Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.13 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng
vốn nhất định tùy thuộc vào quy mô, lĩnh vực mà doanh nghiệp đó hoạt động. Lượng
vốn này bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và các nguồn vốn chuyên dụng khác.
Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả
nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc quản lý tài chính và chấp hành pháp luật của
Nhà nước.
Có thể nói rằng vốn là yếu tố quan trọng và quyết định tới sự tồn tại của doanh nghiệp
do đó vấn đề “Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” là một vấn
đề cần được quan tâm.

NỘI DUNG
I. Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn trong công ty
cổ phần.
1. Khái quát về công ty cổ phần (CTCP).
Với tính chất như một hiện tượng kinh tế-xã hội, công ty cổ phần nói riêng cũng như
các loại hình công ty nói riêng đã trở thành một thực thể pháp lý. Trong khoa học
pháp lý, hệ thống pháp lý của các quốc gia khác nhau lại có các định nghĩa khác nhau
về CTCP. Pháp luật hiện hành của Việt nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về CTCP
mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết nó. Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp
2005 quy định: “Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: a) Vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này”.
2. Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần.
Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng


trong kinh doanh. Có thể nói vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu của tất cả các
doanh nghiệp. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành các hoạt động kinh
doanh, CTCP phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của
công ty cổ phần là vấn đề hết sức phức tạp. Vốn của CTCP có thể được tiếp cận dưới
nhiều góc độ, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành
vốn, vốn của CTCP được chia thành: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng
(vốn vay).
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn
đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
1


Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau:
vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc bằng cách phát hành trái
phiếu.
Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có một tỉ lệ vốn vay trên vốn cổ phần hợp lý
để phản ánh thế mạnh tài chính của công ty, vừa tạo niềm tin cho các đối tác của
mình.
II. Huy động vốn trong công ty cổ phần.
Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh. Công ty thường có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và
tăng vốn vay.
Theo Luật doanh nghiệp (LDN) 2005: Doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh
“không được quyền phát hành bất kì loại chứng khoán nào” (khoản 3 Điều 130 và
khoản 2 Điều 141). Khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều
thuận lợi hơn nhưng cũng “không được phát hành cổ phần” (khoản 3 Điều 38). Công
ty cổ phần khẳng định sự lý tưởng hơn trong mô hình kinh doanh của mình bằng
quyền phát hành chứng khoán được quy định trong khoản 3 Điều 77 Luật doanh
nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn”. Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là công cụ riêng của công ty cổ

phần, nó đem đến ưu thế rất lớn cho công ty cổ phần nhờ khả năng thu hút vốn dễ
dàng: có thể huy động được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng huy động; có
thể giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư;...
Cấu trúc vốn của công ty cổ phần rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của
người đầu tư. Phần vốn của cổ đông có thể tự do chuyển nhượng thông qua việc
chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ một số trường hợp do pháp luật quy định) mà biểu
hiện hình thức là chuyển nhượng cổ phiếu. Tính chuyển nhượng cổ phiếu mang lại
cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà lại không phá vỡ tính ổn
định của tài sản công ty. Việc chuyển vốn dưới hình thức này rất dễ dàng và thuận lợi
thông qua thị trường chứng khoán.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyển nhượng
đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư.
Những đặc điểm cơ bản đó đã góp phần đưa công ty cổ phần trở thành một hình thức
tổ chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn ngầm chảy trong các
tầng lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô khổng lồ, có thể coi là
lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.
III. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần.
1. Phát hành cổ phiếu (Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có):
Khái niệm.
Trong quá trình hoạt động, CTCP có thể phát hành thêm cổ phiếu mà thực chất là việc
chào bán thêm cổ phần cho nhà đầu tư để làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu đáp ứng
yêu cầu về vốn cho công ty. Đây là một trong những đặc trưng riêng có của CTCP
trong huy động vốn từ công chúng. Ngoài ra đây cũng là một kênh huy động vốn khá
ổn định vì khi huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, công ty không bị ràng buộc bởi
2


trách nhiệm hoàn trả các cổ đông nguồn vốn mà họ góp như khi phát hành trái phiếu
doanh nghiệp.
 Cổ phiếu:

Cổ phiếu là một loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành chứng nhận việc góp
vốn vào công ty của các cổ đông. Cổ phiếu chính là bằng chứng chứng minh quyền sở
hữu cổ phần của cổ đông công ty.
Khoản 1 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005 quy định:
“Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác
nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên
hoặc không ghi tên”
 Phát hành cổ phiếu.
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần cho người đầu tư
nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm
bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều
lệ của công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có
trong công ty hay có thể dẫn đến thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy, việc quyết
định loại cổ phần, tổng số cổ phần của từng loại được chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ
đông quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào
bán cổ phần trong số cổ phần được quyền chào bán.
Về giá chào bán cổ phần, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rất chặt chẽ, đảm bảo
quyền lợi cho đa số cổ đông. Ngoài quy định về “giá không được thấp hơn giá thị
trương tại thời điểm chào bán” như tại luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp
2005 còn bổ sung “hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần
nhất” và ngoại trừ các trường hợp sau:
- Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ
đông sáng lập;
- Cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có của
họ ở công ty;
- Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong
trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỉ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của
số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết;
Điều lệ công ty có thể quy định thêm các trường hợp khác và mức chiết khấu trong

các trường hợp đó.
Giá thị trường của cổ phần là giá giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc giá do
một tổ chức định giá chuyên nghiệp xác định. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, đa số
công chúng đều chưa hiểu hết về việc bán đấu giá qua thị trường chứng khoán. Do đó,
để thu hút đầu tư, các công ty cổ phần đã kinh doanh hiệu quả và ổn định nên áp dụng
phương pháp bán theo giá cố định. Giá cố định là giá bình quân gia quyền được xác
định từ kết quả bán đấu giá. Bán theo giá này vẫn đảm bảo được nguyên tắc bán cổ
phần theo giá thị trường và không hề có ưu đãi cho các nhà đầu tư.
3


Người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm cổ phần được thanh
toán đủ và những thông tin về người mua được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng kí cổ
đông. Sau khi cổ phần được bán, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người
mua. Pháp luật ràng buộc trách nhiệm của những người quản lí công ty khi có sai sót
trong nội dung và hình thức cổ phiếu nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của người sở hữu cổ
phiếu đó: “Trường hợp có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty
phát hành thì quyền và lợi ích của người sở hữu nó không bị ảnh hưởng. Chủ tịch hội
đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty phải liên đới chịu trách
nhiệm về thiệt hại do những sai sót gây ra đối với công ty” (khoản 2 Điều 85 Luật
doanh nghiệp 2005). Công ty có thể bán cổ phần mà không trao cổ phiếu. Trường hợp
này các thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng kí cổ đông là đủ để chứng thực
quyền sở hữu cổ phần của cổ đông.
“Cổ phần, trái phiếu của công ty cổ phần có thể được mua bằng tiền Việt nam, ngoại
tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty và phải được
thanh toán đủ một lần” (Theo điều 89 Luật doanh nghiệp 2005).
 Quy định của pháp luật về phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. Có thể chia thành các trường hợp: phát
hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành cổ phiếu trong

quá trình hoạt động của công ty.
- Phát hành cổ phiếu lần đầu tiên khi thành lập công ty:
Khi thành lập, công ty cổ phần phải huy động vốn góp của các cổ đông. Pháp luật quy
định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần
phổ thông được quyền chào bán. Trong trường hợp các cổ đông sáng lập không đăng
kí mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được chào và
bán hết trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận kinh
doanh. Vì vậy, tối thiểu các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ 20% số cổ
phiếu dự tính phát hành, số cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn
điều lệ. Các cổ đông sáng lập phải thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần,
loại cổ phần dự kiến chào bán.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ trách nhiệm của các cổ đông sáng lập về tính
chính xác, trung thực đối với giá trị tài sản góp vốn được giới hạn trong phạm vi các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được
định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn kết thúc định giá. Những người cam kết
mua cổ phần còn phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào
công ty theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật doanh nghiệp 2005:
a)
Đối với tài sản có đăng kí hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp
vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho
công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;
b)
Đối với tài sản không đăng kí quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực
hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
4


Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa
chỉ thường trú, số giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp

pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng kí của người góp vốn; loại tài sản và
số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản
đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ kí của người góp vốn hoặc đại
diện theo ủy quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty;
c)
Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp
pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty”.
- Phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty:
Trong quá trình hoạt động, cổ phiếu cũng trở thành một trong những phương tiện để
huy động vốn rất hiệu quả. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm tăng độ tín nhiệm
cho công ty. Cổ phần là lớp nệm bảo vệ cho các chủ nợ, nhờ vậy khả năng vay nợ
được mở rộng. Hơn nữa, vốn chủ sở hữu tăng tạo ra một lá chắn chống lại sự phá sản
của công ty. Thực chất việc phát hành cổ phiếu trong trường hợp này là việc công ty
chào bán cổ phần để huy động vốn.
Theo pháp luật Việt nam, phát hành cổ phiếu có thể thực hiện bằng hai phương thức:
- Chào bán cổ phần riêng lẻ: Là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực
tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối
tượng sau:
a. Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
b. Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp (Điều 4
Nghị định số 01/2010 NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ)
như vậy việc chào bán cổ phần riêng lẻ chỉ hướng tới một số người nhất định với số
lượng hạn chế như các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hay dưới 100 nhà đầu
tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Trong đó nhà đầu tư chứng
khoán là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức
kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán (khoản 11 Điều 6 LCK 2006).
Tuy nhiên cách hiểu về chào bán chứng khoán riêng lẻ theo nghị định 01/2010 cũng
chưa thật chính xác. Do đó LCK đã có quy định như sau: “Chào bán chứng khoán
riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể là

nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại
chúng hoặc Iternet” (khoản 12a Điều 1).
Việc chào bán chứng khoán riêng lẻ phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 8 của Nghị
định số 01/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều điều kiện như hạn chế
chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 1 năm, các đợt chào bán phải cách nhau
ít nhất 6 tháng... đã tỏ ra không hợp lý, gây ảnh hưởng tới hoạt độngchào bán riêng lẻ
của các công ty.
- Chào bán cổ phần ra công chúng: Căn cứ vào định nghĩa về chào bán chứng khoán
ra công chúng (khoản 12 Điều 6 LCK 2006) thì chào bán cổ phần ra công chúng là
việc chào bán cổ phần theo một trong các phương thức sau đây:
a. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet.
5


b. Chào bán cổ phần cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp.
c. Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
Như vậy các nhà làm luật Việt Nam chú trọng tới cách thức (qua phương tiện thông
tin đại chúng) và số lượng nhà đầu tư tham dự vào mỗi cuộc chào bán và coi đó là tiêu
chí chủ yếu để phân biệt chào bán cổ phần ra công chúng với chào bán cổ phần riêng
lẻ.
Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng là việc tạo hàng hóa để giao dịch trên sở giao
dịch chứng khoán (thị trường tập trung). Phát hành cổ phiếu ra công chúng được chia
làm hai trường hợp: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng là việc phát hành trong
đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán cho công chúng đầu tư. Phát hành thêm
cổ phiếu là việc phát hành cổ phiếu bổ sung cho công chúng đầu tư.
Công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đáp ứng các yêu cầu về
vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ quản lí, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi
của dự án sản xuất trong tương lai được quy định rõ trong khoản 1 Điều 12 Luật
chứng khoán 2006:

“Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:
a)
Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng kí chào bán
từ mười tỷ đồng Việt nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b)
Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng kí chào bán phải có
lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán;
c)
Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua”
Việc quy định như trên nhằm đảm bảo chất lượng và số lượng cổ phiếu phát hành của
công ty cổ phần để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu công ty cổ phần
có số vốn điều lệ quá nhỏ, làm ăn không có lãi thì không tạo niềm tin cho người đầu
tư và cổ phiếu của công ty niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ không có
tính thanh khoản cao.
Sau khi công ty cổ phần đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi Ủy ban
chứng khoán nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Khoản 1 Điều 13 Luật
chứng khoán 2006 quy định:
“Hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng gồm có:
a) Giấy đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng;
b) Bản cáo bạch;
c) Điều lệ của tổ chức phát hành;
d) Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và
phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng;
đ) Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có)”.
Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trong thời hạn 30 ngày, Ủy ban chứng khoán (UBCK)
Nhà nước xem xét và cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng.
Trường hợp từ chối, Ủy ban chứng khoán Nhà nước phải trả lời bằng văn bản và nêu
rõ lý do (khoản 1 Điều 20 Luật chứng khoán 2006).
6



Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công
chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố Bản thông báo phát hành trên một
tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp (khoản 3 Điều 20 Luật chứng khoán
2006).
Sau khi nhận được giấy phép phát hành cổ phiếu và công bố, công ty cổ phần tiến
hành phân phối cổ phiếu, được quy định trong Điều 21 Luật chứng khoán 2006:
“1.Việc phân phối chứng khoán chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo
đảm người mua chứng khoán tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng kí chào bán
chứng khoán ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo
phát hành.
2.Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân phối
chứng khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng kí mua chứng khoán
cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày; thời hạn này phải được ghi trong Bản thông báo
phát hành.
Trong trường hợp số lượng chứng khoán đăng kí mua vượt quá số lượng chứng khoán
được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải
phân phối hết số chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ
lệ đăng kí mua của từng nhà đầu tư.
3.Tiền mua chứng khoán phải được chuyển vào tài khoản phong tỏa mở tại ngân
hàng cho đến khi hoàn tất đợt chào bán và báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
4.Tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực.
Trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán ra
công chúng trong thời hạn này, Ủy ban chứng khoán nhà nước xem xét gia hạn việc
phân phối chứng khoán nhưng tối đa không quá 30 ngày. Trường hợp đăng kí chào
bán chứng khoán cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào
bán trước không quá 12 tháng.
5.Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào

bán cho Ủy ban chứng khoán nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc
đợt chào bán kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong tỏa về
số tiền thu được trong đợt chào bán.
6.Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển
giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua
trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán”.
Trước khi hoàn thành việc phân phối cổ phiếu ra công chúng trong những trường hợp
cụ thể công ty phát hành có thể bị đình chỉ đợt phát hành (Điều 22 Luật chứng khoán).
Trong trường hợp đó, người đầu tư có quyền hủy bỏ việc mua cổ phiếu hoặc trả lại cổ
phiếu đã mua và công ty phát hành và các tổ chức liên quan phải hoàn trả tiền cho các
nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Ngoài ra, công ty phát hành bị thu hồi giấy phép phát hành trong những trường hợp
sau:
- Tổ chức phát hành tự nguyện xin rút giấy phép phát hành.
7


- Tổ chức phát hành không khắc phục được những trường hợp bị đình chỉ giấy phép
phát hành.
- Tổ chức phát hành vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về chứng khoán và thị
trường chứng khoán gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà đầu tư.
- Khi có kiến nghị thu hồi giấy phép phát hành của cơ quan pháp luật.
Trường hợp giấy phép phát hành bị thu hồi, người đầu tư có quyền hủy bỏ việc đăng
kí mua cổ phiếu hoặc trả lại cổ phiếu đã mua.
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng.
a. Phát hành trái phiếu
 Trái phiếu:
Theo khoản 3 Điều 6 LCK 2006: “Trái phiếu là loại chứng
khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ
của tổ chức phát hành”.

Theo khoản 3 Điều 77 LDN 2005, CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để
huy động vốn. Cùng với số cổ phiếu là công cụ huy động vốn chủ sở hữu, CTCP có
thể sử dụng trái phiếu để vay vốn trung hạn và dài hạn, đáp ứng cho nhu cầu về vốn
kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông.
Như vậy, khác với cổ phiếu (là chứng từ xác nhận cổ phần trong công ty), trái phiếu
chỉ xác nhận quyền của người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định
trong trái phiếu. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu với công ty là quan hệ giữa chủ
nợ với con nợ. Với tư cách là một loại chứng chỉ xác nhận lợi ích tài sản, trái phiếu là
phần thứ hai trong cơ cấu vốn của công ty có liên quan đến việc hình thành thị trường
chứng khoán.
Theo quy định của pháp luật “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển
đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”
(khoản 1 Điều 88 LDN 2005).
 Phát hành trái phiếu:
Là cách thức vay vốn, theo đó người vay phát hành một chứng chỉ thường là với một
mức lãi suất xác định, đảm bảo thanh toán vào một thời hạn xác định trong tương lai.
Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, nhận được một mức lãi suất cố
định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn. Phát hành trái phiếu là một trong những
cách thức vay vốn quan trọng của CTCP. Kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm
tăng vốn vay của công ty. Phương thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
là phương thức ưu việt dành cho những CTCP có dự án kinh doanh dài hạn với một
mức lãi suất thích hợp thấp hơn lãi suất công ty phải đi vay ngân hàng nhưng cao hơn
lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thu hút các nhà đầu tư. Điều này vừa có lợi cho công ty
phát hành cũng như các nhà đầu tư do bỏ qua chi phí trung gian.
 Quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu:
CTCP có thể phát hành trái phiếu theo hai phương thức là phát hành riêng lẻ và rộng
rãi. Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng đối với CTCP được quy định cụ thể
8



trong khoản 2 Điều 12 LCK 2006: “2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
bao gồm:
a. Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm điều kiện chào
bán từ 10 tỷ đồng Việt nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
b. Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng kí chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán, không có các
khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm.
c. Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được
từ đợt chào bán được HĐ quản trị và HĐ thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông
qua.
d. Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu
tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và các điều kiện khác”.
Sau khi CTCP đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi UB chứng khoán
nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Khoản 2 Điều 13 LCK 2006 quy định:
“Hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng gồm có:
a. Giấy đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng.
b. Bản cáo bạch.
c. Điều lệ của tổ chức phát hành.
d. Quyết định của HĐ quản trị hoặc HĐ thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông
qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào
bán trái phiếu ra công chúng.
đ. Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện
phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các
điều kiện khác.
e. Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có)”.
Trường hợp CTCP phát hành trái phiếu có đảm bảo thì phải nêu rõ tỷ lệ đảm bảo và
liệt kê chi tiết tài sản đảm bảo trong hồ sơ xin phép phát hành và có tài liệu hợp lệ
chứng minh những tài sản bảo đảm này thuộc quyền sở hữu của mình hoặc của người
thứ ba (trong trường hợp bảo lãnh) và có đủ giá trị thanh toán trái phiếu.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, UB chứng khoán phải cấp giấy
phép phát hành cho công ty, trường hợp không cấp phải giải thích lí do bằng văn bản.
Việc phân phối, tiêu thụ cũng như đình chỉ phát hành trái phiếu được quy định như
đối với cổ phiếu.
b. Tín dụng ngân hàng.
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn
phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng áp dụng trên thực tế.
Thông qua hình thức này, CTCP có thể có được các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được
các điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng
vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp
9


hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối
với ngân hàng trừ trường hợp công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản. Công ty vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng
mục đích đã thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng.
Có hai hình thức cho vay vốn là vay có bảo đảm và vay không có bảo đảm.
+) Cho vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ
trả nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài
sản hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài
sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản
của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng.
Việc đề ra những biện pháp bảo đảm bằng tài sản là biện pháp hữu hiệu để ngân hàng
dễ dàng thu hồi vốn cho vay đồng thời khuyến khích CTCP hoạt động có hiệu quả.
Theo khoản 1 Điều 3 nghị định 178/1999/NĐ-CP thì:
“Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản:

a) Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
b) Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
c) Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay”.
Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP (bên vay vốn) dùng tài sản là bất
động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với
ngân hàng. Bất động sản ở đây có thể là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất,
các cơ sở sản xuất kinh doanh, khách sạn, cửa hàng,... Tài sản dùng để thế chấp là
những tài sản có giá trị lớn và khó chuyển dịch được. Chính vì đặc điểm này mà ngân
hàng thường quản lý tài sản thế chấp thông qua giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu
hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP có nghĩa vụ giao tài sản là động sản
thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản
cầm cố ở đây là động sản như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị dùng cho sản
xuất kinh doanh, vật tư hàng hóa,... Khi cầm cố tài sản công ty có nghĩa vụ giao tài
sản cho ngân hàng, nếu tài sản có đăng kí quyền sở hữu thì giữa ngân hàng và công ty
có thể thỏa thuận tài sản do công ty giữ hoặc giao cho bên thứ ba giữ, ngân hàng sẽ
quản lý gián tiếp tài sản đó thông qua bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
sản.
Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba (pháp nhân hoặc cá nhân) sẽ thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho CTCP (bên vay vốn) nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty
không trả được toàn bộ số nợ hay một phần nợ vay cho ngân hàng. Bên bảo lãnh chỉ
được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Ngân hàng và bên bảo lãnh có thể
thỏa thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải
lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước
hoặc chứng thực của UB nhân dân cấp có thẩm quyền. Việc kiểm tra tính hợp pháp và
10



điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực hiện.Theo quy định của
pháp luật việc xác định tài sản đảm bảo tiền vay được thực hiện theo Điều 8 Nghị
định 178/1999/NĐ-CP.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc CTCP dùng tài sản hình
thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối
với ngân hàng. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của công ty cổ phần mà giá trị
tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng.
Điều kiện về chủ thể và tài sản để vay vốn được quy định cụ thể tại Điều 15 Nghị
định 178/1999/NĐ-CP:
“Điều kiện đối với khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay
Khi tổ chức tín dụng cho khách hàng vay theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Nghị
định này, thì khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay phải có đủ các điều
kiện sau đây:
1. Đối với khách hàng vay:
a) Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng.
b) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
c) Có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi có khả năng
hoàn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy
định của pháp luật.
d) Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng
các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án.
2. Đối với tài sản
a) Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác
định được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng, giá trị, số lượng và được
phép giao dịch. Nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng
nhận quyền SDĐ đối với khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và hoàn thành
các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật.
b) Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm thì khách
hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được
hình thành đưa vào sử dụng”.

+) Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
CTCP cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất khi đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại Điều 20 Nghị định 178/1999/NĐCP:
“1. Khách hàng vay phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay
với trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
b) Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả
thi, có khả năng hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp
với quy định của pháp luật.
c) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
11


d) Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ
chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam
kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản
quy định tại điểm này.
2.Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện quy định
tại khoản 1 điều này cón phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm
liền kề với thời điểm xem xét cho vay”.
c. Tín dụng thuê mua.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận vốn vay
ngân hàng, Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ vốn
trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại
Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 với tên gọi là
hoạt động thuê mua tài chính. Tuy nhiên phải đến khi Thống đốc ngân hàng Nhà nước
ban hành Quyết định 149/QĐ-NH5 ngày 27/05/1995, sau đó là Nghị định 64/CP của
Chính phủ ngày 9/10/1995 và Thông tư 03/TT-NH5 của Ngân hàng Nhà nước ngày

09/02/1996 thì hoạt động này mới được sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật. Sau khi
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) được ban
hành, hoạt động cho thuê tài chính ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ
thống (tại Điều 20. Điều 61 đến Điều 63). Các văn bản dưới luật lần lượt ra đời để cụ
thể hóa Luật các tổ chức tín dụng, trong đó đáng chú ý nhất là Nghị định
16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐCP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt
Nam.
Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một
dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng quyền sử dụng tài
sản trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện khách hàng phải trả tiền thuê.
Tuy nhiên không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào của tổ chức tín dụng cũng
được coi là cho thuê tài chính (Quyết định 731/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà
nước ngày 15/06/2004, Xét về mặt bản chất, giao dịch cho thuê tài chính có những
đặc điểm sau đây:
- Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.
Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển giao
một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến
hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ
thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác) để bên
thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê theo
thỏa thuận.
- Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu
(bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức thuê tài sản
thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động cho thuê tài chính,
bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với tài sản cho thuê
12


(quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi
phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển

giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê.
Cụ thể hóa những đặc trưng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định của pháp luật
hiện hành ghi nhận giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong những dấu hiệu quy
định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, được sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu
tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên;
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài
sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua
lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản thuê;
- Tổng số tiền thuê tài sản theo thỏa thuận ít nhất phải tương đương với giá trị của tài
sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
IV. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật về huy động vốn trong công ty
cổ phần.
1. Về vốn chủ sở hữu.
Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chư sở hữu đã có nhiều điểm tiến
bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên cạnh đó vẫn
còn những hạn chế không tránh khỏi.
Theo khoản 1 Điều 85 LDN 2005 quy định một trong những nội dung chủ yếu mà cổ
phiếu phải có là “mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ
phiếu”, nghĩa là cổ phiếu bắt buộc phải có mệnh giá. Có thể hiểu mệnh giá là cách
thức góp vốn, cũng là cơ sở cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ và chỉ có ý nghĩa khi
CTCP phát hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi được bán trên thị trường có thể có
một giá cao hơn hay thấp hơn mệnh giá, vậy là có sự tách bạch giữa mệnh giá và giá
thị trường nhưng tính chất bình đửng của việc góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữa
những người mua với nhau không có gì khác biệt (họ đều phải trả số tiền như nhau để
được sở hữu cổ phiếu). Vì vậy, việc định giá cho cổ phiếu có lẽ là không cần thiết.

Ngoài ra, ta cũng có thể đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi để tạo sự hấp dẫn với
người đầu tư như ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự Việt Nam, đặc
biệt là các nước trong khu vực ASEAN đã áp dụng cổ phần ưu đãi dồn lãi, cổ phần ưu
đãi dự phần được chia cổ tức, cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu đãi có thể chuyển
đổi, cổ phần ưu đãi phức hợp, cổ phần ưu đãi hàng đầu, cổ phần ưu đãi để trống.
2. Về vốn tín dụng
a. Trái phiếu:
Cũng giống như cổ phiếu, các loại trái phiếu có lẽ vẫn chưa thực sự thu hút các nhà
đầu tư. Để tạo thêm hàng cho thị trường trái phiếu – một thị trường mà các doanh
nghiệp Việt nam còn bỏ ngỏ, pháp luật nên có những quy định về quyền phát hành
13


“các loại trái phiếu khác” giải thích rõ hơn khoản 1 Điều 88 LDN 2005. Có thể đưa ra
một số loại trái phiếu khác như: trái phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo thu
nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu có quyền bán trước khi đáo hạn.
Trong quy định về phát hành trái phiếu của LDN 2005 tại điểm b khoản 2 Điều 88
“Việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn không
bị hạn chế bởi các quy định tại Điểm a và Điểm b khoản này” nhưng hiện nay chưa có
khái niệm chính thức về tổ chức tài chính. Văn bản hướng dẫn cần có những quy định
và giải thích rõ hơn.
b. Tín dụng ngân hàng
Đây là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và được không chỉ CTCP mà các
doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại những hạn chế
không tránh khỏi như hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo, thủ tục cho vay
phức tạp,... Hơn nữa khi doanh nghiệp vay vốn thì khoản vay thường lớn nên lãi suất
cao, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời hạn trả. Mặt
khác nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ ngắn hạn nên doanh
nghiệp chỉ được vay 12 tháng. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp
khi đi vay vốn ngân hàng.

c. Tín dụng thuê mua
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên
thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh tuy nhiên thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp
Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì
doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế,
hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu; giá cho thuê
(gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm,...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua
các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp
đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê
cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Như vậy, nếu tính ra lãi suất
thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng bởi vì lãi suất thuê tài chính
còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê
phải bỏ ra.
Một nguyên nhân rất đáng được quan tâm là hành lang pháp lý về cho thuê tài chính
chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở
hữu, tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề cần quan
tâm.

14


KẾT LUẬN
Công ty cổ phần là loại hình công ty chiếm ưu thế ở những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Ưu điểm nổi bật của CTCP là khả năng công khai huy động vốn,
tạo lập nguồn vốn khổng lồ vào đầu tư, kinh doanh và sự mềm dẻo trong việc sử dụng
vốn phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty. Nhận thức và vận dụng linh hoạt
những ưu thế đó sẽ phát huy được hết khả năng vốn có của mô hình kinh doanh này,
phục vụ cho yêu cầu phát triển của đất nước.
Những quy định mới trong LDN 2005 về CTCP, đặc biệt là những quy định về cơ chế
góp vốn và huy động vốn của nó đã tỏ ra thông thoáng, mềm dẻo hơn, tạo hành lang

pháp lý an toàn cho sự ra đời và hoạt động của CTCP. Sự ra đời và ngày càng phát
triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã tạo điều kiện cho CTCP huy động
vốn có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về vốn để hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy ban hành pháp luật đã là cả một quá trình rất phức tạp
nhưng triển khai thi hành lại còn khó khăn hơn rất nhiều. Để những quy định về huy
động vốn của CTCP đi vào thực tế cuộc sống và phst huy có hiệu quả đòi hỏi sự hỗ
trợ về rất nhiều mặt cũng như những hướng dẫn cụ thể từ phía Nhà nước.

15


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn trong công ty
cổ phần.
1. Khái quát về công ty cổ phần (CTCP).
2. Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần.
II. Huy động vốn trong công ty cổ phần.
III. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần.
1. Phát hành cổ phiếu (Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có):
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng.
a. Phát hành trái phiếu
b. Tín dụng ngân hàng
c. Tín dụng thuê mua
IV. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật về huy động vốn trong công ty
cổ phần.
1. Về vốn chủ sở hữu
2. Về vốn tín dụng
a. Trái phiếu

b. Tín dụng ngân hàng
c. Tín dụng thuê mua
KẾT LUẬN

16


DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, Tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2006.
2. Luật Doanh nghiệp 2005.
3. Luật chứng khoán 2006.
4. Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 sửa đổi, bổ sung nghị định
16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính
5. Pháp luật Việt nam về vốn trong công ty cổ phần, Hồ Thị Nga – khóa luận
tốt nghiệp, Hà Nội, 2011.
6. Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
7. Nghị định số 01/2010 NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ.
8. Internet.

17



×