Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

giao trinh fx-phan 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 48 trang )


_______________________________________________________________________________________


1
Bài 1: CÁC CHỈ BÁO XU HƯỚNG (Trend indicators)

I. ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (Moving average)

Đường trung bình là một trong những công cụ phổ biến và dễ sử dụng nhất để phân tích kỹ thuật. Đường
trung bình giúp làm phẳng dữ liệu và nhờ đó dễ nhận biết được xu hướng, điều này đặc biệt hữu dụng đối
với thị trường biến động. Đường trung bình cũng làm nền tảng cho việc xây dựng nhiều công cụ khác.



Có 02 loại đường trung bình phổ biến nhất là đường trung bình đơn giản SMA (Simple Moving Average) và
đường trung bình lũy thừa EMA (Exponential Moving Average)

1. Đường trung bình đơn giản SMA (Simple Moving Average )

Công thức tính đường trung bình đơn giản tại một phiên như sau:

SMA(n) = (P1 + P2 + …+ Pn)/n

Trong đó : SMA(n) :Giá trị trung bình động tại phiên n
Pn : Giá của cặp tiền tại phiên n
n : Số phiên (nến) tính trung bình động.

Hầu hết các công cụ được vẽ trên đồ thị giá đều được cài sẵn trong phần Indicators của các phần mềm
giao dịch (VD phần mềm giao dịch ADIG-Meta trader 4).


Tuy nhiên, chúng ta cần phải biết cách tính toán một đường trung bình đơn giản.Điều này rất quan trọng vì
nó giúp ta hiểu được cấu tạo của các loại đường trung bình được.Nếu hiểu được cách tính toán đường
trung bình, ta có thể đưa ra quyết định của riêng mình khi chọn kiểu đường trung bình phù hợp để phân
tích.

Giống như bất kỳ công cụ khác, các đường trung bình hoạt động như một bộ delay (trễ). Bởi vì ta đang lấy
giá trị trung bình của giá trong quá khứ làm cơ sở cho dự báo giá tương lai và không có gì đảm bảo dự
báo đó chắc chắn sẽ xảy ra đúng như vậy.

Dưới đây là một ví dụ về cách các đường trung bình làm “trơn tru” hoạt động của giá cả.Trên đồ thị,ta có
thể thấy 03 đường SMA khác nhau.


_______________________________________________________________________________________


2

Đường SMA với khoảng thời gian dài hơn là đường “trơn tru” hơn,nhưng phản ánh giá chậm trễ hơn.Chú ý
rằng đường 62 SMA cách xa hơn giá hiện thời so với các đường 30 và 5 SMA. Bởi vì với đường 62 SMA
ta tính tổng giá đóng cửa của 62 phiên (nến) và chia cho 62. Rõ ràng việc sử dụng số khoảng thời gian dài
hơn sẽ phản ánh sự biến động giá chậm hơn.Đường SMA trong đồ thị này hiển thị sự cảm nhận chung về
thị trường theo thời gian.Thay vì chỉ nhìn vào giá hiện tại của thị trường, đường trung bình cho chúng ta
một các nhìn rộng hơn và từ đó chúng ta có thể đưa ra dự đoán giá trong tương lai. Đường SMA có thể
được tính toán bởi giá cao, giá thấp hoặc giá mở nhưng hầu hết đường trung bình được tính toán bởi giá
đóng cửa.
VD : đường SMA 5-day được tính bằng tổng giá đóng cửa của 5 ngày cuối cùng và chia tổng cho 5.

(10+ 11 + 12 + 13 + 14)/5 = (60/5) = 12 => SMA(5) = 12
Việc tính toán được lặp lại cho mỗi vạch giá (price bar) trên đồ thị. Sau đó các điểm trung bình được nối

kết lại tạo thành đường uốn khúc đấy chính là đường trung bình.
Tiếp tục ví dụ trên, nếu giá đóng cửa của ngày kế tiếp là 15,thì giá mới sẽ được cộng vào và giá cũ nhất sẽ
được bỏ ra (giá trị 10).Và giá trị SMA 5-day mới sẽ được tính như sau :

(11 + 12 + 13 + 14 +15)/5 = (65/5) = 13 => SMA(5) = 13
Theo 2 ngày cuối cùng, SMA chuyển từ 12 lên 13. Khi những ngày mới được thêm vào, những ngày cũ
được bỏ ra và đường trung bình sẽ tiếp tục biến đổi theo thời gian.


_______________________________________________________________________________________


3
Trong VD trên, ngày thứ10 là ngày đầu tiên có thể tính một SMA 10-day. Khi tiếp tục tính, ngày mới nhất
được thêm vào và ngày cũ nhất được loại ra. SMA 10-day cho ngày 11 được tính bằng cách tính tổng giá
từ ngày 2 đến ngày 11 và chia cho 10…

Tất cả các đường trung bình là các công cụ báo biểu trễ (lagging indicator) và luôn luôn theo sau giá thật.
Nếu giá đang đi xuống thì SMA nằm trên giá,nếu giá đang lên thì SMA hầu hết sẽ nằm bên dưới giá.Bởi vì
các đường trung bình là những công cụ báo biểu trễ nên chúng được xếp vào loại công cụ báo biểu theo
sau xu hướng. Khi giá theo xu hướng thì đường trung bình hoạt động tốt, nhưng không phải lúc nào giá
cũng theo xu hướng do đó đường trung bình có thể đưa ra tín hiệu sai lệch.

2. Đường trung bình gia quyền WMA (Weight Moving Average )
Cách tính toán quá đơn giản như vậy cũng có khuyết điểm cho những người mua bán ngắn hạn, vì giá
niêm yết của những ngày gần đây quan trọng hơn hơn những ngày xa xưa. Để bù lấp sự khiếm khuyết
này, người ta dùng phép tính khác, đó là đường trung bình gia quyền (Weighted Moving Average- WMA)

Công thức :
WMA(t)

=
[n
.
P
t
+ (n-1).P
t-
1
+…. ]

/ (n+n-1+….)

Hãy xét một ví dụ :
Với cách tính trên bản đồ trên đây, với phép tính WMA thì
ngày thứ nhất chỉ có hiệu lực bằng 1/5 ngày thứ 5.Công thức
của nó là :

WMA(5)={(1×25)+(2×28)+(3×31)+(4×27)+(5×22)}/15= 26.13

Tuy nhiên,có người vẫn chưa hài lòng với hai chỉ số trên,
người ta lại có thêm một chỉ số nữa là đường trung bình lũy
thừa: Exponential Moving Average (EMA). Chúng ta có thể
xem nó như là một WMA đặc biệt. Đặc điểm của EMA là cho
chúng ta dấu hiệu mua bán sớm hơn các đường trung bình khác. Bù lại, nó cũng cho ta những tin hiệu sai
lầm cho nên người ta vẫn dùng đường MA đơn giản để mua bán dài hạn, chậm trễ nhưng chắc chắn.

3. Đường trung bình lũy thừa EMA (Exponential Moving Average )
Để giảm độ trễ trong đường SMA,WMA,người ta thường dùng đường EMA. Đường EMA giảm độ trễ bằng
cách áp dụng “mức ảnh hưởng” nhiều đối với các giá gần hơn so với các giá cũ hơn





Giá đóng cửa Weighted Tổng số
25 1 25
28 2 56
31 3 93
27 4 108
22 5 110
15 392
Tổng số
392:15=26,13


_______________________________________________________________________________________


4
Cách tính EMA :

EMA(current) = [Price(current) - EMA(prev)] x Multiplier + EMA(prev)


Xác định EMA dựa trên thời gian (a period-based EMA) - sử dụng tham số là khoảng thời gian.Trong đó hệ
số "Multiplier" = 2/(1+N) ;

N :số khoảng thời gian (Time periods).

VD : đối với 10-period EMA thì “Multiplier” được tính như sau:


2 2
-------------------------- = ------------ = 0.1818 = 18.18%
Time periods + 1 10 + 1


Nghĩa là một 10-period EMA thì có hệ số “Multipler” là : 18.18% .

Bảng bên dưới là kết quả tính cho EMA của Eastman Kodak :




(C - P) = (57.15 - 59.439) = -2.289
(C - P) x K = -2.289 x 0.181818 = -0.4162
(C - P) x K +P = -0.4162 + 59.439 = 59.023


Chú ý rằng mỗi một giá đóng cửa trước đó trong chuỗi dữ liệu được sử dụng để tính cho một EMA để tạo
đường EMA. Sự ảnh hưởng của dữ liệu cũ giảm theo thời gian,cũng như giảm nhanh đối với EMA ngắn
nhưng không bao giờ mất hoàn toàn.


_______________________________________________________________________________________


5
4. So sánh SMA với EMA

4.1 Các ví d
Sự khác biệt giữa EMA và SMA tuy là rất nhỏ,nhưng dù sao vẫn là có.Trong ví dụ này,chúng ta sử dụng

20 ngày cho thấy sự khác biệt đó.Đường EMA theo sát giá thực hơn so với đường SMA.




Từ ngày 10 đến 20, đường EMA gần giá thực hơn đường SMA (8/11 lần). Sự sai biệt trung bình của
đường EMA so với giá thực là 1.52 và đường SMA là 1.69. Điều này nghĩa là đường EMA có 1.52 điểm
nằm trên và dưới giá thực và đường SMA có 1.69 điểm nằm trên và dưới giá thực.

Khi Kodak ngừng đi xuống và bắt đầu đi ngang đường SMA vẫn giữ hướng xuống. Trong khoảng thời gian
này, đường SMA gần giá thực hơn EMA. Đường EMA bắt đầu khựng lại và rời xa giá thực. Điều này là do
giá thực bắt đầu khựng lại. Do giá thực khựng lại nên đường SMA tiếp tục giảm và gần chạm giá thực vào
ngày 13/12

So sánh giữa đường EMA 50-day và SMA 50-day của IBM cũng thấy rằng đường EMA theo xu hướng
nhanh hơn đường SMA. Các mũi tên xanh đánh dấu khi cổ phiếu bắt đầu một xu hướng mạnh. Do đặt
mức ảnh hưởng cao hơn đối với giá gần, đường EMA ảnh hưởng nhanh hơn so với SMA và gần giá thực.
Vòng tròn xám thể hiện khi xu hướng bắt đầu chậm lại và thị trường đi ngang. Khi thay đổi xu hướng bắt
đầu, đường SMA gần giá thực. Khi đến năm 2001, cả 02 đường trung bình hội tụ. Trước 2001, giá bắt đầu
xu hướng lên và EMA nhanh chóng hướng lên theo giá thực và gần với giá thực hơn SMA.



_______________________________________________________________________________________


6
4.2 Đng nào tt hơn ?
Trước tiên hãy bắt đầu với một đường EMA. Khi ta muốn một đường trung bình phản ánh hoạt động giá
nhanh hơn thì một đường EMA với số khoảng thời gian ngắn là cách tốt nhất. Điều này có thể giúp ta nắm

bắt xu hướng giá rất sớm và kết quả là lợi nhuận cao hơn.

Thực vậy, nắm bắt một xu hướng sớm hơn, ta có thể giao dịch trên xu hướng đó dài hơn và thu vào nhiều
lợi nhuận! Mặt trái đối với một đường trung bình biến động nhấp nhô là ta có thể bị đánh lừa, bởi vì đường
trung bình phản ánh quá nhanh đối với giá cả và ta có thể nghĩ rằng một xu hướng mới đang hình thành
nhưng thực tế nó có thể chỉ là một xung nhọn.

Với một đường SMA, khi ta muốn một đường trung bình “trơn tru” hơn và phản ánh chậm hơn hoạt động
giá cả, thì một SMA với số khoảng thời gian dài hơn là cách tốt nhất. Mặc dù nó chậm phản ánh hoạt động
giá, nó sẽ giúp ta không bị sai lầm. Mặt trái là nó có thể làm ta quá chậm và có thể lỡ mất một cơ hội giao
dịch tốt.

Vậy thì cái nào tốt hơn? Thật khó để quyết định. Nhiều người giao dịch vẽ nhiều đường trung bình khác
nhau để có một cái nhìn tổng quát. Họ có thể sử dụng đường SMA với số khoảng thời gian dài để tìm xu
hướng bao quát và sau đó sử dụng đường EMA với số khoảng thời gian ngắn để xác định thời điểm tốt để
giao dịch.

Đường trung bình mà bạn sử dụng sẽ tùy thuộc vào sở thích và cách giao dịch của bạn. Đường SMA hiển
nhiên có một độ trễ, đường EMA có thể bắt được đảo chiều nhanh hơn. Một số trader thích sử dụng
đường EMA đối với khoảng thời gian ngắn để nắm bắt được các thay đổi nhanh hơn. Nhưng một số trader
khác lại thích sử dụng đường SMA trên khoản thời gian dài để xác định thay đổi xu hướng dài hạn.

.Một số người nghĩ rằng các tín hiệu nhạy hơn và nhanh hơn thì tốt, nhưng điều này không luôn luôn đúng
và đây là một điều lưỡng nan trong phân tích kỹ thuật :cân bằng giữa độ nhạy và độ tin cậy. Các tín hiệu
có độ nhạy cao thì càng bị sai lầm nhiều.Do vậy,mỗi trader có kinh nghiệm sử dụng đường trung bình khác
nhau và có cách cân bằng giữa độ nhạy và độ tin cậy riêng.Tóm lại :

Đi vi đng trung bình, đng trung bình ngn hơn s nhy hơn và to nhiu tín hiu hơn.
Đng EMA nhy hơn đng SMA và s cho nhiu tín hiu hơn. Tuy nhiên điu này cũng đng
nghĩa vi vic tín hiu sai tăng lên. Đng trung bình dài hơn s chm hơn và to ít tín hiu hơn.

Các tín hiu này s có đ tin cy cao hơn, nhng chúng cũng tr hơn.


5.Khi nào nên sử dụng phương pháp đường trung bình?

Các đường trung bình làm phẳng dữ liệu giúp dễ xác định xu hướng. Bởi vì giá trong quá khứ được sử
dụng để tạo ra đường trung bình nên chúng được xem là công cụ trễ hoặc theo sau xu hướng. Đường
trung bình sẽ không tiên đoán một thay đổi trong xu hướng, mà theo sau xu hướng hiện tại. Do đó, chúng
phù hợp với mục đính xác định xu hướng chứ không dùng để dự báo xu hướng.

Bởi vì đường trung bình theo sau xu hướng,nên chúng làm việc tốt khi cổ phiếu đang có xu hướng và
không hiệu quả khi thị trường đi ngang (sideway).Vì điều này, các trader thường xác định cổ phiếu có xu
hướng hay không trước khi quyết định phân tích bằng đường trung bình.

Giá cổ phiếu có một trong ba xu hướng : xu hướng lên (uptrend),xu hướng xuống (downtrend) và xu
hướng đi ngang (sideway). Xu hướng lên được thiết lập khi giá sau cao hơn giá trước, Xu hướng xuống
được thiết lập khi giá sau thấp hơn giá trước, và xu hướng ngang khi cổ phiếu không thể thiết lập xu
hướng lên hoặc xuống. Nếu cổ phiếu đang xu hướng ngang, một xu hướng lên bắt đầu khi đường biên
trên bị phá vỡ và ngược lại xu hướng xuống hình thành khi đường biên dưới bị phá vỡ.


_______________________________________________________________________________________


7


Trong đồ thị giá của Ford ở trên, giá cổ phiếu có thể vừa lên vừa xuống. Các vòng tròn đỏ cho thấy những
lúc giá dao động trong một phạm vi hẹp. Thật khó để xác định khi nào một xu hướng sẽ dừng và giá bắt
đầu dao động trong một phạm vi hẹp hoặc khi nào giá ngừng dao động trong một phạm vi hẹp và xu

hướng sẽ bắt đầu. Chú ý những lúc giá dao động hẹp và những lúc phá vỡ hình thành xu hướng. Đường
trung bình làm việc tốt những lúc có xu hướng, nhưng không tốt những lúc dao động trong phạm vi
hẹp.Cũng chú ý rằng đường trung bình chậm sau xu hướng : nó luôn luôn nằm bên dưới giá khi xu hướng
lên và nằm bên trên giá khi xu hướng xuống. Đường SMA – 50 day được sử dụng trong ví dụ này. Tuy
nhiên,việc lựa chọn khoảng thời gian cho đường trung bình còn tùy thuộc vào tính chất của cổ phiếu cũng
như kiểu đầu tư, kiểu giao dịch…



Nếu giá dao động lên xuống trong thời gian dài thì đường trung bình không phải là một lựa chọn tốt nhất
cho việc phân tích. Đồ thị của Coca-Cola cho thấy cổ phiếu dao động từ 60 đến 40 trong 02 tháng của năm
2001. Trước khi giá đi xuống, giá dao động trên và dưới đường trung bình. Sau đợt giảm, cổ phiếu tiếp tục
dao động và không hình thành xu hướng,giá cổ phiếu cắt qua đường SMA – 70 days rất nhiều lần và tạo
ra nhiều tín hiệu giả.Cố gắng phân tích dựa vào đường trung bình những lúc này thì không hiệu quả.

Nhìn qua đồ thị dưới đây của Time Warner(TWX) cho chúng ta một bức tranh khác. Trên cùng một khoảng
thời gian, TWX đã thể hiện khả năng hình thành xu hướng. Có 03 xu hướng rõ ràng. Khi cổ phiếu di
chuyển lên bên trên hoặc xuống bên dưới đường SMA – 70 days, nó tiếp tục xu hướng đó trong một
khoảng thời gian dài hơn.Một đường trung bình dài hơn có thể làm việc tốt hơn, đồ thị của TWX đã thể
hiện xu hướng tốt hơn.


_______________________________________________________________________________________


8


6. Xác định thông số đường trung bình


Khi một cổ phiếu đã thể hiện xu hướng, công việc kế tiếp là chọn lựa một số khoảng thời gian cho đường
trung bình và kiểu đường trung bình. Một số khoảng thời gian được sử dụng cho đường trung bình sẽ thay
đổi tùy thuộc vào tính chất biến động của cổ phiếu, khuynh hướng và sở thích của cá nhân. Đối với cổ
phiếu biến động nhiều thì cần làm phẳng nhiều hơn do đó đường trung bình dài hơn. Không có bộ thời
gian chuẩn, nhưng một vài bộ thời gian đươc sử dụng phổ biến như : 21, 50, 89 và 200 days; 10, 30 và 40
week. Các trader ngắn hạn thường tìm tín hiệu xu hướng 2-3 tuần bằng đường trung bình 21 day. Phương
pháp thử và vi sai là phương tiện thông dụng tốt nhất để tìm khoảng thời gian phù hợp. Kiểm tra xem
đường trung bình so với giá như thế nào. Nếu giá và đường trung bình cắt nhau quá nhiều thì cần tăng
khoảng thời gian của đường trung bình. Nếu đường trung bình phản ánh giá chậm thì cần giảm khoảng
thời gian của đường trung bình. Thêm vào đó, có thể sử dụng cả 02 đường trung bình SMA và EMA.
Đường EMA thường sử dụng tốt nhất cho ngắn hạn vì cần sự đáp ứng nhanh của đường trung bình.
Đường SMA làm việc tốt hơn cho dài hạn.

7. Sử dụng đường trung bình
Có nhiều công dụng đối với đường trung bình, nhưng các công dụng nổi bật là :

- Nhận biết/xác định xu hướng
- Nhận biết/xác định các mức hỗ trợ và kháng cự
- Hệ thống giao dịch


7.1 Nhận biết/xác định xu hướng
Có 03 cách nhận biết xu hướng với đường trung bình : hướng, vị trí và giao cắt.

7.1.1 Hướng
Để nhận biết xu hướng là sử dụng hướng của đường trung bình để xác định xu hướng. Nếu đường trung
bình đi lên, xu hướng lên. Nếu đường trung bình đi xuống, xu hướng xuống. Hướng của đường trung bình
có thể xác định đơn giản bằng cách nhìn vào đường trung bình trên đồ thị.



_______________________________________________________________________________________


9


Trong trường hợp của Disney (DIS), đường EMA 100-day được sử dụng để nhận biết xu hướng. Một số
điểm đảo chiều quan trọng được khoanh đỏ. Một số tín hiệu tốt được đưa ra nhưng cũng có một số tín
hiệu giả và tín hiệu trễ. Khoảng thời gian của đường trung bình sẽ ảnh hưởng đến số tín hiệu và khả năng
chậm trễ của tín hiệu. Đường trung bình là một công cụ báo hiệu trễ. Do đó, đường trung bình càng dài thì
phản ánh giá càng chậm. Đối với các tín hiệu nhanh có thể sử dụng đường EMA-50 days.

7.1.2 Vị trí giá
Để nhận biết xu hướng là xét vị trí giá.Vị trí giá so với đường trung bình có thể được sử dụng để nhận biết
hướng cơ bản. Nếu giá bên trên đường trung bình thì xu hướng lên. Nếu giá bên dưới đường trung bình
thì xu hướng xuống.




Đây là một ví dụ rất dễ hiểu. Xu hướng dài hạn của Cisco (CSCO) được nhận biết bằng vị trí của đường
SMA 100-day. Khi giá CSCO bên trên đường SMA thì xu hướng tăng. Khi giá bên dưới SMA thì xu hướng
giảm. Tín hiệu mua và bán được tạo khi giá cắt qua đường trung bình. Một tín hiệu bán sai được tạo vào
tháng 8/1999 và một tín hiệu mua sai được tạo vào tháng 7/2000. Cả 02 tín hiệu này đều xảy ra khi xu
hướng của Cisco bắt đầu đảo chiều.

7.1.3 Sự giao cắt
Để nhận biết xu hướng là dựa trên vị trí của một đường trung bình ngắn so với một đường trung bình dài.
Nếu đường trung bình ngắn bên trên đường trung bình dài thì xu hướng lên. Nếu đường trung bình ngắn
bên dưới đường trung bình dài thì xu hướng xuống.


_______________________________________________________________________________________


10


Đối với Inter-Tel (INTL), đường trung bình 30 và 100 cắt nhau được sử dụng để nhận biết xu hướng. Khi
đường trung bình 30 bên trên đường trung bình 100 thì xu hướng lên. Khi đường trung bình 30 bên dưới
đường trung bình 100 thì xu hướng xuống. Một biểu đồ vi sai 30/100 được vẽ bên dưới đồ thị giá bằng
công cụ Percentage Price Oscillator (PPO) với thông số (30,100,1). Khi vi sai là dương thì xu hướng lên,
khi vi sai là âm thì xu hướng xuống. Cũng như tất cả các công cụ theo sau xu hướng, tín hiệu là hiệu quả
khi giá tạo một xu hướng mạnh, nhưng không hiệu quả khi giá dao động (sideway) trong phạm vi đó. Cũng
lưu ý rằng tín hiệu có khuynh hướng trễ và xuất hiện sau khi biến động đã bắt đầu.Một lần nữa, các công
cụ theo sau xu hướng sử dụng tốt nhất để nhận biết xu hướng chứ không phải để tiên đoán xu hướng.

7.2 Nhn bit/xác đnh các mc h tr và kháng c
Một công dụng khác của đường trung bình là xác định các mức hỗ trợ và kháng cự. Việc này được thực
hiện với một đường trung bình và được dựa trên sự kiện trước đó. Cũng như việc xác định xu hướng, việc
xác định các mức hỗ trợ và kháng cự thông qua đường trung bình đem lại hiệu quả tốt nhất trong các thị
trường đã có xu hướng rõ.
Qua đồ thị của Sun Microsystems (SUNW) dưới đây cho thấy :sau khi tạo thành xu hướng đi lên, giá đã
test thành công các mức hỗ trợ của đường trung bình vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8. Sau lần test đầu
tiên, đường trung bình 50-day đã thành công tiếp thêm 4 lần test mức hỗ trợ cho các tháng tiếp theo. Một
cú phá vỡ mức hỗ trợ của đường trung bình báo hiệu rằng cổ phiếu có thể chuyển sang dao động trong
phạm vi và có thể đảo hướng. Giá phá vỡ đường trung bình vào tháng 4/2000 và đường trung bình trở
thành mức kháng cự các tháng sau đó. Khi giá cắt đường trung bình vào tháng 6/2000, đường trung bình
trở lại làm mức hỗ trợ cho đến tháng 10/2000.



7.3 H thng giao dch (Sẽ đề cập sau này)

_______________________________________________________________________________________


11
II. BOLLINGER BANDS

1. Giới thiệu
Được John Bollinger phát triển, Bollinger Bands là một công cụ cho phép người sử dụng so sánh độ bất ổn
định của thị trường,nó cho ta biết thị trường yên lặng hay sôi động!Khi thị trường yên lặng, dải băng co hẹp
lại,khi thị trường sôi động dải băng rộng ra.
Công cụ này bao gồm 03 đường được thiết kế để bao quanh phần lớn hoạt động của giá:
- Một đường trung bình ở giữa – Middle band
- Một đường bên trên – upper band
- Một đường bên dưới – lower band



2. The Bollinger Bounce

Điều đầu tiên ta nên biết về các dải băng Bollinger là giá có khuynh hướng quay trở lại giữa dải băng. Đây
là toàn bộ ý nghĩa của Bollinger bounce.


Đối với trường hợp này, nhìn vào đồ thị dưới đây bạn có thể cho biết giá sắp tới như thế nào?



Nếu bạn trả lời là xuống thì bạn đúng! Như bạn thấy, giá xuống trở lại vùng giữa dải băng.


_______________________________________________________________________________________


12
Đó là tất cả những gì chúng ta có. Cái bạn vừa thấy là một đường Bollinger bounce kinh điển. Các dải
băng Bollinger hoạt động như các mức hỗ trợ và kháng cự nhỏ. Đối với khung thời gian dài, các dải băng
sẽ mạnh hơn. Nhiều người giao dịch đã phát triển hệ thống dựa trên các bounce để phát đạt. Chiến thuật
này được sử dụng tốt nhất khi thị trường đang lên xuống giữa 02 mức và không có xu hướng rõ ràng.

Bây giờ hãy xem cách sử dụng dải băng Bollinger khi thị trường hình thành xu hướng.

3. Bollinger Squeeze



Tên Bollinger squeeze (co thắt lại) tự nó cũng giải thích khá rõ. Khi các dải băng ép lại với nhau, nó thường
có nghĩa là một cú phá vỡ sắp xảy ra. Nếu giá đỡ bắt đầu vượt khỏi dải băng trên thì hướng biến đổi sẽ
thường là tăng. Nếu giá đỡ bắt đầu vượt khỏi dải băng dưới thì hướng biến đổi sẽ thường là tiếp tục đi
xuống. Nhìn trên đồ thị trên, bạn có thể nhìn thấy các dải băng ép sát lại nhau. Giá bắt đầu vượt khỏi dải
băng bên trên. Dựa vào thông tin này bạn nghĩ giá sẽ có biến đổi như thế nào?




Nếu bạn trả lời tăng thì bạn đúng. Đây là cách một Bollinger Squeeze tiêu biểu làm việc. Chiến thuật này
được thiết kế để bạn có khả nắm bắt được một biến đổi sớm. Dạng này không xảy ra hằng ngày, nhưng
bạn có thể phát hiện ra chúng vài lần một tuần nếu bạn xem đồ thị 15 phút.

4. Công thức tính

Dải Bollinger bao gồm 03 đường trong đó ở giữa là đường trung bình SMA và hai đường biên trên và
dưới,hình thành như sau:
- Đường biên trên = SMA + 2 standard deviations (High band)
- Đường biên dưới = SMA - 2 standard deviations (Low band)

Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự đánh giá độ bất ổn định của đồ thị giá. Sử
dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger sẽ đáp ứng nhanh với các biến động giá và phản
hồi độ bất ổn định cao hay thấp. Giá tăng hoặc giảm đột ngột sẽ tạo thành dãy băng rộng.

_______________________________________________________________________________________


13
Bollinger đề nghị sử dụng đường SMA 20 cho đường ở giữa và 2 standard deviation cho các đường ngoài.
Độ dài của đường trung bình và số deviation có thể điều chỉnh cho tốt hơn tùy thuộc vào sở thích cá nhân
và đặc tính của cổ phiếu.
Giá đóng cửa là giá thường được sử dụng để tính Bollinger Bands.Các biến thể khác cũng có thể được sử
dụng bao gồm typical price và weighted price.

Typical Price = (high + low + close)/3
Weighted Price = (high + low + close + close)/4





_______________________________________________________________________________________


14

Bằng cách quan sát trên đồ thị có thể xác định khoảng thời gian phù hợp cho đường trung bình. Các
đường bollinger sẽ bao quanh phần lớn hoạt động biến đổi của giá nhưng không phải là hoàn toàn. Sau
khi có biến động đột ngột, việc giá xuyên qua dãy băng là bình thường. Nếu việc giá vượt qua khỏi dãy
băng xuất hiện thường xuyên thì đường trung bình cần dài hơn. Nếu giá hiếm khi chạm vào 02 đường
ngoài của dãy bollinger thì đường trung bình cần ngắn hơn.

Đối với các khung thời gian chung, Bollinger đề nghị sử dụng đường SMA 10-day cho ngắn hạn, đường
SMA 20-day cho trung hạn và đường SMA 50-day cho dài hạn.

5. Tín hiệu mua bán
Ngoài việc xác định quan hệ giữa các mức giá và độ bất ổn định, đường Bollinger Bands có thể kết hợp
với biến động giá và các công cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự báo các biến động quan trọng.

5.1 Double bottom Buy
Một tín hiệu Double Bottom Buy được tạo thành khi giá vượt qua đường bollinger dưới và nằm bên trên
đường bollinger dưới sau khi tạo tiếp mức giá thấp tiếp theo. Mức giá thấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn
so với mức giá thấp trước đó. Điều quan trọng là mức thấp thứ hai phải nằm trên đường bollinger dưới.
Giá chuyển sang xu hướng lên được xác định khi giá di chuyển lên trên đường bollinger giữa.




AT&T (T) cho chúng ta một ví dụ của một tín hiệu Double Bottom Buy. Cổ phiếu đã vượt qua đường
bollinger dưới vào cuối tháng 9 (mũi tên đỏ) và sau đó giữ bên trên tại mức thấp kế tiếp trong tháng 10.
Đợt tăng giá tháng 10 vượt qua đường bollinger giữa chứng tỏ xu hướng tăng giá.

5.2 Double Top Sell
Một tín hiệu Double Top Sell được tạo thành khi giá vượt qua đường Bollinger trên và đỉnh của đợt tăng
giá kế tiếp không vượt qua được đường bollinger trên. Giá chuyển sang xu hướng xuống được xác định
khi giá di chuyển xuống bên dưới đường bollinger giữa.


5.3 Bollinger Squeeze
Việc thay đổi giá đột ngột có thể xảy ra sau khi dãy bollinger thu hẹp lại và sự bất ổn định thấp. Trong ví dụ
này, đường bollinger không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào về xu hướng của giá trong thời gian tới. Xu hướng
phải được xác định bằng cách sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật khác. Nhiều cổ phiếu chuyển sang
biến động mạnh sau một khoảng thời gian biến động ít. Việc sử dụng đường bollinger có thể xác định mức
độ biến động dễ dàng bằng quan sát đồ thị. Dãy băng hẹp cho biết thị trường ít biến động và dãy băng
rộng cho biết thị trường biến động mạnh


_______________________________________________________________________________________


15


Starbucks (SBUX) cung cấp một ví dụ về việc dãy băng bollinger thu hẹp trước khi có biến động mạnh.
Trong tháng 11, dãy băng tương đối rộng và bắt đầu thu hẹp khoảng 02 tháng sau đó. Vào đầu tháng 01,
dãy băng thu hẹp nhất trong khoảng 02 tháng (vùng khoanh đỏ). Sau đó cổ phiếu bùng nổ tăng 10 điểm.

6. Kết luận
Mặc dù đường Bollinger có thể giúp tạo các tín hiệu mua và bán, nhưng đường Bollinger không được thiết
kế để xác định xu hướng trong tương lai. Đường Bollinger được thiết kế để bổ sung cho việc phân tích kỹ
thuật và các công cụ khác.Bản thân đường Bollinger đáp ứng 02 chức năng chính :

- Xác định các khoảng thời gian độ biến động cao hoặc thấp
- Xác định các khoảng thời gian giá đang ở mức kháng cự hay hỗ trợ.

Như đã đề cập ở trên, giá cổ phiếu có thể chuyển đổi qua lại giữa biến động mạnh và biến động thấp.
Đường Bollinger có thể xác định khoảng thời gian biến động ít do đó có thể đáp ứng vai trò một công cụ

cảnh báo động thái của giá cổ phiếu.
Trong phân tích kỹ thuật, kết hợp cùng các công cụ khác, đường bollinger có thể giúp xác định chiều của
một biến động mạnh.
Hãy nhớ rằng tín hiệu mua và bán không được đưa ra khi giá chạm đường bollinger trên và dưới. Các
mức này chỉ cho biết giá đang ở mức cao hoặc thấp trên một nền tảng tương đối.

Bollinger Bounce
Một chiến thuật dựa trên quan điểm là giá có khuynh hướng luôn luôn trở lại giữa hai dải băng Bollinger
Sử dụng tốt nhất trong các thị trường đi ngang (sideway)

Bollinger Squeeze
Một chiến thuật được sử dụng để nắm bắt sớm các cú phá vỡ của thị trường
Khi các đường Bollinger ép giá lại có nghĩa là thị trường rất yên lặng và một cú phá vỡ thì quá tốt. Khi một
cú phá vỡ xảy ra, chúng ta thực hiện giao dịch dựa hướng phá vỡ của thị trường.











_______________________________________________________________________________________


16
III. PARABOLIC SAR


1. Giới thiệu
Một công cụ có thể giúp chúng ta xác định điểm kết thúc một xu hướng là Parabolic SAR (Stop And
Reversal - ngừng và đảo hướng).Parabolic SAR vẽ các chấm trên đồ thị để chỉ khả năng đảo hướng của
giá.Từ đồ thị trên, ta có thể thấy rằng các điểm chuyển từ bên dưới các giá đỡ trong xu hướng lên, lên bên
trên các giá đỡ khi xu hướng chuyển sang hướng xuống.



Parabolic SAR do Welles Wilder - người đã tạo ra các công cụ RSI và DMA phát triển.Parabolic SAR
được dùng phổ biến để xác định các điểm dừng hơn là xác định xu hướng. Wilder khuyến cáo xác định xu
hướng trước tiên, sau đó dùng Parabolic SAR để giao dịch theo chiều của xu hướng. Nếu xu hướng lên,
mua khi đường Parabolic SAR di chuyển xuống bên dưới giá. Nếu xu hướng xuống, bán khi đường
Parabolic SAR di chuyển lên bên trên giá.

2. Công thức tính

Công thức tính : SAR tomorrow = SAR today + AF (EP trade - SAR today)

Trong đó:

- AF bắt đầu là 0.02 (giá trị mặc định) và sau khi tăng thêm 0.02 cho mỗi thanh giá và hướng tăng đột biến
cho đến khi giá trị nó là 0.2.

- EP = điểm tăng giá quá xa. Mỗi khi giá tăng trong 1 xu hướng tăng giá nó sẽ thiết lập ghi nhớ các vị trí
hiện hành. Ngược lại khi thị trường xuống giá thì nó sẽ ghi nhớ những điểm đặt đó.

Đây là chỉ báo giúp cho nhà đầu tư hiểu rõ 1 xu hướng. Nó là 1 chỉ báo dễ sử dụng. Một điều hiển nhiên là
đường giá luôn đi xuyên qua SAR trong mọi hướng.
Parabolic SAR là các đường chấm chấm nằm bên dưới giá thiết lập “trailing stop” cho một giao dịch long

và là các đường nằm bên trên giá thiết lập “trailing stop” cho một giao dịch short. Tại vị trí bắt đầu của biến
động, đường Parabolic SAR sẽ tạo khoảng cách lớn hơn giữa giá vào trailing stop. Khi giá tiếp tục biến
động, khoảng trống giữa giá và đường Parabolic SAR sẽ thu hẹp dần, điều này làm cho stop-loss sẽ thu lại
khi giá di chuyển.

Có 2 biến là : “step” và “maximum step”. Giá trị “step” càng cao thì công cụ sẽ càng nhạy với biến động
của giá. Nếu “step” được đặt quá cao thì công cụ sẽ dao động lên/xuống qua giá quá nhiều.Giá trị
“maximum step” điều khiển sự điều chỉnh của SAR khi giá biến động. Giá trị “maximum step” càng thấp thì
“trailing stop” càng cách xa giá. Wilder khuyến cáo nên đặt “step” = 0.02 và “maximum step” = 0.2.



_______________________________________________________________________________________


17
Ví dụ :

Đồ thị của Microsoft (MSFT) cho thấy đường Parabolic SAR có thể đón bắt phần lớn các xu hướng và cho
phép trader thu lợi từ các tín hiệu buy/sell. Thông số cài đặt ngầm định theo khuyến cáo của Wilder giảm
bớt sự dao động, nhưng không thể loại trừ hoàn toàn báo hiệu sai (mũi tên đen). Cách sử dụng công cụ
này : trader sẽ đóng giao dịch long khi giá chuyển xuống bên dưới đường SAR (mũi tên đỏ) và đóng giao
dịch short khi giá chuyển lên bên trên đường SAR (mũi tên xanh).
Đường Parabolic SAR hoạt động tốt khi có xu hướng mạnh, và Wilder tự ước lượng khoảng 30% thời gian
có xu hướng mạnh. Do đó, người sử dụng phải xác định xu hướng thị trường trước tiên bằng các công cụ
khác ví dụ như đường ADX của Wilder.



3. Tín hiệu mua bán


3.1 Tín hiệu mua
Mua khi giá đóng cửa nằm trên đường Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR phải cao hơn
đường giá. Có nghĩa là khi đường Parabolic SAR thay đổi từ giá trị cao chuyển sang giá trị thấp thì nhà
đầu tư nên “dừng lại”; thực hiện mua rải hay bán khống để chờ tín hiệu đảo chiều xu hướng mạnh xảy ra
hoặc có thể mua để đầu tư dài hạn.

3.2 Tín hiệu bán
Tín hiệu bán xuất hiện khi giá đóng cửa nằm dưới Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR thấp
hơn đường giá. Ngay tại thời điểm này đường Parabolic SAR thay đổi từ mức thấp hơn đường giá lên mức
cao hơn đường giá. Các nhà đầu tư nên “dừng lại”, cũng có thể bán để thoát khỏi xu hướng dài hạn hiện
hành và chờ sự đảo chiều trong ngắn hạn.

_______________________________________________________________________________________


18
Bài 2: CÁC CHỈ BÁO DAO ĐỘNG (
Oscilator
indicators)

I. STOCHASTICS

1. Giới thiệu
Stochastic indicator (viết tắt là STO) là một chỉ thị dao động hình sin, hỗ trợ chúng ta xác định điểm mà một
xu hướng có thể kết thúc.Stochastic là một oscillator (công cụ tạo dao động) để đo các trạng thái mua vượt
(overbought) và bán vượt (oversold) trong thị trường với ý nghĩa :
- Khi giá tăng,giá đóng cửa có khuynh hướng tiến gần đến biên trên của một khung giá.(price range).
- Khi giá giảm,giá đóng cửa có khuynh hướng tiến gần đến biên dưới của một khung giá.(price range)



Đường Stochastic chỉ cho chúng ta thời điểm thị
trường bán vượt hoặc mua vượt.Bản chất của các
đường Stochastic chính là hình chiếu của dao động
giá trong kênh lên mặt bằng được chia từ 0 đến 100.
Khi các đường stochastic bên trên 80 (đường chấm
đỏ trong đồ thị trên) thì có nghĩa là thị trường mua
vượt. Khi các đường stochastic bên dưới 20 (đường
chấm xanh) thì có nghĩa là thị trường bán vượt.Như
qui luật, chúng ta mua khi thị trường bán vượt và bán
khi thị trường mua vượt







Nhìn vào đồ thị bên, bạn có thể nhìn thấy rằng các
đường stochastic đã hiển thị các trạng thái mua vượt
khá nhiều lần.
Dựa vào thông tin này, bạn có thể đoán giá sẽ diễn
biến tiếp ra sao?











Nếu bạn nói rằng giá sẽ xuống thì bạn hoàn toàn
đúng. Bởi vì thị trường đã bán vượt trong một khoảng
thời gian dài, một giới hạn đảo chiều xảy ra.

Đó là dạng cơ bản của Stochastics. Nhiều người giao
dịch sử dụng các đường stochastic bằng các cách
khác nhau, nhưng mục đích chính của công cụ này là
chỉ cho chúng ta vị trí thị trường mua vượt hoặc bán
vượt.



_______________________________________________________________________________________


19
2. Công thức tính

Chỉ báo Stochastic sử dụng 2 đường là :
- Đường Fast Stochastic %K
- Đường Slow Stochastic %D – (đường trung bình 3 phiên của đường Fast Stochastic)

Sự khác biệt của 2 đường này được thể hiện ở cách tính hai đường %K và %D.Đường Slow Stochastic
chậm và nhẵn hơn đường Fast Stochastic.

Công thức tính :
Close – Lowest Low(n)

Đường %K = 100 x --------------------------------------------
Highest High(n) –Lowest Low(n)

(n) = Số phiên (Candle) tính toán trong giai đoạn phân tích.

Đường %D = Trung bình 3 phiên của đường %K.

Periods High Low Close
1 119.50 116 115.38
2 119.94 116 116.75
3 118.44 111.63 113.50
4 114.19 110.06 111.56
5 112.81 109.63 112.25
6 113.44 109.13 110
7 115.81 110.38 113.50
8 117.50 114.06 117.13
9 118.44 114.81 115.63
10 116.88 113.13 114.13


Ví dụ : Theo bảng số liệu trên : C= 115.38 ; Giá thấp nhất(n) = 109.13;Giá cao nhất(n)= 119.94.
%K = 100 x ( 115.38-109.13)/(119.94-109.13) = 57.81
%D = Trung bình 3 phiên của đường %K.

Chú ý : Chỉ báo này chỉ hiệu quả trong thị trường bình thường hoặc sideway.Khi xu hướng quá mạnh,các
chỉ báo này sẽ bị tê liệt và không hiệu quả.

3. Công dụng của Stochastics

3.1 Tín hiệu mua/bán :

-Khi đường %K và %D cắt xuống từ vùng trên 80 – Tín hiệu bán.
-Khi đường %K và %D cắt lên từ vùng dưới 20 – Tín hiệu mua.

3.2 Phân kỳ tăng giá và giảm giá.
- Sự phân kỳ giảm giá (Beasish divergence):Khi đồ thị giá hình thành những đỉnh cao hơn trong
khi Stochastic lại hình thành những điểm đỉnh thấp hơn.
- Sự phân kỳ tăng giá (Bullish divergence):Khi đồ thị giá hình thành những đáy thấp hơn trong khi
Stochastic lại hình thành những điểm đáy cao hơn.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×