Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Định hướng chiến lược năng lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.92 KB, 71 trang )

Nhóm Ngân hàng Thế giới

Báo cáo Định hướng
Chiến lược Năng lượng
(Bản dịch tham khảo)

Mạng lưới phát triển bền vững

Tháng 10/2009


Mục lục
Danh sách các từ viết tắt .....................................................................................................
Báo cáo định hướng Chiến lược Năng lượng của Ngân hàng Thế giới ..............................
Bối cảnh ..............................................................................................................................
Các diễn tiến mới nhất và triển vọng ..................................................................................
Chiến lược và hiệu quả ngành năng lượng của Ngân hàng Thế giới trong những năm gần
đây.......................................................................................................................................
Mục tiêu và Phương pháp ...................................................................................................
Phạm vi ...............................................................................................................................
Đề xuất lĩnh vực hoạt động .................................................................................................
Lĩnh vực triển khai ..............................................................................................................
Các bước xây dựng chiến lược ...........................................................................................
Tham vấn ý kiến các bên ....................................................................................................
Phụ lục 1: Phạm vi hoạt động của ngành năng lượng.........................................................
Phụ lục 2: Các nội dung ưu tiên của ngành năng lượng của các nước đối tác của Ngân
hàng thế giới và đề xuất lĩnh vực tập trung của Ngân hàng Thế giới .................................
Phụ lục 3: Đề cương phát triển năng lượng ........................................................................
Phụ lục 4: Các nghiên cứu tổng quan .................................................................................
Tài liệu tham khảo ..............................................................................................................


Hình minh họa
Hình 1 Hoạt động liên quan đến năng lượng của Ngân hàng Thế giới
Hình 2 Thất bại trong hoạt động của Ngân hàng Thế giới trong Năm tài khóa 03-09 tính
theo viện nghiên cứu ...........................................................................................................
Hình 3 Khung Chiến lược năng lượng................................................................................
Hình 4 Tiếp cận Điện và Khí thải CO2...............................................................................
Hình 5 Số giờ mất điện .......................................................................................................

Bảng
Bảng 1 Khung thời gian của chiến lược năng lượng .........................................................


Danh sách các từ viết tắt

CAS

Chiến lược hỗ trợ quốc gia

CEIF

Khung đầu tư năng lượng sạch và phát triển

CIF

Quỹ đầu tư khí hậu

CO2

các-bon đi-ô-xít


CTF

Quỹ công nghệ sạch

DCCSF Phát triển và biến đổi khí hậu: Khung chiến lược cho Ngân hàng Thế giới
EI

công nghiệp khai khoáng

EITI

Sáng kiến Minh bạch trong các ngành công nghiệp khai khoáng

FFT

Nhiên liệu của tương lai

FY

năm tài khóa

GDP

tổng sản phẩm quốc nội

GEF

Quỹ Môi trường Toàn cầu

GHG


khí gây hiệu ứng nhà kính

IBRD

Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế

IDA

Hiệp hội Phát triển Quốc tế

IEA

Cơ quan Năng lượng Quốc tế

IEG

Nhóm Đánh giá Độc lập

IFC

Công ty Tài chính Quốc tế

INFRA

Chương trình Khôi phục Cơ sở hạ tầng và Tài sản

MIGA

Tổ chức Bảo lãnh Đầu tư Đa phương


OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

QAG

Nhóm Đảm bảo Chất lượng

SIAP

Chương trình Hành động vì Cơ sở hạ tầng Bền vững

SREP

Chương trình Phát triển các Nguồn năng lượng Tái sinh ở các nước đang phát
triển

WBG

Nhóm Ngân hàng Thế giới


Báo Cáo Định hướng Chiến Lược Năng Lượng
Nhóm Ngân Hàng Thế Giới
Báo cáo định hướng này hình thành nên cơ sở cho việc tham vấn để xây dựng chiến lược
ngành năng lượng của Ngân Hàng Thế Giới (WBG) mà được dự kiến sẽ được trình bày
trước Ban giám đốc điều hành WBG vào đầu năm 2011. Tiến trình tham vấn, dựa trên
báo cáo định hướng này, sẽ được bắt đầu hoạt động liên tục vào tháng 5 năm 2010. Các ý
kiến về báo cáo định hướng này được đưa ra sẽ hướng dẫn cho việc xây dựng chiến lược

này.

Bối cảnh
1.

Năng lượng là thiết yếu cho sự phát triển kinh tế và giảm nghèo. Cung cấp

dịch vụ năng lượng, đặc biệt là cho người nghèo, góp phần vào thành tích đạt được các
Mục tiêu thiên niên kỷ. Không có năng lượng, các nền kinh tế không thể tăng trưởng và
đói nghèo chẳng thể giảm được. Năng lượng là một đầu vào quan trọng cho tất cả các
ngành kinh tế, cung cấp nhiên liệu cho việc vận chuyển hàng hóa và người và cung cấp
điện cho ngành công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, và các dịch vụ xã hội quan trọng
như giáo dục và y tế. Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển đối mặt với sự thiếu nguồn
cung điện, gây cản trở hoạt động kinh doanh và giảm tăng trưởng. Hàng trăm triệu hộ gia
đình tiếp tục dựa vào việc sử dụng truyền thống các nhiên liệu rắn để nấu ăn và đốt nóng,
thiếu sự tiếp cận điện, hoặc chịu đựng cả hai trạng. Những hộ gia đình này- và đặc biệt là
các phụ nữ và trẻ em của những hộ này- chịu mức độ khói độc hại cao gây nguy hiểm và
mất đi các cơ hội nâng cao thu nhập.

2.

Việc cung cấp điện không đủ và không đáng tin cậy tác động tới nhiều nước

đang phát triển, đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Phi hạ Sahara và Nam Á. Hậu quả
là làm giảm năng suất, tính cạnh tranh và việc làm của doanh nghiệp, và hạn chế nghiêm
trọng đối với hoạt động và tăng trưởng kinh tế. Có lượng dân số lớn không được tiếp cận
với điện ở các nước nghèo hơn thuộc khu vực Châu Á và Châu Mỹ La tinh, cũng như ở
các khu vực nông thôn và cận nông thôn của các nước có thu nhập trung bình như Pê-ru
và Phi-líp-pin. Nghèo năng lượng ở khu vực Châu Phi hạ Sahara đặc biệt trầm trọng: tính



bình quân đầu người, công suất phát điện trong khu vực này chỉ bằng khoảng 1/10 công
suất ở các khu vực có thu nhập thấp khác. Không ngạc nhiên, khoảng 30 nước Châu Phi
đang chịu các giai đoạn thiếu điện thường xuyên và sa thải phụ tải. Để cân bằng cung và
cầu, mở rộng truyền tải qua biên giới phục vụ cho hoạt động thương mại khu vực, và tăng
10% tỷ lệ điện khí hóa, Châu Phi hạ Sahara cần một khoản đầu tư trị giá 40 tỷ Đô la Mỹ
tương đương với 6,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hiện nay, khu vực mới chỉ đầu tư
khoảng 11 tỷ Đô la Mỹ hàng năm, tương đương với ¼ so với yêu cầu thực tế, để lại lỗ
hổng tài chính hàng năm khoảng 30 tỷ Đô la Mỹ. Có nhiều người ở Nam Á cũng không
tiếp cận được điện như ở Châu Phi hạ Sahara, hầu hết trong số họ ở Ấn Độ. Tiệu thụ
điện trên đầu người ở Nam Á là thấp nhất chỉ sau Châu Phi hạ Sahara. Thiếu nguồn cung
đã dẫn đến việc nhiều công ty tự mình phát điện. Chính Phủ Ấn Độ trước đó đã đặt ra
mục tiêu điện khí hóa trên cả nước vào năm 2012, nhưng mục tiêu này dường như không
thể đạt được vì sự trì hoãn việc bổ sung công suất mới – nước này chỉ mới lắp đặt thêm


một nửa công suất điện so với mục tiêu trong ba (03) kế hoạch năm năm liên tiếp từ năm
1992 đến năm 2007- và vì những nút thắt cổ chai chưa được tháo gỡ. Thiếu điện không
chỉ ảnh hưởng đến các nước có thu nhập thấp mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước có thu
nhập trung bình, bao gồm Ai Cập, Kazakhstan, Paraguay, và Nam Á.

3.

Một thách thức chủ yếu mà các chính phủ ở hầu hết các nước đang phát

triển phải đối mặt là làm thế nào để nâng cao tính đáng tin cậy và khả năng cung
cấp đủ năng lượng trong khi đưa ra các dịch vụ năng lượng hiện đại mà tất cả
người dân có thể tiếp cận và có khả năng tài chính để chi trả (phụ lục 1-3). Dựa trên
nhu cầu năng lượng lớn chưa được đáp ứng và kinh nghiệm gần đây về sự thay đổi giá
năng lượng, đảm bảo việc cung cấp năng lượng ở các mức giá hợp lý đã tạo thành một

giai đoạn trọng tâm trong việc hoạch định chính sách năng lượng. Vượt qua được thách
thức này sẽ cần có sự huy động vốn- để làm tăng cơ sở cung cấp và nâng cao hiệu quả
cung cấp và sử dụng năng lượng- trên quy mô mà nhiều nước đang phát triển chưa thể
huy động cho tới nay. Giải quyết vấn đề thiếu công suất cung cấp là cơ sở hạ tầng năng
lượng hoạt động tốt sau vòng đời thiết kế của chúng và cần thay thế khẩn cấp.

4.

Tăng trưởng kinh tế liên tục-cần thiết cho giảm nghèo- và nhu cầu năng lượng kéo

theo sẽ có kết quả mang tính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới được đặt mục tiêu tăng trưởng
gấp bốn (04) lần đến năm 2050 và, nếu không có những thay đổi mang tính chuyển hóa
cả về nhu cầu năng lượng và sự thải khí CO2 liên quan đến năng lượng sẽ gấp hơn hai
(02) lần (IEA 2008). Người nghèo ở các nước đang phát triển sẽ chịu tác động trước tiên
và nhiều nhất từ sự biến đổi khí hậu, trong khi họ lại chỉ là những người gây ra và có thể
giải quyết sự biến đổi đó ít nhất. Có một sự xác nhận ngày càng rõ ràng rằng các chính
sách tiết kiệm năng lượng và năng lượng có sự thải khí gây hiệu ứng nhà kính (GHG)
thấp là cần thiết để đáp ứng được các nhu cầu năng lượng trong tương lai một cách bền
vững (phụ lục 4). Các biện pháp này, thông qua việc giải quyết các nguồn năng lượng
không đủ và đang bị ô nhiễm, nói chung là cũng giúp giảm nhẹ các vấn đề môi trường địa
phương liên quan đến việc sử dụng năng lượng. Bên cạnh đó, tăng thu nhập sẽ làm tăng
sức ép đối với việc làm giảm dần các nguồn năng lượng, tăng chi phí cung cấp năng
lượng.

5.

Đáp ứng các nhu cầu năng lượng của các nước đang phát triển và ngăn chặn

sự nóng lên toàn cầu đòi hỏi có sự hành động và sự hợp tác tăng cường toàn cầu.



Dựa trên bằng chứng khoa học hiện có về tốc độ biến đổi khí hậu, thì sự chuyển đổi sản
xuất và tiêu thụ năng lượng toàn cầu là một mệnh lệnh. Các nước phát triển, đã góp phần
lớn vào số lượng hiện nay của GHG, cần phải đi đầu và làm giảm sự thải khí GHG đáng
kể. Tiêu thụ năng lượng và sự thải GHG liên quan đến năng lượng trên đầu người ở thế
giới đang phát triển là các phần của những hoạt động này ở những nước có thu nhập cao.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài, IEA dự đoán rằng, nếu các chính sách hiện nay vẫn tiếp
tục được duy trì, thì việc thải khí CO2 liên quan đến năng lượng tại các nước không phải
là thành viên của OECD – hiện đang ngang hàng với việc thải khí của các nước thuộc
OECD- sẽ gấp hai (02) sự thải khí ở các nước OECD vào năm 2030. Thậm chí nếu tất cả
các hoạt động thải khí từ các nước phát triển chấm dứt, thì một sự thay đổi về đường
cong thải khí của thế giới đang phát triển vẫn sẽ cần làm cho ổn định nồng độ GHG toàn
cầu ở mức được cho là Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu có thể quản lý được.


Các cân nhắc vốn góp cần có sự chuyển nhượng công nghệ và tài chính lớn cho các nước
đang phát triển trong nỗ lực quốc tế để hạn chế sự thải khí GHG. IEA ước tính rằng tổng
chi phí lợi nhuận thu được từ việc giảm sự thải khí GHG từ việc sử dụng năng lượng ở
các nước không phải là thành viên của OECD để hạn chế nồng độ CO2 trong thời gian dài
ở mức 550 phần triệu (ppm) sẽ tính trung bình là 85 tỷ Đô la Mỹ một năm trong suốt giai
đoạn 2010-2030 và 230 tỷ Đô la Mỹ cho mức 450 ppm (IEA 2008). Năng lượng bền
vững đòi hỏi phải có nỗ lực chung trong thời gian dài của nhiều người hoạt động trong
các ngành công nghiệp, tài chính, chính phủ, và các tổ chức quốc tế, nhưng vẫn đang
được giải quyết với các khung chính sách và tài chính ngắn hạn mà không được điều
chỉnh theo quy mô của thách thức.

6.

Trái ngược với bối cảnh này Ngân hàng Thế giới đang xây dựng một chiến


lượng năng lượng mới. Các nước đang phát triển cần năng lượng nhiều hơn và sạch hơn
để vượt qua nghèo đói và để đặt họ trên con đường tăng trưởng mạnh. Trọng tâm của
cuộc thảo luận về tương lai của năng lượng toàn cầu là làm thế nào để mở rộng các nguồn
cung và sự tiếp cận năng lượng cho những người nghèo của thế giới theo những cách
thức mà đáp ứng được các nhu cầu của cả thế hệ hiện nay và tất cả các thế hệ trong tương
lai. Chiến lược năng lượng mới sẽ giải quyết cách mà WBG có thể cân đối các nhu cầu
cạnh tranh, thúc đẩy sự hiệp lực, và giải quyết các lựa chọn.

Những diễn tiến mới nhất và triển vọng

7.

Một vài diễn tiến gần đây và xu hướng tương lai đang thay đổi tầm quan trọng của

các vấn đề cơ bản trong ngành năng lượng ở các nước đang phát triển.

8.

Nhiều nước đang phát triển – bao gồm hầu hết tất cả các nước có sự tiếp cận

năng lượng thấp – đang trải qua các giai đoạn thiếu điện hoặc sẽ trải qua tình trạng
này trong vài năm tới. Các chi phí cho nền kinh tế thiếu điện khá lớn (phụ lục 2). Một
nghiên cứu ước tính rằng chi phí trung bình lên tới 2,1% GDP ở khu vực Châu Phi hạ
Sahara, và rằng các tổn thất cho các doanh nghiệp vào các hoạt động bán hàng bị hủy bỏ
và trang thiết bị thiệt hại là trung bình tương đương 6% doanh thu của các công ty trong
khu vực chính, và khoảng 16% doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khu vực không
chính thức mà thiếu sự phát điện hỗ trợ cho chính mình (Eberhard và những người khác


2008).


9.

Nếu các xu hướng hiện nay vẫn còn tiếp diễn, dưới một nửa các nước ở Châu

Phi hạ Sahara sẽ có được sự tiếp cận điện như nhau vào năm 2050 và mặc dù số
lượng kết nối và số lượng người không được tiếp cận điện ngày càng tăng sẽ thực
tăng đến năm 2030. Châu Phi hạ Sahara có tỷ lệ cao không cân đối hộ gia đình không
được tiếp cận điện. Tỷ lệ tiếp cận trung bình thấp hơn một nửa tỷ lệ đó ở Nam Á, khu vực
có tỷ lệ tiếp cận thấp thứ hai. Thậm chí các hộ gia định được tiếp cận điện thường trải qua
nhiều giờ thiếu điện, gây tác động bất lợi đến các hoạt động kinh doanh, giáo dục ở nhà
trường và các hoạt động thiết yếu khác của họ. Các giai đoạn thiếu điện ngày càng tăng
đối với các hộ gia đình đã kết nối được điện đã làm tăng thêm khoảng cách đối với các nỗ
lực thu hẹp khoảng cách tiếp cận hiệu quả. Kết quả cuối cùng đang làm giảm tiến độ đạt


được các Mục tiêu thiên niên kỷ. Đối với dân số này, sự ưu tiên cao nhất là nhiều năng
lượng hơn.

10.

Sự đô thị hóa nhanh trên khắp thế giới đang phát triển sẽ tác động đến các

nỗ lực làm tăng sự tiếp cận. Sự di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ làm tăng sự tập trung
vào sự kết nối điện mạng lưới trong những thập kỷ tới. Theo Liên Quốc, dân số thành thị
ở những nước đang phát triển sẽ tăng gần hai (02) tỷ người từ năm 2000 đến 2030 và
vượt dân số nông thôn là 850 triệu người. Thực tế, dân số nông thôn sẽ giảm ở tất cả các
lĩnh vực thu nhập ngoại trừ ở các nước có thu nhập thấp (UN-Habitat 2007). Trong khi
mở rộng sự tiếp cận ở các khu vực thành thị và cận thành thị tốn ít chi phí hơn đối với
mỗi sự kết nối số với ở các khu vực nông thôn, thì việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng

tại các khu vực có thu nhập thấp ngày càng tăng trưởng nhanh và các khu vực định cư
thành thị không chính thức sẽ là một thách thức. Và mặc dù có sự đô thị hóa đang diễn ra,
thì ước tính vẫn sẽ có thêm khoảng 125 triệu người ở các khu vực nông thôn vào năm
2030 so với năm 2000, đòi hỏi cần có sự chú ý liên tục đến sự điện khí hóa ở nông thôn.

11.

Một bài học rõ ràng rút ra từ sự việc tăng giá dầu giai đoạn 2004-2008 là tầm

quan trọng của đa dạng hóa danh mục đầu tư năng lượng, tích cực theo đuổi các
biện pháp để nâng cao hiệu quả năng lượng, và tầm quan trọng của việc được chuẩn
bị tốt hơn cho sự biến động cao giá năng lượng và các cú sốc có thể xảy ra trong
tương lai. Giá dầu thế giới trung bình là 29 Đô la Mỹ trong giai đoạn 1999-2001 (theo
Đô la Mỹ năm 2008), so với 97 Đô la Mỹ năm 2008. Khi chiến lược năng lượng WBG
hiện đang được xây dựng, thì việc tăng giá năng lượng không nằm trong các vấn đề cấp
bách được xem xét. Tăng giá năng lượng tới giữa năm 2008 đã tạo ra một động lực cho
một số nước cân nhắc việc dựa nhiều hơn vào sự phát điện từ đốt than. Các chính phủ hỗ
trợ giá năng lượng đã đối mặt với sự tăng các hóa đơn hỗ trợ năng lượng. IEA (2008) ước
tính rằng hỗ trợ năng lượng ở 20 nước lớn nhất không phải là thành viên của OECD đã
đạt tới 310 tỷ Đô la Mỹ vào năm 2007. Giá năng lượng cũng trở lên biến động hơn –
2008 là năm biến động nhất đối với giá dầu. Giá năng lượng cao và biến động tạo ra một
thách thức để chuyển đổi các hộ gia đình đang từ sử dụng truyền thống năng lượng sinh
khối và than để nấu ăn và đốt nóng sang sử dụng năng lương thương mại hiện đại. Trong
ngắn hạn, giá thấp và hạn chế tài chính sẽ làm giảm đầu tư. Với sự phục hồi kinh tế, công
suất dự phòng sẽ bắt đầu giảm dần và việc cung cấp dầu có thể bắt đầu thắt chặt trở lại,
đưa thị trường dầu thê giới vào một chu kỳ mới. Những thay đổi lớn về giá năng lượng


ảnh hưởng đến các chi phí tương đối của công nghệ, và sự biến động giá là một trong
những cản trở lớn nhất đối với phát triển năng lượng thay thế.


12.

Thời gian và chiều sâu của khủng hoảng tài chính sẽ ảnh hưởng đến việc

cung cấp năng lượng trong tương lai cũng như hiệu quả tiêu thụ năng lượng. Cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu đang khiến cho một số dự án bị trì hoãn và hủy bỏ. Đầu
tư giảm khiến cho việc đáp ứng tất cả nhu cầu tương lai – khi nền kinh tế toàn cầu bắt
đầu hồi phục- khó khăn hơn, kìm hãm sự tăng trưởng, đặc biệt khi các nước có thu nhập
thấp thì việc này có thể làm trì hoãn thêm các biện pháp để làm giảm sự nghèo năng
lượng. Trong ngành năng lượng, tính tới quý đầu của năm 2009, đầu tư vào năng lượng
tái sinh giảm theo tỷ lệ nhiều hơn so với ở các dạng khác. Về mặt cầu, thì các doanh
nghiệp và các hộ gia đình đang đầu tư ít hơn vào các dụng cụ, phương tiện và thiết bị


hiệu quả năng lượng (IEA 2009). Cuộc khủng hoảng tài chính và hệ quả dẫn đến sự giảm
cầu năng lượng và giá nhiên liệu, tạo ra nhịp thở để nâng cao hiệu quả của ngành và
chuẩn bị cho sự tăng trưởng nhu cầu trong tương lai. Các chính phủ có thể nắm bắt cơ hội
này để xây dựng các chính sách linh hoạt với sự biến động giá năng lượng, xóa bỏ hỗ trợ
giá thoái lui, và đưa ra các bước để cải thiện chất lượng đầu tư vào ngành.

13.

Một cấu trúc tài chính mới để quan tâm đến việc giảm nhẹ và thích nghi với

sự biến đổi khí hậu đang tiến triển. Tính chất và mức độ của các thỏa thuận quốc tế
trong tương lai về việc giảm nhẹ và các cơ chế tài chính liên quan để giúp các nước đang
phát triển theo đuổi con đường hướng tới các hoạt động có lượng các bon thấp hơn hiện
đang được thảo luận. Tháng 12 năm 2007, các bên tham gia Công ước khung về biến đổi
khí hậu của Liên hợp quốc đã thông qua Kế hoạch hành động Bali để thúc đẩy việc thực

hiện Công ước, theo đó các nước đang phát triển sẽ cân nhắc các hoạt động giảm nhẹ
thích hợp mang tính quốc gia trong ―bối cảnh phát triển bền vững có sự hỗ trợ và tạo khả
năng thực hiện của công nghệ, hoạt động cấp vốn và xây dựng năng lực.‖ Trong khi một
cấu trúc tài chính mới đang được xây dựng, thì việc quan trọng đối với WBG là giúp các
nước đang phát triển tận dụng được lợi thế tối đa của các công cụ hiện có như là GEF,
nhiều quỹ các bon liên quan đến Cơ chế phát triển sạch và cùng thực hiện, Quỹ hỗ trợ
trao đổi Các bon (Quỹ Đối tác Các bon) để có những thỏa thuận mua khí thải sau năm
2012, và các CIF. Quỹ lớn nhất thuộc quỹ chung CIF là Quỹ công nghệ sạch (CTF) cấp
vốn cho việc thực hiện, triển khai, và chuyển nhượng các công nghệ hàm lượng các bon
thấp có tiềm năng lớn về tiết kiệm GHG dài hạn và đáp ứng được các mục tiêu phát triển
đất nước. Một quỹ khác thuộc quỹ chung CIF là Chương trình Phát triển các Nguồn năng
lượng Tái sinh ở các nước đang phát triển (SREP), giai đoạn cuối cùng của chương trình
thiết kế.

14.

Tóm lại, môi trường bên ngoài đã thay đổi đáng kể, với những tác động có

ảnh hưởng sâu rộng cho ngành năng lượng. Trước tiên, thị trường năng lượng toàn cầu
đã không dự đoán cũng không được chuẩn bị cho tình hình gần đây nhất về giá nhiên liệu
thế giới cao và sự biến động giá phần lớn do sự co giãn nhanh giữa cung và cầu. Các dấu
hiệu đó là mô hình này dường như sẽ lại xảy ra trong thập kỷ tới. Thứ hai, biến đổi khí
hậu được xác nhận ngày càng tăng là một phần của chương trình phát triển, kết nối ngành
năng lượng và nhiều ngành khác và đòi hỏi tính chọn lọc lớn hơn trong sự lựa chọn đầu
tư và công nghệ. Thứ ba, giảm đầu tư vào năng lượng- ngành cần nhiều vốn nhất- do


khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ảnh hưởng đến sự tập trung vào việc đầu tư không
đủ làm giảm sự tăng trưởng kinh tế tương lai. Đầu tư tăng lên trong ngành này được xem
như là một cách để cung cấp cứu trợ ngắn hạn cho tình hình suy giảm kinh tế và để giải

quyết các nhu cầu phát triển dài hạn. Thách thức đó là đáp ứng các yêu cầu năng lượng
của một nền kinh tế hiện đại và tạo sự tiếp cận cho tất cả người dân ở mức giá có thể chi
trả được theo các phương thức bền vững.

Chiến lược ngành năng lượng của Ngân hàng thế giới và các kết quả thực hiện trong
những năm gần đây

15.

Chiến lược năng lượng WBG hiện nay bao gồm chiến lược môi trường năm

1999 cho ngành năng lượng, Nhiên liệu tương lai (WBG 1999, dưới đây là FFT), và


một chiến lược 2001 không chính thức có tiêu đề: ―Chương trình năng lượng của
Ngân hàng Thế giới: giảm nghèo, tính bền vững, và tính chọn lọc‖ (WBG 2001, dưới
đây gọi là chiến lược năng lượng 2001). Khung đầu tư năng lượng sạch và phát triển
(CEIF) được xây dựng năm 2006, đã đặt ra một lộ trình cho việc tăng sự tiếp cận và giảm
nhẹ việc thải GHG (WBG 2006). Gần đây hơn, WBG đã đính kèm 02 tài liệu mà sẽ có
một tác động đáng kể đối với các hoạt động tương lai của ngành năng lượng: ―Chương
trình Hành động vì Cơ sở hạ tầng Bền vững‖ (SIAP) và Phát triển và biến đổi khí hậu:
Khung chiến lược cho Ngân hàng Thế giới (DCCSF) (WBG 2008a và 2008b).

16.

FFT đã đưa ra sáu (06) mục tiêu chiến lược cho các lĩnh vực được quản lý theo

cả ngành năng lượng và môi trường của WBG. Ba mục tiêu trong số đó là về tính bền
vững môi trường của việc sản suất và sử dụng năng lượng, một (01) trong số đó là về
việc làm giảm ô nhiễm không khí trong nhà và sức ép lên đất và ngành lâm nghiệp, một

(01) về làm giảm ô nhiễm không khi đô thi do sự đốt cháy nhiên liệu, và mục tiêu cuối
cùng là về xây dựng năng lực cho việc quản lý môi trường. FFT đã đặt ra một số mục tiêu,
nhiều mục tiêu trong số đó là cụ thể cho các hoạt động của WBG, đã đạt được bắt đầu
trong năm tài chính 2008 (FY08) và muộn là vào năm 2015.

17.

FFT đã nêu rằng, mặc dù phạm vi và quy mô của nó tương đối nhỏ, nhưng WBG

đã đặt mục tiêu đi đầu xu thế hướng tới việc sử dụng năng lượng bền vững hơn. Chiến
lược này dựa trên đánh giá của WBG rằng cách tốt nhất để thúc đẩy tiến độ về các vấn đề
môi trường toàn cầu là để giúp các khách hàng của chúng tôi giải quyết được các vấn đề
ưu tiên quốc gia-đặc biệt là những vấn đề khi mà sự đóng góp cho việc giảm nghèo và
các mục tiêu phát triển khác là rõ ràng và tương đối ngay lập tức, và do đó có sự cam kết
địa phương mạnh mẽ đối với sự giảm nghèo. Chiến lược này cũng khẳng định lại sự hỗ
trợ tiếp tục của WBG cho các dự án với các lợi ích toàn cầu khi mà cần có thêm các chi
phí bổ sung được hỗ cấp đầy đủ từ các nguồn quốc tế như GEF.

18.

Một số mục tiêu cụ thể được nêu trong FFT đã đạt được; đáng chú ý là trong

số các lĩnh vực có tiến độ chậm hơn là lĩnh vực buôn bán năng lượng trong khu vực.
WBG đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại nhiên liệu, đặc biệt là ở Châu
Phi và Châu Mỹ La tinh và các vùng Ca-ri-bê, và dần dần loại trừ chì trong xăng trên
khắp thế giới. Các sáng kiến toàn cầu, hỗ trợ kỹ thuật, và các dự án cho vay đang giải
quyết việc đốt khí, thúc đẩy sự thăm dò và sản xuất hợp lý về mặt môi trường các nhiên


liệu hóa thạch, và sự phục hồi các cơ sở và các khu vực đã chị xuống cấp. Tiến độ trong

việc thực hiện các lợi ích của việc buôn bán năng lượng qua biên giới là chậm, thể hiện
những khó khăn của việc phối hợp các công ty cung cấp năng lượng và các chính phủ
trên khắp lãnh thổ quốc gia và cũng đang phản ánh các tác động của việc làm gia tăng sự
rút ra khỏi ngành năng lượng của WGB cho tới năm 2003 (phụ lục 5). Đối với việc giảm
nhẹ tác động có thể xảy ra của việc sử dụng năng lượng đối với biến đổi khí hậu, WBG
cũng đã tích cực tham gia với GEF tại thời điểm của FFT. Một năm sau đó, quỹ tài chính
các bon đầu tiên được thành lập, và số lượng quỹ và các cơ sở các bon đã tăng đến con số
12 với tổng danh mục đầu tư kinh doanh trị giá lên tới 2 tỷ Đô la Mỹ.

19.

Chiến lược năng lượng 2001 đã xác định bốn (04) nghiệp vụ hoạt động kinh

doanh – giảm nghèo trực tiếp, ổn định tài chính và vĩ mô, quản trị và phát triển khu


vực tư nhân, và tính bền vững môi trường- và đã đặt ra các mục tiêu 10 năm. Không
giống như FFT, tất cả các mục tiêu được đặt ra theo chiến lược năng lượng 2001 là các
mục tiêu toàn cầu ở mức độ cao, không cần thiết được kết nối trực tiếp với các hoạt động
của WBG. Các mục tiêu làm tăng sự tiếp cận điện, làm giảm cường độ thải khí CO2 và
giảm cường độ năng lượng đã đạt được. Dường như đạt được tiến độ tốt trong việc lập
nên bộ máy quản lý ngành. Tuy nhiên, không đạt được tiến độ nào trong việc giảm gánh
nặng ngân sách của ngành điện, tăng sự tham gia của khu vực tư nhân, và có hay hay
nhiều nhà cung cấp điện, khí tự nhiên, hoặc cả hai cho những người sử dụng thuộc ngành
công nghiệp để lựa chọn. Trong tất cả các trường hợp, có sự chênh lệnh lớn trong khu
vực (Phụ lục 6). Một bài học đang rút ra, thống nhất với các đánh giá do Nhóm đảm bảo
chất lượng (QAG) thực hiện (QAG, một đơn vị nội bộ được thành lập để thực hiện các
đánh giá chất lượng của những hoạt động được lựa chọn trong suốt quá trình chuẩn bị và
thực hiện) và Nhóm Đánh giá Độc lập (IEG) (IEG, một bộ phận độc lập báo cáo trực tiếp
cho Ban giám đốc điều hành của Ngân hàng Thế giới đánh giá sự liên quan và tác động

của hỗ trợ của WBG cho các nước khách hàng) đó là có thể còn vội vã để đưa ra các mục
tiêu cao như vậy cho việc cải cách ngành khi năng lực tổ chức cơ bản còn yếu.

20.

Mô hình cải cách ngành điện trong những năm 1990 bao gồm – tách ra,

thành lập một bộ phận quản lý độc lập, và để cho khu vực tư nhân sở hữu và hoạt
động chuỗi cung cấp, đã có được những kết quả tổng hợp. Có một sự xác nhận rộng
khắp về nhu cầu phát triển các phương pháp tiếp cận phù hợp với tình hình cụ thể của các
nước cá nhân. Một đánh giá IEG 2003 về kinh nghiệm của WBG với sự tham gia tư nhân
vào ngành năng lượng vào những năm 1990 thấy rằng các kết quả tốt có thể đạt được khi
có quyền sở hữu khách hàng và một cam kết chính trị được duy trì đối với sự phát triển
khu vực tư nhân. Các kết quả còn kém khi mà có nhiều mục tiêu và Ngân hàng Thế giới
đã đánh giá thấp tính phức tạp và thời gian cần thiết để kéo dài các hoạt động cải tổ. IFC
và MIGA đã phản ứng với nhu cầu thị trường đối với việc tạo năng lượng mới, đã tập
trung vào một mục tiêu tham gia của khu vực tư nhân, và đã đạt được các kết quả chung
tốt ở cấp dự án. Một đánh giá năm 2006 các bài học rút ra từ việc cải cách thị trường điện
ở các nước đang phát triển đã nhấn mạnh vào nhu cầu làm cho việc cải cách thị trường
điện thích nghi với các điều kiện ban đầu và đã thảo luận về các điều kiện khác nhau có
thể ảnh hưởng như thế nào đến việc thiết kế các chương trình cải cách điện (Besant-Jones
2006). Đầu tư tư nhân vào ngành điện ở các nước đang phát triển đã tăng một cách nhanh
chóng tới năm 1997 (chủ yếu chảy vào Đông Á và Châu Mỹ La tinh) nhưng sau đó lại


giảm mạnh cho tới khi có sự phục hồi lớn vào năm 2007; suy thoái toàn cầu hiện nay
khiến cho việc tiếp cận vốn của khu vực tư nhân trở lên khó khăn hơn.

21.


Vai trò của WBG trong các ngành công nghiệp khai khoáng đã thu hút được

sự chú ý trên toàn cầu. Từ năm 2001 đến 2003, WBG đã thực hiện một đánh giá toàn
diện về việc tham gia của mình vào ngành công nghiệp khai khoáng (EI) để trả lời những
câu hỏi về việc liệu xem sự tham gia đó có thống nhất với các mục tiêu phát triển bền
vững và giảm nghèo của WBG hay không. Dầu, khí, và khai mỏ cung cấp một nguồn thu
nhập đáng kể cho hàng chục nước giàu nguồn tài nguyên – nhiều nước trong số họ là
nước nghèo- thực hiện sự quản lý nguồn tài nguyên hiệu quả và phê duyệt các chính sách
cận nghèo quan trọng. Phản ứng của ban quản lý đối với Đánh giá ngành công nghiệp
khai khoáng đã được Ban giám đốc điều hành của WBG phê duyệt trong năm 2004, đã


khẳng định rằng WBG cần duy trì việc tham gia vào các ngành công nghiệp khai khoáng
và cam kết WBG có thể là lực chọn trong phương pháp tiếp cận của nó, với sự tập trung
lớn hơn vào những nhu cầu của người nghèo và các quyền của những người bị ảnh hưởng
bởi các đầu tư EI, nhấn mạnh hơn vào sự quản trị và tính minh bạch, và hỗ trợ lớn hơn
cho việc giảm nhẹ các rủi ro xã hội và môi trường (WBG 2004). Từ năm 2005, WBG đã
báo cáo hàng năm về tiến độ trong việc thực hiện của mình. Một số các khuyến nghị
chính của nó, chẳng hạn như liên quan đến hỗ trợ cộng đồng rộng lớn như là một yêu cầu
đối với sự tham gia của WBG vào các dự án EI, đã được tổng hợp trong các chính sách
của WBG. IFC đã làm việc với các nhà đầu tư trong dự án mà nó hỗ trợ để giúp đảm bảo
rằng các cộng đồng hưởng lợi từ các dự án, như thông qua việc hỗ trợ cho các chương
trình ―liên kết‖ giúp mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp địa phương vào các dự
án EI. IFC đã thành lập CommDev, một cơ sở nhằm mục đích hợp tác với các đối tác để
phát triển và giúp cho việc thực hiện các phương pháp tiếp cận thực hành tốt cho các
cộng đồng và các đầu tư EI. Trong chính sách của mình, Ngân hàng Thế giới đã đưa ra
phần lớn nhiều sự chú ý hơn vào sự quản trị EI, bao gồm hỗ trợ Sáng kiến Minh bạch
trong các ngành công nghiệp khai khoáng (EITI) – một sự liên kết giữa các chính phủ,
công ty, nhóm xã hội dân sự, các nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế đòi hỏi các công ty
dầu, khí, và khai mỏ ở thượng nguồn phải công khai những gì mà họ phải trả và các

chính phủ phải công khai những gì họ nhận – và gần đây hơn, đề cập đến các vấn đề
1

trong suốt chuỗi giá trị EI thuộc EITI++. Về vấn đề môi trường toàn cầu, thì Hiệp hội
cắt giảm tiêu dùng gas (GGFR) đã và đang hỗ trợ các nỗ lực quốc gia để sử dụng khí bắt
lửa hiện nay bằng việc giải quyết các hạn chế về việc sử dụng khí (phụ lục 7).

22.

Cho vay của WBG đối với ngành năng lượng đang phục hồi tác mạnh mẽ sau

một thập kỷ suy giảm. Cho vay của WBG đối với ngành năng lượng đã giảm xuống một
giá trị trung bình hàng năm là 2,4 tỷ Đô la Mỹ trong giai đoạn năm 2000-2004 từ 3,7 tỷ
Đô la Mỹ trong 05 năm trước (phụ lục 8). Mức cho vay bắt đầu tăng sau khi ban quản lý
Ngân hàng, theo yêu cầu của Ban giám đốc điều hành, đã đưa ra một Chương trình Hành
động vì Cơ sở hạ tầng năm 2003 để đem sự tham gia của WBG hoạt động trở lại và gấp
hơn ba (03) lần vào năm 2009, đạt 8,2 tỷ Đô la Mỹ.

23.

WBG đã nâng cao hơn nữa nỗ lực của mình trong việc mở rộng sự tiếp cận

và giải quyết biến đổi khí hậu trong những năm gần đây. Vào tháng 06 năm 2004,
Hội nghị quốc tế Bonn về Năng lượng có thể tái sinh, WBG đã đưa ra một cam kết để


tăng cường hiệu quả năng lượng và năng lượng có thể tái sinh mới (bao gồm năng lượng
từ mặt trời, gió, năng lượng sinh khối, và năng lượng địa nhiệt cũng như thủy điện từ các
cơ sở nhỏ hơn 10 Mw) 20% một năm với mức trung bình của các cam kết trong ba (03)
năm trước đây; WBG đã đạt được mục tiêu này với một mức lãi suất dễ chấp nhận được

trong ba (03) năm tiếp theo. Vào tháng 07 năm 2005, Ngân hàng Thế giới được yêu cầu
tại hội nghị thượng đỉnh hàng năm của Nhóm tám (08) quốc gia để tạo thuận lợi cho việc
hình thành một khung đầu tư đối với sự phát triển và năng lượng sạch và đóng góp vào
việc thúc đẩy một cuộc hội thoại toàn cầu xung quanh những vấn đề này. WBG đã xây

1

EITI tập trung vào các khoản thanh toán được trả cho các chính phủ cho hoạt động sản xuất dầu, khí, và

chất khoáng (hãy xem tại trang web www.eitransparency .org). EITI++ xem xét toàn bộ chuỗi cung ứng
từ việc cấp phép và các hợp đồng đến quy định và giám sát hoạt động, quản lý và phân bổ doanh thu, và
thực hiện các chính sách phát triển bền vững (Mayorga Alba 2009).


dựng một Khung đầu tư năng lượng sạch và phát triển (CEIF) năm 2006 để thúc đẩy đầu
tư khu vực nhà nước và tư nhân vào sự tiếp cận năng lượng, giảm nhẹ, và làm cho thích
nghi. Phần cho vay năng lượng của WBG dành cho các dự án hàm lượng các bon thấp
tăng từ 27% trong giai đoạn năm 2003-2005 lên tới 40% trong giai đoạn năm 2007-2009.
Mặc dù các nhà máy nhiệt điện đốt bằng than hiệu suất cao (than siêu tới hạn và cực siêu
tới hạn khi họ nâng cấp hiệu suất nhà máy liên quan đến kịch bản nền) được bao gồm
trong định nghĩa của các dự án hàm lượng các bon thấp, trong thực tế không có dự án
điện đốt bằng than nào cho công suất phát điện mới đã được tính đối với các dự án hàm
lượng các bon thấp cho tới nay. Từ giờ trở đi, loại của sẽ được loại bỏ khỏi định nghĩa
của các dự án hàm lượng các bon thấp. Mức độ cho vay đối với hiệu quả năng lượng và
năng lượng có thể tái sinh đạt 3,3 tỷ Đô la Mỹ năm 2009 (hình 1). Hình 2 chỉ ra một sự
phá vỡ ba (03) loại hoạt động của tổ chức WBG.

24.

Một bản đánh giá các các đánh giá dự án của IEG và QAG và các Chiến

2

lược hỗ trợ quốc gia chỉ rõ việc nâng cao kết quả thực hiện chung, nhưng có một số
loại trừ và sự thay đổi lớn thuộc khu vực. Một bản đánh giá các đánh giá IEG về các
dự án IDA và IBRD chỉ ra rằng phần đóng góp của dự án thích hợp về năng lượng và
khai mỏ kết thúc năm 1998 hoặc sau đó tăng đáng kể cho đến giữa những năm 2000
nhưng lại giảm trong thời kỳ 2006-2008. Năng lực tổ chức yếu là một nguyên nhân
chung của kết quả thực hiện kém, làm cho những nước có đủ điều kiện để nhận hỗ trợ từ
Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) với tỷ lệ không đồng đều cho các dự án không phù hợp.
Những đánh giá chất lượng đầu vào và chất lượng giám sát của QAG (trái ngược với các
dự án đã kết thúc) đã cho thấy có sự cải thiện qua thời gian. Một đánh giá các trường hợp
của Ủy ban giám sát tham gia vào các dự án năng lượng chỉ ra sự cần thiết phải tăng
cường tham vấn các cộng đồng bị tác động bởi các đầu tư năng lượng được đề xuất; thực
hiện việc kiểm tra cẩn thận hơn các lựa chọn kinh tế ở giai đoạn khái niệm dự án mà tính
đến cả các chi phí xã hội và lợi ích của những lựa chọn khác nhau; và tập trung hơn vào
việc thực hiện để đảm bảo tuân thủ các chính sách bảo bệ xã hội và môi trường chính của
Ngân hàng Thế giới, đặc biệt ở các nước có năng lực tổ chức yếu như những nước trong
khu vực Châu Phi (phụ lục 9). Một đánh giá các Chiến lược hỗ trợ quốc gia (CAS) chỉ ra
rằng trong năm 2006-2009, các vấn đề năng lượng và chính sách năng lượng đã được giải
quyết một nửa các CAS, và các mục tiêu chính sách năng lượng được đặt ra ở mức 40%.
Khoảng 70% CAS xác nhận sự liên kết giữa nghèo đói và sự cung cấp năng lượng thiếu
(phụ lục 8).


2

Ngân hàng Thế giới xây dựng một Chiến lược hỗ trợ quốc gia cho những người vay tích cực để đưa ra

một chương trình hỗ trợ của WBG có tính chọn lọc kết nối với chiến lược phát triển của đất nước và dựa
trên những lợi thế cạnh tranh của WBG trong bối cảnh các hoạt động của những nhà tài trợ khác. Chiến

lược hỗ trợ Quốc gia được xây dựng với sự tham vấn của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, các
tổ chức xã hội dân sự, các đối tác phát triển và những bên tham gia khác.


Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Lưu ý: Các nguồn khác bao gồm các bảo đảm của GEF, IDA và IBRD, cấp vốn tài chính cho
người nhận thực hiện, cấp vốn tài chính đặc biệt và cấp vốn tài chính các bon.

25.

IEG đã tiến hành đánh giá hoạt động của ngành năng lượng trong thập kỷ

qua.
Tất cả các báo cáo đánh giá này đã kêu gọi tăng cường hoạt động giám sát và đánh giá.
Cũng có nhiều báo cáo đánh giá về hoạt động năng lượng của các quốc gia. "Năng lượng
tái sinh mới: Đánh giá hoạt động hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới" năm 2006 đánh giá các
dự án năng lượng tái sinh mới của Ngân hàng Thế giới đối với bốn ngành nghề kinh
doanh trong chiến lược năng lượng năm 2001 (ngoại trừ ổn định vĩ mô và tài chính). Báo
cáo đánh giá cho thấy chương trình năng lượng tái sinh mới của Ngân hàng mới Thế giới
đã phát huy hiệu quả trong ba ngành nghề kinh doanh, và khuyến cáo rằng Ngân hàng tập
trung đặc biệt vào vai trò xúc tác để phát triển khu vực tư nhân, linh hoạt và sáng tạo
bằng cách áp dụng bài học kinh nghiệm để cải tiến quy trình thiết kế dự án, và phổ biến
rộng rãi hơn các biện pháp thực hiện hiệu quả.


26.

Năm 2008, IEG đã công bố hai báo cáo đánh giá. Báo cáo "Biến đổi khí hậu và

Ngân hàng Thế giới - Giai đoạn 1: Đánh giá Cải cách Chính sách Năng lượng dựa trên

nguyên tắc 50-50 của Ngân hàng Thế giới" về việc gỡ bỏ trợ giá năng lượng và phát huy
hiệu quả sử dụng năng lượng trực tiếp - cho thấy khối lượng và định hướng chính sách áp
dụng đối với hoạt động cho vay dựa vào hiệu quả của Ngân hàng thế giới rất khiêm tốn.


IEG khuyến nghị hợp tác chặt chẽ hơn để gỡ bỏ trợ giá năng lượng và nâng cao hiệu suất
sử dụng năng lượng trực tiếp, và cải thiện hoạt động thu thập dữ liệu để theo dõi, giám sát
và đánh giá. Báo cáo ―Tác động xã hội của việc Điện khí hóa nông thôn: Đánh giá lại Chi
phí và Lợi ích‖chỉ ra rằng, mặc dù không có nhiều bằng chứng chứng minh lợi ích của
việc điện khí hóa nông thôn và lợi ích cao hơn chi phí cung cấp dài hạn bình quân, điều
này cho thấy có thể đạt được các mức biểu phí thu hồi chi phí.

27.

Kế hoạch Hành động Cơ sở hạ tầng Bền vững năm 2008 giới thiệu sơ lược

các nguyên tắc tham gia vào ngành năng lượng của WBG trong những năm qua
được gọi là điểm mấu chốt ba nhân tố. Trong bối cảnh WBG theo đuổi tăng trưởng
kinh tế, bình đẳng và bền vững môi trường, SIAP nỗ lực nâng cao (1) năng lực kinh tế và
tài chính trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; (2) quá trình xã hội hóa để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cơ sở hạ tầng
cho người nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xã, phụ nữ và các nhóm đối tượng thiệt
thòi khác; và (3) môi trường trong nước và quốc tế bền vững. Dựa trên SIAP và là một
phần trong hoạt động đối phó khủng hoảng tài chính của WBG, Chương trình Khôi phục
Cơ sở hạ tầng và Tài sản (INFRA) được xây dựng vào đầu năm 2009 để duy trì các
chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng dài hạn. INFRA sẽ cung cấp nguồn vốn đầu tư vào cơ
sở hạ tầng phản chu kỳ trong vòng ba năm và bảo vệ các tài sản hiện hữu và dự án ưu tiên.
Một nhân tố quan trọng của INFRA là Sáng kiến Năng lượng cho Người nghèo với
mục đích nâng cao khả năng tiếp cận năng lượng cho người nghèo, giúp người nghèo có
thể đối phó với các cú sốc giá năng lượng tăng cao và giảm mức độ tác động của giá năng

lượng đối với người nghèo. Ngoài ra, tính đến thời điểm này, Quỹ Khủng hoảng Cơ sở hạ
tầng của IFC đã huy động được 1,6 tỷ Euro để cùng tham gia vào hoạt động cấp vốn.

28.

Trong năm 2008, WBG đã thông qua DCCSF sau khi tiến hành tham vấn nội

bộ và các bên khác, trong đó cam kết ngành năng lượng sẽ tăng cường nguồn vốn đầu tư
vào các nguồn năng lượng tái sinh mới và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trung
tăng 30%/năm, và thị phần của các dự án có tỷ lệ các bon thấp dự kiến đạt 50% vào Năm
tài khóa 2011. Các nỗ lực này sẽ được tăng cường thông qua lĩnh vực tài chính các bon
và Quỹ Công nghệ sạch – Ai Cập, Mê-hi-cô và Thổ Nhĩ Kỳ mới đây đã yêu cầu
Quỹ này hỗ trợ các dự án đầu tư có tỷ lệ các bon thấp trên mọi lĩnh vực – và SREP. Nếu
các công cụ cấp vốn mới như Quỹ Đối tác Các bon tăng trưởng nhanh, vai trò của WBG
trong hoạt động tài trợ các chương trình năng lượng bền vững sẽ tăng theo tỷ lệ thuận.


Mục tiêu và Phương pháp
29.

Chiến lược năng lượng đề xuất sẽ hoạt động hướng đến việc hỗ trợ các nước

đang phát triển đạt được cùng lúc hai mục tiêu:



Nâng cao khả năng tiếp cận và mức độ ổn định nguồn cung năng lượng;




Tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi sang con đường phát triển năng
lượng bền vững hơn xét về khía cạnh môi trường.

Hai mục tiêu này được xây dựng dựa trên các nội dung chủ đạo của FFT và chiến lược
năm 2001 (xem phụ lục 10). Vẫn chưa có kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu tăng


×