Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn khoa học 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.34 KB, 14 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC VÀ RÈN KĨ NĂNG SỐNG
HỌC SINH QUA MÔN KHOA HỌC 4

CHO

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Tiên học lễ, hậu học văn” lời dạy của ông cha ta từ xưa đến nay vẫn còn
đó. Lễ nghĩa bao giờ cũng đi đầu trong mọi việc. Bác Hồ kính yêu cũng đã từng
nói : “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thành
người vô dụng”. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục con người phải song song hai
mặt.
Để việc giáo dục một con người trở thành người toàn diện hai mặt là việc
làm không dễ. Ngay trong thời điểm này đây, trọng trách của nhà trường, của
người giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp phải phát huy hết năng lực của
mình, phải làm sao cho học sinh “Học được và được học”, cũng như đồng chí
Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất vì nó tạo ra
những con người sáng tạo”.
Kết quả học tập chỉ tốt khi học sinh yêu thích môn học đồng thời các em
cũng tìm được cảm hứng từ môn học đó. Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới hình thức tổ chức hoạt động là một việc làm không phải dễ và cũng không
phải ngày một ngày hai mà làm được. Nó đòi hỏi một sự đầu tư lâu dài, một quá
trình rèn luyện không ngừng của người giáo viên. Mỗi một sự cố gắng dù rất nhỏ
trong nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp, hình thức dạy học đều là
động lực tạo hứng thú học tập cho các em học sinh, góp phần nâng chất lượng dạy
và học.
Để thực hiện được điều này, từ thực tế thực hiện nhiệm vụ trong nhiều năm
học qua, tôi đã đúc kết được “Một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng
sống cho học sinh qua môn khoa học 4” và trong năm học 2017-2018, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài này để nghiên cứu.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận :


“Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp
những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng” (Jonh O.Brien). Thật vậy, người
giáo viên tiểu học là người trực tiếp giảng dạy hầu hết các môn học, là người quản
lý toàn diện một tập thể học sinh của một lớp và có nhiều thời gian gắn bó, gần gũi
với học sinh. Hơn nữa về trình độ hiểu biết và vốn sống của học sinh tiểu học còn
nhiều hạn chế cho nên các em rất cần có một người thường xuyên quan tâm, hướng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, dìu dắt. Người giáo viên tiểu học giống như một người chăm
sóc cho hạt giống nảy mầm, hàng ngày hàng giờ phải theo dõi từng sự thay đổi,
từng bước phát triển của hạt giống ấy sao cho chúng thành cây non khoẻ mạnh và
tiếp tục trưởng thành.
Luật Giáo dục của Nhà nước ta quy định: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo

1


đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung
học cơ sở” (Mục 2, Điều 27).
Vì vậy, để giúp các em có kĩ năng quan sát tốt, thực hành tốt, tự tin và mạnh
dạn trong các hoạt động học tập thì người giáo viên tiểu học là người đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Các thầy giáo, cô giáo phải động viên, khích lệ các em thật
nhiều để các em phát huy hết khả năng của mình: “Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ
xấu hổ khi không học” (Ngạn ngữ Nga).
2. Thực tiễn :
Ngay từ đầu năm học khi mới nhận lớp, các em rất thụ động trong việc
chuẩn bị bài ở nhà, nhút nhát khi tham gia hoạt động nhóm, nói nhỏ, thiếu tự tin
trong giao tiếp và bày tỏ ý kiến riêng,... Vậy làm sao để các em có thể hoàn thành
tốt các môn học về kiến thức lẫn kĩ năng sống hàng ngày của các em ? Việc dạy
cho các em biết tính toán, đọc và viết là những việc làm tương đối đơn giản.
Nhưng còn các phân môn học khác như Khoa học, Lịch sử, Địa lí,... thì sao ? Vì

như chúng ta đã biết, môn Khoa học là môn vừa chứa các yếu tố xã hội vừa chứa
các yếu tố tự nhiên. Qua môn học này, người giáo viên không chỉ giáo dục cho các
em lòng say mê Khoa học mà còn giáo dục cho các em lòng yêu quê hương, đất
nước.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ hướng vào các nội dung cơ bản
sau đây :
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đồ dùng học tập.
2. Dạy học kết hợp giáo dục kiến thức thường thức cuộc sống.
3. Giáo dục kĩ năng tư duy, học tập và sáng tạo.
4. Rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp và tương tác.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP
Tận dụng tiềm năng giáo dục trong trường và ngoài xã hội để đạt tới hiệu quả
trong việc thực hiện giáo dục là một nhiệm vụ đặc trưng của người giáo viên trong
trường phổ thông. Giải quyết tốt nhiệm vụ này cũng chính là thực hiện xã hội hoá
giáo dục, một trong những giải pháp trọng yếu thực hiện chiến lược phát triển giáo
dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Giáo dục kĩ năng sống cho HS tiểu học là trang bị cho HS những kiến thức,
giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp. Hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực. Giúp các em có khả năng
ứng phó phù hợp và linh hoạt trong các tình huống cuộc sống hàng ngày. Các em
vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành. Tạo cơ hội để các em thực
hiện quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần
và đạo đức.
Để làm tốt công tác giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, nhiệm vụ đầu
tiên của tôi là nghiên cứu để nắm vững tình hình học tập chung của lớp và của từng
học sinh. Tạo điều kiện cho từng học sinh thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên
trong lớp.
2



Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học các môn học nhất là môn Khoa học
là rất phong phú và đa dạng : Thực hành-thí nghiệm, thảo luận nhóm, sắm vai, trò
chơi học tập, giải quyết tình huống có vấn đề, … Mỗi phương pháp dạy học đều có
mặt tích cực và hạn chế riêng. Vì vậy người giáo viên không nên lạm dụng phương
pháp nào. Cần phải cân nhắc kĩ nội dung, tính chất của mỗi bài dạy; căn cứ vào
nhận thức của học sinh, năng lực sở trường của giáo viên; vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của từng lớp, của trường mà lựa chọn sử dụng các phương pháp giáo dục và
rèn kĩ năng sống cho hiệu quả.
Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đồ dùng học tập
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên hay đồ dùng học tập của học
sinh đối với mỗi tiết học là một việc làm vô cùng quan trọng, hiệu quả tiết học đạt
được ở mức độ nào là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị rất cao. Vì vậy, giáo viên phải
dành nhiều thời gian để chuẩn bị hoặc giao cho học sinh.
Chẳng hạn như : Để chuẩn bị cho các bài học của ngày hôm sau, tôi cho học
sinh ghi vở dặn dò: Đọc và trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa; sưu tầm tư liệu,
tranh ảnh hoặc dụng cụ học tập liên quan đến nội dung bài học. Đầu giờ học hôm
sau, từng bàn 2 em sẽ tự kiểm tra cho nhau về sự chuẩn bị của bạn mình, sau đó
báo cáo lại với nhóm trưởng. Đến đầu mỗi tiết học, các nhóm trưởng sẽ thông báo
lại kết quả chuẩn bị của nhóm mình trước lớp với giáo viên. Căn cứ vào đó, tôi sẽ
ghi điểm thi đua cho các tổ, cuối tuần vào tiết sinh hoạt tập thể sẽ tuyên dương tổ
nào học tập tốt, nề nếp tốt, chuẩn bị chu đáo phần dặn dò về nhà; tổ nào điểm thấp
nhất sẽ phải trực vệ sinh cho tuần học kế tiếp.
Việc dặn dò chuẩn bị bài cho ngày hôm sau như tôi đã thực hiện cũng có
nhiều tác dụng: thứ nhất thông qua việc đọc và trả lời các câu hỏi, các em được
luyện đọc chữ; thứ hai các em có thể rèn chữ viết nếu có những nội dung các em
cần ghi chép lại sau khi quan sát; thứ ba tích hợp được bộ môn Mĩ thuật trong quá
trình vẽ tranh; …
Một vài ví dụ về phần nội dung dặn dò cho các bài học :
Bài 7. Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn ? (sưu tầm các đồ chơi bằng
nhựa như gà, cá, tôm, cua, …). Mục đích là giúp các em phân loại tên nhóm thức

ăn cần ăn đủ, ăn có mức độ, ăn ít và ăn hạn chế. Đồng thời giúp các em có dụng cụ
để tham gia trò chơi học tập theo nhóm.
Bài 10. Ăn nhiều rau và quả chín. Sử dụng thực phẩm sạch và an toàn.
-Yêu cầu các em chuẩn bị theo nhóm, như : Một số rau, quả (cả loại tươi và
héo úa); một số đồ hộp hoặc vỏ đồ hộp.
Mục đích giúp các em biết phân biệt được tiêu chuẩn của thực phẩm sạch và
an toàn, biện pháp thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm; biết xem hạn sử dụng các
thức ăn, thức uống đóng hộp, đóng chai.
Hoặc :
Bài 18, 19. Ôn tập : Con người và sức khỏe (Phiếu học tập ghi lại tên thức ăn,
thức uống của bản thân học sinh trong tuần qua.... Các tranh, ảnh, mô hình như :
các loại rau, quả, con giống bằng nhựa hay vật thật các loại thức ăn. Để các em
3


củng cố lại chất dinh dưỡng trong thức ăn, vai trò của chúng. Từ đó các em sẽ ghi
nhớ sâu hơn về cách chọn rau, củ, quả tươi ngon.
Bài 20. Nước có những tính chất gì ? (Chuẩn bị theo nhóm : 2 cốc thủy tinh
giống nhau : 1 cốc đựng nước, 1 cốc đựng sữa; chai và một số vật chứa nước có
hình dạng khác nhau bằng thủy tinh hoặc bằng nhựa trong có thể nhìn thấy bên
trong; 1 tấm kính hoặc 1 mặt phẳng không thấm nước và 1 khây đựng nước-như
hình SGK/trang 43; 1 miếng vải, bông, giấy thấm, miếng mút, túi nilong…; một ít
đường, muối, cát,… và thìa). Xuất phát từ cuộc sống hàng ngày, các em sẽ dự đoán
và làm được thí nghiệm với những gì mình chuẩn bị được để tìm hiểu kiến thức về
tính chất, hình dạng của nước.
Bài 25. Nước bị ô nhiễm. (Chuẩn bị theo nhóm : 1 chai nước ao, hồ hoặc nước
đã giặt khăn lau bảng, 1 chai nước giếng hoặc nước máy; 2 chai không có nước; 2
phễu lọc nước; bông để lọc nước. 1 kính lúp (nếu có)). Đây là những vật dụng
hàng ngày các em đều có thể chuẩn bị được và sẽ quan sát, làm thí nghiệm để biết
được một số đặc điểm của nước sạch và nước bị ô nhiễm.

Bài 30. Làm thế nào để biết có không khí ? (Chuẩn bị theo nhóm : các túi
nilong to, dây thun, kim khâu, chậu hoặc bình thủy tinh, chai không, 1 miếng bọt
biển hoặc 1 viên gạch hay cục đất khô). Các em sẽ dùng những vật dụng này để
làm thí nghiệm chứng minh không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng trong
các vật.
Bài 31. Không khí có những tính chất gì ? (Chuẩn bị theo nhóm : 8-10 quả
bóng với hình dạng khác nhau, chỉ hoặc thun để buộc bóng; bơm xe đạp (nếu có))
để các em chơi “Thi thổi bóng” và làm thí nghiệm chứng minh không khí không có
hình dạng nhất định, không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra.
Bài 35. Không khí cần cho sự cháy (Chuẩn bị theo nhóm : 2 lọ thủy tinh : 1 lọ
to, 1 lọ nhỏ; 2 cây nến bằng nhau; 1 lọ thủy tinh không đáy hoặc ống thủy tinh, đế
kê – như hình vẽ SGK). Các em sẽ dự đoán và làm thí nghiệm chứng minh càng có
nhiều không khí thì càng có nhiều ô-xy để duy trì sự cháy được lâu hơn; muốn sự
cháy diễn ra lâu hơn thì không khí phải được lưu thông.
Bài 41. Âm thanh (Chuẩn bị theo nhóm : Ống bơ (lon sữa bò), thước, vài hòn
sỏi; trống nhỏ, một ít giấy vụn; kéo, lược; …) để các em biết cách và thực hiện
được các cách khác nhau để làm cho vật phát ra âm thanh. Làm thí nghiệm chứng
minh về sự liên hệ giữa rung động và sự phát ra âm thanh.
Bài 45. Ánh sáng (Chuẩn bị theo nhóm : hộp kín (có thể dùng tờ giấy báo cuộn
lại để tạo thành hộp kín); tấm kính, nhựa trong; tấm kính mờ; tấm ván;… ). Các em
sẽ cùng làm thí nghiệm chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng, chứng tỏ mắt
chỉ nhìn thấy một vật khi có ánh sáng từ vật đó đi tới mắt và phân biệt được vật tự
phát sáng và vật được chiếu sáng.
Bài 46. Bóng tối (Chuẩn bị theo nhóm : đèn pin, tờ giấy to hay tấm vải, kéo,
bìa, một số vật như ô tô đồ chơi, thú nhồi bông, hộp, … ). HS dự đoán và làm thí
nghiệm để biết được vị trí, hình dạng của bóng tối, bóng tối xuất hiện phía sau vật
cản sáng khi được chiếu sáng, …
Bài 50. Nóng, lạnh và nhiệt độ (Chuẩn bị chung : Một số loại nhiệt kế, phích
nước sôi, một ít nước đá. Chuẩn bị theo nhóm : nhiệt kế, 3 chiếc ly ). Giúp HS biết
4



cách đọc nhiệt kế và sử dụng nhiệt kế thật. Biết đo nhiệt độ cơ thể người; nhiệt độ
của hơi nước đang sôi; nhiệt độ của nước đá đang tan.
Bài 52. Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt (Chuẩn bị chung : phích nước nóng,
xoong, giỏ ấm, cái lót tay,…. Chuẩn bị theo nhóm : 2 chiếc cốc như nhau, muỗng
kim loại, muỗng gỗ, muỗng nhựa, vài tờ giấy báo; dây chỉ, len hoặc sợi; nhiệt kế ).
Sau thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các chất cách
nhiệt và sử dụng hợp lí trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết được
những vật dẫn nhiệt tốt và vật dẫn nhiệt kém.

Thật sự hiệu quả, trước đây các em chỉ tìm hiểu bài với phương pháp đàm thoại
thầy hỏi-trò trả lời, kiến thức do giáo viên truyền đạt, tiết học trầm lắng, chỉ một số
em phát biểu xây dựng bài học cùng giáo viên, giờ đây với sự chuẩn bị như đã dặn
dò, đa số học sinh tham gia các hoạt động học tập sôi nổi hơn, tiếp nhận thông tin
bài học chủ động hơn, ghi nhớ bài nhanh hơn.
Giải pháp 2. Dạy học kết hợp giáo dục kiến thức thường thức cuộc sống.
Thường thức cuộc sống là gì ? Là những kiến thức sống và kĩ năng cơ bản để
tồn tại, chuẩn bị ứng phó với mọi tình huống phát sinh trong cuộc sống. Giúp các
em HS có hiểu biết về xã hội và những tri thức cuộc sống, từ những giá trị đạo đức,
lễ nghi; thích nghi với sự đa dạng của môi trường,… để từ đó có thái độ và ứng xử
phù hợp trong những ngữ cảnh khác nhau của cuộc sống. Ngoài ra HS cũng cần có
những kĩ năng quan trọng về sức khỏe cá nhân, tự phục vụ và kĩ năng sinh tồn để
có thể ứng phó và tự bảo vệ mình trước những tình huống bất ngờ có thể nảy sinh
trong cuộc sống hàng ngày.
Kĩ năng sống không tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình
học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ năng sống
diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục. Kĩ năng sống vừa mang tính cá nhân,
vừa mang tính xã hội.
Chẳng hạn khi dạy :

Bài 7.Tại sao phải ăn phối hợp nhiều loại thức ăn ? -Trang 16.
-Hoạt động 1. Tôi cho lớp chơi trò « Đi chợ » - Mục đích giúp học sinh biết lựa
chọn các thức ăn cho từng bữa ăn một cách phù hợp và có lợi cho sức khỏe.
 Bước 1. Hướng dẫn cách chơi. Tôi cho các em chơi bán hàng. Một số em làm
người bán, một số em làm người khách mua hàng.
 Bước 2. Chơi như hướng dẫn.
 Bước 3.
+Từng HS tham gia chơi sẽ giới thiệu trước lớp những thức ăn, đồ uống mà
mình đã lựa chọn cho từng bữa ăn.
+Dựa trên những hiểu biết về bữa ăn cân đối, lớp sẽ nhận xét sự lựa chọn
của bạn nào phù hợp, có lợi cho sức khỏe.
+Đánh giá, tuyên dương HS hiểu bài, tham gia trò chơi tích cực.
+Động viên, khích lệ đội về sau hãy cố gắng hơn ở lần sau...

5


Kết thúc hoạt động giáo dục được cho các em kĩ năng : Tự nhận thức về sự cần
thiết phới hợp các loại thức ăn. Bước đầu tự phục vụ khi lựa chọn các loại thực
phẩm phù hợp cho bản thân và có lợi cho sức khỏe.
Hoặc :
Bài 10. Ăn nhiều rau và quả chín. Sử dụng thực phẩm sạch và an toàn / trang 22.
Hoạt động 1: Tìm hiểu lí do cần ăn nhiều rau và quả chín.
+Ở hoạt động này tơi sẽ gợi ý cho HS đọc mục 1 trong phần Bạn cần
biết, kết hợp quan sát các hình 3, 4 để thảo luận câu hỏi :
`Kể tên một số loại rau, quả các em vẫn ăn hàng
ngày.
`Nêu ích lợi của việc ăn rau, quả.
+u cầu các em làm việc cá nhân, chia sẻ nhóm đơi, sau đó trình bày trước lớp.
+Rút ra kiến thức thế nào là thực phẩm sạch và an toàn…

Rèn được cho các em kĩ năng tự nhận thức về lợi ích của các loại rau, quả chín.
Hoạt động 2 : Biện pháp giữ vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Tơi chia lớp thành 6 nhóm, hai nhóm thực hiện một nhiệm
vụ.
+ Nhóm 1, 4 : Thảo luận về cách chọn thức ăn tươi, sạch;
cách nhận ra thức ăn ôi, héo.
+ Nhóm 2, 5 : Thảo luận về cách chọn đồ hộp và những
thức ăn đóng gói.
+ Nhóm 3, 6 : Thảo luận về sử dụng nước sạch để rửa thực
phẩm, dụng cụ nấu ăn; sự cần thiết phải nấu thức ăn chín.
-Sau khi các nhóm trình bày kết quả thảo luận, tơi sẽ chốt cách
làm đúng và cho các em rút ra bài học.
Rèn được cho các em kĩ năng nhận diện và lựa chọn thực phẩm sạch và an toàn trong
cuộc sớng hàng ngày, u thích việc nội trợ, tự giác giúp người thân mua sắm, nấu ăn.

Bài 15 - Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh ? - Trang 32.
-Hoạt động 2. Chia lớp thành các nhóm 5-6 em. Sắm vai chơi trò « Mẹ ơi, con...
sớt ! »
+ Cá nhân nêu được dấu hiệu cơ thể khơng khỏe mạnh.
+Chia sẻ nhóm đơi.
+Tởng hợp theo nhóm 5-6. Trình bày trước lớp, các nhóm khác nhận xét, bở sung
thêm những dấu hiệu của cơ thể khơng khỏe mạnh.
+GV tởng hợp, chớt kiến thức Giáo dục các em phải biết nói với cha mẹ hoặc
người lớn khi trong người cảm thấy khó chịu, khơng bình thường. Động viên,
khích lệ những em chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trong giao tiếp cùng tham gia.
 Rèn cho các em kĩ năng tự nhận thức bản thân để nhận biết một sớ dấu hiệu khơng
bình thường của cơ thể. Tìm kiếm sự giúp đỡ khi có những dấu hiệu khi bị bệnh.
Bài 49. Ánh sáng và việc bảo vệ đơi mắt – trang 98.

-Sau khi HS tìm hiểu những trường hợp ánh sáng quá

mạnh, có hại cho mắt tơi tiếp tục hướng dẫn các em tìm hiểu về
một số việc nên và không nên làm gì để đảm bảo đủ
ánh sáng khi đọc, viết như sau :

6


+u cầu các em quan sát hình 5; 6; 7; 8 minh họa SGK, trao đởi:
Những trường hợp nào cần tránh để đảm bảo ánh sáng khi đọc, khi viết ?
+Các em sẽ giải thích khi đọc, viết tư thế phải ngay ngắn,
không được đọc, viết ở nơi có ánh sáng quá yếu hoặc
quá mạnh vì ánh sáng khơng thích hợp sẽ có hại cho mắt. Không
đọc sách khi đang nằm, đang đi trên đường, trên xe lắc lư.
Đọc, viết bằng tay phải; ánh sáng phải được chiếu từ
trái qua để tránh bóng của tay phải.
 Hình thành cho các em thói quen hàng ngày khi đọc, viết phải đảm bảo đủ ánh
ánh, đúng tư thế.
Bài 52. Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt-trang 104.
Sau khi làm thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các
chất cách nhiệt và sử dụng hợp lí trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết
được những vật dẫn nhiệt tớt và vật dẫn nhiệt kém.
Rèn cho các em kĩ năng lựa chọn và sử dụng một sớ đờ vật liên quan tới dẫn nhiệt,
cách nhiệt trong cuộc sớng hàng ngày.

Giải pháp 2. Giáo dục kĩ năng tư duy, học tập và sáng tạo.
Kĩ năng tư duy, học tập và sáng tạo nhằm hướng tới việc nâng cao khả năng áp
dụng những kĩ năng tư duy lập luận, phân tích và giải quyết vấn đề để đưa ra các
quyết định hợp lí và sáng tạo trong cuộc sớng. Cần có tư duy và phương pháp đúng
trước khi hành động để đạt hiệu quả và năng śt cao nhất. Để làm được điều này,
HS cần khơng ngừng học tập, tìm tòi để có phương pháp tư duy một cách hệ thớng;

biết cách lập luận, phản biện, phân tích, kiến tạo những ý tưởng hay giải pháp
mang tính sáng tạo, phá bỏ tư duy lới mòn.
Học để làm gì ? “Học để biết”, “Học để làm người”, “Học để sớng với người
khác”, “Học để làm”. … Cho nên giáo dục Kĩ năng tư duy là giáo dục khả năng
phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng,… xảy
ra. Còn kĩ năng tư duy và sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề một
cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, khả năng khám phá và kết nới
mới quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan điểm, sự việc; độc lập trong suy
nghĩ.
Chẳng hạn khi dạy:
Bài 26. Ngun nhân làm nước bị ơ nhiễm-trang 54.
Hoạt động 1.
-Tơi u cầu HS quan sát hình 1 đến hình 8/trang 54/SGK, trả lời câu hỏi:
+Hãy mơ tả những gì em nhìn thấy trong hình vẽ.
+Theo em, việc làm đó sẽ gây ra điều gì ?
-Cá nhân suy nghĩ tìm câu trả lời-Chia sẻ theo nhóm đơi.
-Trình bày trước lớp-Các nhóm nhận xét, bở sung cho nhau.
-GV nhận xét, chớt kết quả…
+Em hãy nêu hiện trạng nước ở đòa phương mình ?
+Theo em những nguyên nhân nào dẫn đến ng̀n nước
nơi em ở bò ô mhiễm ?
7


+Trước tình trạng nước ở đòa phương như vậy. Theo em,
mỗi người dân ở đòa phương ta cần làm gì ? …
Kết thúc hoạt động này, tơi đã giúp các em biết tự tìm kiếm và xử lí thơng tin về
ngun nhân làm nước bị ơ nhiễm. Bình luận và đánh giá về các hành động gây ơ
nhiễm mơi trường.
Bài 35. Khơng khí cần cho sự cháy-trang 70.

Hoạt động 1 : Tìm hiểu vai trò của ô-xy đối với sự cháy.
- Tơi chia nhóm làm thí nghiệm như SGK.
+Đọc mục Thực hành SGK để biết cách làm.
+Làm thí nghiệm.
+Báo cáo-rút ra kết luận chung sau thí nghiệm khí ni-tơ
giúp cho sự cháy trong không khí xảy ra không quá
nhanh, quá mạnh.
- Sau cùng tơi chớt kiến thức cho các em : Càng có nhiều không khí
thì càng có nhiều ô-xy để duy trì sự cháy lâu hơn. Nói
cách khác, không khí có ô-xy nên cần không khí để duy
trì sự cháy.
 Kết thúc hoạt động này ta đã hình thành được cho các em HS kĩ năng bình luận
về cách làm và kết quả quan sát; giúp các em biết phân tích, phán đoán, so sánh,
đới chiếu kết quả sau thí nghiệm và kết quả suy đoán trước khi tiến hành thí
nghiệm; đờng thời các em cũng nắm được cách quản lí thời gian trong quá trình thí
nghiệm cũng như trong cuộc sớng hàng ngày.
Bài 35. Khơng khí cần cho sự cháy – trang 70.
Các em sẽ dự đoán và làm thí nghiệm chứng minh càng có nhiều khơng khí
thì càng có nhiều ơ-xy để duy trì sự cháy được lâu hơn; ḿn sự cháy diễn ra lâu
hơn thì khơng khí phải được lưu thơng.
Rèn cho HS thói quen hợp tác trong quá trình làm thí nghiệm để tự mình tìm ra
kiến thức.
Bài 66. Ch̃i thức ăn trong tự nhiên-trang 132.
-Trước tiên tơi u cầu HS làm việc cá nhân : Tìm hiểu hình 1/SGK
thông qua các câu hỏi:
+ Thức ăn của bò là gì ?
+ Giữa cỏ và bò có quan hệ gì ?
+ Phân bò được phân hủy trở thành chất gì cung cấp
cho cỏ ?
+ Giữa phân bò và cỏ có quan hệ gì ?

- Chia lớp thành các nhóm 5-6 HS/1 nhóm u cầu các em vẽ lại chuỗi
thức ăn trên.
- Tiếp theo tơi sẽ hình thành khái niệm chuỗi thức ăn trong tự
nhiên.
+ Làm việc cá nhân-chia sẻ theo nhóm đôi : Nêu một số ví
dụ khác về chuỗi thức ăn trong tự nhiên.
+ Chuỗi thức ăn là gì?
-Chớt kiến thức.
8


Rèn được cho HS kĩ năng phân tích, phán đoán. Đảm nhận trách nhiệm xây
dựng kế hoạch và kiên định thực hiện kế hoạch cho bản thân để ngăn chặn các
hành vi phá vỡ cân bằng chuỗi thức ăn trong tự nhiên.
...
Để dạy tốt môn khoa học, bên cạnh việc hướng dẫn HS tìm hiểu bài học,
truyền tải kiến thức mới thì người giáo viên cần phải biết phối kết hợp các phương
pháp dạy học nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm
câu giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ
nội dung bài học. Tư duy trong học tập không chỉ là một « công cụ » dạy học mà
nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Nó tạo
cảm giác thoải mái, tự tin, sự sáng tạo, nhanh trí, óc tư duy, tưởng tượng của các
em... Khi bị khép vào luật chơi, các em dần có trật tự hơn, kỷ luật hơn. Thông qua
trò chơi, học sinh được tập luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể
trong sự phân công với tinh thần hợp tác, giao lưu.
Giải pháp 3. Rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp và tương tác.
Đây là năng lực quan trọng đòi hỏi sự tích hợp nhiều « trí thông minh » như
ngôn ngữ, tương tác, cảm xúc, nội tâm và năng lực tự phát triển bản thân. Mỗi con
người đều đang sống và tương tác trong những cộng đồng khác nhau, có thể cộng
đồng hẹp như gia đình, rộng hơn là nhà trường, ngoài xã hội. Ở mọi ngữ cảnh HS

cần có những kĩ năng về giao tiếp và tương tác với người khác một cách có hiệu
quả, biết cách xử lí các xung đột, biết cách làm việc nhóm, huy động và phát huy
sự tham gia của nhiều người xung quanh, khả năng lãnh đạo bản thân và lãnh đạo
nhóm, cũng như các kĩ năng « hướng ngoại » khác. Bên cạnh đó, năng lực nội tâm,
tự nhận thức, tự điều chỉnh bản thân và kiềm chế cảm xúc, biết cách giải tỏa căng
thẳng và cân bằng trong cuộc sống, tư duy tích cực,… cũng được rèn luyện một
cách kiên trì.
Bài 12 - Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng - Trang 26.
Tôi cho HS chơi trò « Bác sĩ » :
 Bước 1. Hướng dẫn cách chơi
+Một bạn đóng vai bác sĩ, 1 bạn đóng vai bệnh nhân hoặc người nhà bệnh
nhân. Các bạn khác theo dõi, nhận xét.
+Thay phiên nhau tham gia đóng vai khám chữa bệnh :
+Bệnh nhân nói về triệu chứng (dấu hiệu) của bệnh.
+Bác sĩ phải nói tên bệnh và cách phòng.
 Bước 2. Chơi theo nhóm – mỗi nhóm chơi theo từng cặp đôi.
 Bước 3.
+Các nhóm cử đôi chơi tốt nhất lên trình bày trước lớp.
+Đánh giá, tuyên dương HS thể hiện được sự hiểu biết và nắm vững bài.
+Động viên, khích lệ những em chưa mạnh dạn, thiếu tự tin cùng tham gia
trò chơi.
Rèn cho HS kĩ năng giao tiếp và tương tác với bạn trong nhóm đồng thời giúp
các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp hàng ngày.
9


Bài 15 - Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh ? - Trang 32.
Hoạt động 2.
-Cá nhân HS nêu được dấu hiệu của cơ thể không khỏe mạnh. Chia sẻ theo nhóm
đôi. Sau đó tổng hợp theo nhóm 4 và đại diện nhóm trình bày trước lớp, các nhóm

khác nhận xét, bổ sung thêm những dấu hiệu của cơ thể không khỏe mạnh.
-GV tổng hợp, chốt kiến thức Giáo dục các em phải biết nói với cha mẹ hoặc
người lớn khi trong người cảm thấy khó chịu, không bình thường.
-Làm việc theo nhóm : Tôi chia lớp thành các nhóm 5-6 em. Cho các em thảo
luận, phân việc cho các bạn trong nhóm sắm vai chơi trò «Mẹ ơi, con... sốt !». HS
trong vai con phải nêu được dấu hiệu cơ thể không khỏe mạnh.
 Rèn cho các em kĩ năng tương tác với bạn trong nhóm để sắm vai diễn kịch.
Khích lệ những em chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trong giao tiếp cùng tham gia với
các bạn trong nhóm.
Bài 52. Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt – trang 104.
-Sau thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các chất cách
nhiệt và sử dụng hợp lí trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết được
những vật dẫn nhiệt tốt và vật dẫn nhiệt kém.
Các em biết tương tác nhau trong quá trình thực hành làm thí nghiệm. Biết chia
sẻ kiến thức cho nhau.

Từ thực tế cho thấy, trước đây, sự nhận thức của các em học sinh không
đồng đều nên tình trạng một số học sinh khó khăn trong học tập thì quá trình đàm
thoại để lĩnh hội kiến thức làm cho các em không đủ tự tin để có thể tham gia trả
lời câu hỏi, thậm chí có em còn nản lòng, chán học.
Bằng hình thức dạy học này, tôi thấy các em đã mạnh dạn hơn, chủ động
hơn khi trình bày những gì mình quan sát được từ cuộc sống xung quanh. Tôi có
thể dễ dàng kiểm tra được việc nắm bắt bài học của các em, sự tự tin, mạng dạn
trong giao tiếp đến đâu, để từ đó tôi có sự điều chỉnh phương pháp cũng như hình
thức tổ chức dạy học của mình cho phù hợp hơn trong những giờ dạy học môn
Khoa học. Bên cạnh đó cũng đã rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp và tương
tác cho cca1 em khi cùng nhau tìm ra kiến thức mới, cùng nhau tiến hành các thí
nghiệm “học mà chơi, chơi mà học”.
Tóm lại : Xuất phát từ những yêu cầu đổi mới, từ hoàn cảnh cụ thể của xã
hội, của giáo dục nhà trường, của gia đình, vị trí của giáo viên trong công tác giáo

dục ở trường học có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vấn đề luôn đặt ra là giáo viên
phải thực hiện tốt công tác giáo dục và cần xác định một cơ chế hoạt động về
quyền hạn, trách nhiệm cho phù hợp với thực tế, phải có năng lực của một nhà sư
phạm. Vì vậy buộc giáo viên phải tự hoàn thiện mình trước khi hoàn thiện cho học
sinh.
Từ một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 học
môn Khoa học mà tôi đã thực hiện trên, tôi thấy ý thức, thái độ học của các em
sôi nổi, hào hứng, tích cực và mạnh dạn hơn đầu năm học rất nhiều. Hình
thành được cho các em thói quen học tập, tự học và tự điều chỉnh phương pháp
học của mình, biết xây dựng nề nếp hoạt động nhóm, mạnh dạn tương tác, tư
10


duy, sáng tạo trong việc chuẩn bị bài cũng như tự giác tham gia các hoạt học
tập.
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Qua nhiều năm thực hiện các biện pháp như đã trình bày vào thực tế giảng
dạy tại trường, tôi nhận thấy giờ học Khoa học được các em đón nhận rất hồ hởi.
Nhiều tiết học đã trở thành sân chơi lí thú. Thông qua việc chuẩn bị bài, các hoạt
động nhóm, sắm vai diễn kịch, thực hành thí nghiệm tìm kiến thức mới,... nội dung
các bài học được các em tiếp nhận một cách rất tự nhiên, hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc giáo dục và rèn kĩ năng sống
cho các em khi tham gia học môn Khoa học, những hình thức phương pháp tổ chức
như trên đã dần dần hình thành ở các em tính năng động, mạnh dạn trước tập thể.
Các em biết phối hợp nhau trong các hoạt động nhóm, biết quan sát môi trường
xung quanh để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Từ thái độ học tập tích cực đối với
môn Khoa học, giờ đây đã tác động rất lớn đến các môn học khác. Các em biết tự
nhận thức những mặt mạnh, mặt yếu của mình, cũng như về vị trí của mình trong
tập thể. Khả năng sử dụng các kĩ năng sống vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ

lên lớp, các phong trào của Đội phát động rất hiệu quả. Các em chủ động, tự giác,
năng nổ tham gia, tương tác với các bạn trong tổ, trong lớp rất tốt đầy tinh thần tập
thể.
Học sinh khó khăn theo thống kê đầu năm đã giảm, các em là học sinh lười
học có nhiều tiến bộ. Nhiều năm liền không có học sinh lưu ban, các em hoàn
thành Chương trình lớp học 100%.
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ
năng sống cho học sinh qua môn khoa học 4”, tôi rút ra một số kinh nghiệm từ
thực tiễn như sau :
1. Cần phải hướng dẫn kĩ cho học sinh việc chuẩn bị bài ở nhà và đồ dùng học
tập thật chu đáo trước khi đến lớp. Giáo viên phải sưu tầm hình ảnh, tư liệu về tự
nhiên-xã hội để làm cơ sở so sánh, chứng minh áp dụng cho từng bài giảng.
Nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để có đồ dùng dạy học đúng yêu cầu, đúng trọng
tâm.
2. Thiết kế bài dạy phải chú ý đến đối tượng học sinh, lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống cho các em trong một số tình huống thường gặp hàng ngày đặc biệt phải
chú ý đến hoàn cảnh từng em để kết hợp giáo dục kiến thức thường thức cho phù
hợp, tránh cho HS hiểu nhằm mà mặc cảm với cuộc sống gia đình mình.
3. Phải cho học sinh thực hành, thí nghiệm, thảo luận nhóm, … để các em tư
duy, học tập và sáng tạo, tự tìm ra kiến thức trước khi giáo viên diễn giải, minh
chứng. Phải phát huy tính tích cực học tập của học sinh (không gò ép, áp đặt) cần
gợi ý, động viên để các em tự tin vào khả năng suy nghĩ, tìm tòi của mình. Sử dụng
11


kĩ năng sống vốn có của mình để giải quyết một số sự cố có thể xảy ra trong quả
trình thực hành-thí nghiệm.
4. Giáo viên phải yêu nghề, yêu quý học sinh, cải tiến phương pháp và nhiệt
tình giảng dạy. Luôn động viên, khuyến khích các em học tập, khen chê rõ ràng,

không kì thị học sinh. Chú trọng đến đối tượng học sinh khó khăn. Bồi dưỡng nâng
cao cho học sinh năng khiếu. Phải tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng,
hấp dẫn gây hứng thú học tập bằng một số trò chơi học tập, sắm vai, diễn kịch,…
để rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp và tương tác cho các em, nhất là những
học sinh khó khăn, học sinh nhút nhát, thụ động.
Khoa học là một môn học không có công thức, không có đáp số cụ thể giống
như học Toán, học Tiếng Việt mà nó là môn học khá trừu tượng. Tuy nhiên lại rất
gần gũi và rất cần thiết trong cuộc sống.
Với Một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh qua
môn khoa học 4 mà tôi vừa trình bày, tôi hi vọng rằng các đồng nghiệp có thể vận
dụng tốt vào công tác giảng dạy tại lớp mình, tạo được môi trường học tập thân
thiện, tích cực, chủ động. Giúp các em có hứng thú khi đến trường, khi tham gia
các hoạt động học tập cũng như sinh hoạt ngoại khóa, đồng thời giúp các em có kĩ
năng ứng phó tốt hơn trong các tình huống bất thường có thể xảy ra.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu tập huấn công tác chủ nhiệm lớp cho cán bộ quản lí và giáo viên
tiểu học (Hoàng Đức Minh, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Thị
Vân Hương, Trần Thị Ngọc Bích) - Hà Nội, tháng 10 năm 2013.
2.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên theo các cấp học
(dong/edu.vn/).
 Module TH 1, 2, 3 : Một số vấn đề về tâm lí dạy học ở tiểu học (Nguyễn
Kế Hào).
 Module TH 12, 13, 15 : Kế hoạch dạy học tích hợp các nội dung giáo dụcdạy học theo hướng dạy học tích cực ở học sinh tiểu học (Trần Thị Hiền LươngPhùng Như Thuy-Lưu Thu Thủy).
 Module TH 17 : Sử dụng thiết bị dạy học ở tiểu học (Quản Hà Hưng).
 Module TH 34, 35 : Công tác chủ nhiệm lớp ở trường tiểu học (Hà Nhật
Thăng).
 Module TH 39, 40 : Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học qua các
môn học (Lưu Thu Thủy).
3. Tài liệu “Giáo dục Kĩ năng sống” dành cho giáo viên Mầm non và Tiểu
học - 2014 - POKI Learning.

4. Tài liệu “Giáo dục Kĩ năng sống” dành cho giáo viên từ bậc Mầm non tới
THPT - 2015. (Tác giả : Nguyễn Thanh Bình - Nguyễn Trí Thanh - Phạm Thị VuiTrịnh Thắng Lợi-Phạm Hồng Anh)
3. Thông tư :
 Số 22/2016/TT-BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định
đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo thông tư số 30/2014/TTBGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
12


4. Luật Giáo dục.
5.Tạo hứng thú cho học sinh học tập-Nguồn internet.
6. Hình ảnh minh họa-Chụp từ thực tế sau các tiết dạy tại lớp học.
Người thực hiện

13


14



×