế của 1000 doanh nghiệp thuộc V1000
năm 2012), nhưng xét riêng khối doanh nghiệp tư nhân, tỷ lệ đóng góp của các
doanh nghiệp thuộc ngành này chỉ chiếm một con số khá khiêm tốn, 3,6% tổng số
thuế của Khối tư nhân, rõ ràng, đây vẫn là ngành dù khá "hấp dẫn" nhưng còn
mang nặng tính "nhà nước", khó doanh nghiệp tư nhân nào có thể trụ vững và
cạnh tranh được trong ngành.

Biểu đồ 2: Cơ cấu nộp thuế TNDN theo ngành nghề
của loại hình DN tư nhân (Tính trên tổng số thuế đã
nộp trong năm 2011 của nhóm DNTN thuộc bảng
V1000 năm 2012)

Cũng theo thống kê này, so sánh hai bảng xếp hạng V1000 của năm 2011 và 2012,
số lượng doanh nghiệp mới vào bảng lên tới 410 doanh nghiệp, đóng góp 15,43%
vào tổng số thuế của các doanh nghiệp thuộc bảng xếp hạng năm 2012, trong đó
có đến 44,2% số thuế có được nhờ vào các doanh nghiệp tư nhân. (Biểu đồ 3,4)


×