Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Pháp luật về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ XUÂN ANH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNH VI VI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ XUÂN ANH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNH VI VI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận
văn này.
Tác giả luận văn

Trần Thị Xuân Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ CÁC HÀNH VI VI
PHẠM TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU .................................................... 10
1.1. Khái quát chung về đấu thầu ............................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm đấu thầu ................................................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu ............................................................................ 12
1.1.3. Vai trò của đấu thầu ................................................................................ 15
1.1.4. Các trường hợp phải đấu thầu bắt buộc ………………………….19
1.2. Khái quát về các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu .................... 21
1.2.1. Khái niệm hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu ........................ 21
1.2.2. Đặc điểm hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu ......................... 22

1.2.3. Phân loại hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu ......................... 24
1.3. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu theo pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới ....................................................................................... 27
1.3.1. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu theo quy định pháp
luật Đức ................................................................................................................... 27
1.3.2. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu theo quy định pháp
luật Trung Quốc .................................................................................................... 29
1.3.3. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu theo quy định pháp
luật Philippines ..................................................................................................... 32
Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNH VI VI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM ........... 37
2.1. Các quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu
thầu ........................................................................................................37
2.1.1. Quy định pháp luật hình sự đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh
vực đấu thầu…………………………………………………………………………38


2.1.2. Quy định pháp luật hành chính đối với các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực đấu thầu .................................................................................................. 48
2.2. Thực tiễn xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu ở Việt Nam...56
2.2.1. Những kết quả đạt được........................................................................... 56
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân ...................................... 61
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CÁC HÀNH VI VI
PHẠM TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU .................................................... 69
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu……………………….69
3.1.1. Xây dựng khung pháp lý vững chắc, đầy đủ và hiệu
quả…………………………………………..……………………………………...69
3.1.2. Hội nhập và tiếp thu kinh nghiệm pháp luật các nước tiên tiến trên

thế giới…………………………………………………………..………….……..70
3.1.3. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân….…………72
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực đấu thầu…………………………………………………..……….. 73
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về hành vi vi phạm và chế tài xử lý trong
lĩnh vực đấu thầu…………………..………………………………………..…...73
3.2.2. Hoàn thiện quy định về chủ thể bị áp dụng chế tài xử lý hình
sự………………………………………………………………………...…………74
3.2.3. Hoàn thiện quy định về giải quyết kiến nghị của nhà thầu, nhà đầu
tư…………………………………………………..………………………………..75
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý các hành
vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu ................................................................. 76
3.3.1. Siết chặt quản lý của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
công……………………………………………………………………...…….….. 77
3.3.2. Đẩy mạnh công tác quản lý đấu thầu tại địa phương …..………..78


3.3.3. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, hiểu
biết pháp luật đấu thầu cho các chủ thể………………………………...….78
3.3.4. Tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật về xử lý hành vi
vi phạm trong đấu thầu…………………………………………………………79
3.3.5. Nâng cao hiệu quả công tác báo cáo trong đấu thầu……………..82
3.3.6. Hoàn thiện cơ chế xử lý kiến nghị của nhà thầu, nhà đầu tư và
tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật về đấu
thầu…………………………………………………………………………….…...83
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86


1


MỞ ĐẦU
1.

Giới thiệu khái quát về đề tài và tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, các hoạt động mua bán hàng

hóa, dịch vụ được phát triển một cách rộng rãi trên mọi mặt của đời sống kinh
tế xã hội, trong đó có hoạt động đấu thầu, hoạt động này ngày càng trở thành
một hoạt động kinh tế phổ biến, diễn ra trên hầu hết các quốc gia và trên mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Có thể nói sự ra đời và tồn tại của hoạt
động đấu thầu trong cơ chế kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan, một
mắt xích quan trọng phục vụ cho các hoạt động sản xuất, tiêu dùng của mọi
chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên trong hoạt động đấu thầu xảy ra không ít
những sai phạm từ phía chủ đầu tư, bên mời thầu, nhà thầu và các bên liên
quan khác. Những sai phạm này không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền
và nghĩa vụ của những chủ thể liên quan mà còn ảnh hưởng tới môi trường
đấu thầu và nền kinh tế nói chung. Đặc biệt đối với những dự án đầu tư công
thì những vi phạm trong quá trình đấu thầu còn ảnh hưởng tới việc sử dụng
nguồn ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng của người
dân. Vì vậy, việc xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu là một vấn
đề hết sức cần thiết và có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động quản lý
đấu thầu nói riêng và công tác quản lý Nhà nước về mọi mặt kinh tế- xã hội
nói chung. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác xử lý những sai phạm trong
đấu thầu còn tồn tại nhiều vấn đề gây bức xúc không chỉ đối với những chủ
thể có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp tới hoạt động đấu thầu mà còn có
ảnh hưởng đối với toàn xã hội. Nguyên nhân của những vướng mắc và bất cập
trong công tác xử lý vi phạm trong đấu thầu xuất phát từ nhiều yếu tố như hệ
thống pháp luật, cơ quan thực thi, chủ thể tham gia…. Nhận thức được tầm
quan trọng của hoạt động đấu thầu nói chung và công tác xử lý các vi phạm
trong đấu thầu nói riêng, pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu



2

đã được nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, trong đó có khía cạnh pháp
lý. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống về pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu
thầu. Để nâng cao hiệu quả xử lý các vi phạm trong đấu thầu cũng như góp
phần tạo ra một môi trường đấu thầu lành mạnh, thúc đẩy nền kinh tế xã hội
phát triển bền vững, việc nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống các quy
định pháp luật cũng như thực tiễn xử lý các vi phạm trong đấu thầu là rất cấp
thiết và quan trọng. Những nghiên cứu và đánh giá ấy sẽ là nền tảng lý luận
quan trọng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật trong công tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu. Chính vì
tính cấp thiết và tầm quan trọng không thể phủ nhận của vấn đề, tôi quyết định
lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình là: “Pháp luật về xử lý
hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu”.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động đấu thầu là một hoạt động kinh tế được xã hội quan tâm. Đặc

biệt đối với công tác đấu thầu những dự án đầu tư công với nguồn vốn từ
ngân sách Nhà nước thì sự quan tâm của cộng đồng càng lớn hơn. Tuy nhiên
trong quá trình thực hiện, vì những lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, vì sự thiếu
hiểu biết, thiếu trách nhiệm hay vì một lý do nào khác mà hoạt động đấu thầu
vẫn tồn tại những sai phạm. Những sai phạm ấy dù nghiêm trọng hay không
quá nghiêm trọng nhưng đều ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các bên liên
quan cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu thầu tại Việt Nam. Đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cũng như xu thế hội nhập đang phát triển

mạnh mẽ như hiện nay thì các hoạt động đấu thầu càng trở nên phức tạp và
những sai phạm càng gây nên những hậu quả khó lường.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của vấn đề, đã
có một số công trình nghiên cứu lĩnh vực đấu thầu nhưng chủ yếu liên quan


3

đến một bộ, ngành, một địa bàn hoặc tổ chức nhất định, nội dung chung
chung chứ không đề cập trực tiếp đến vấn đề xử lý vi phạm trong đấu thầu
như:
-

Cục Quản lý Đấu thầu với đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện quy
trình kiểm tra về công tác đấu thầu” (năm 2013). Đây là đề tài được Cục
Quản lý Đấu thầu thực hiện trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực tế việc
triển khai quy trình kiểm tra về công tác đấu thầu tại một số Bộ, ngành,
địa phương để tiếp thu ý kiến của các bên có liên quan, tổ chức hội nghị
lấy ý kiến, tổng hợp thông tin để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện quy trình kiểm tra nói chung.

-

Tác giả Hoàng Lê Mai Phương với đề tài Luận văn thạc sỹ:“Hoàn thiện
công tác đấu thầu tư vấn tại các dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào
tạo” (năm 2012). Tác giả tiếp cận những vấn đề cơ bản về đấu thầu tại
các dự án Viện trợ phát triển chính thức- ODA như khái niệm, vai trò và
nguyên tắc của đấu thầu tư vấn tại các dự án ODA, các loại gói thầu tư
vấn, quy trình đấu thầu tư vấn, các nhân tố ảnh hưởng… cũng như tìm
hiểu về thực trạng để đánh giá công tác đấu thầu tư vấn tại các dự án

ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
giúp cho việc thực hiện các gói thầu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện hơn,
chịu ảnh hưởng ít nhất của các điều kiện khách quan cũng như chủ quan,
từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình lựa chọn nhà thầu.

-

Tác giả Nguyễn Đình Linh với công trình “Hoàn thiện công tác quản lý
Nhà nước về hoạt động đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố
Hà Nội” (năm 2011) đã đưa ra những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn
trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đấu thầu tại một cơ
quan quản lý Nhà nước cụ thể. Từ đó có những nhận định và đánh giá,


4

đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về
đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
-

Tác giả Nguyễn Thị Thúy Huyền với đề tài “Thực trạng đấu thầu quốc
tế tại Việt Nam, sự ảnh hưởng của các văn bản pháp quy đến hoạt động
đấu thầu quốc tế trong giai đoạn hội nhập” (năm 2006) đã nêu rõ ảnh
hưởng của các văn bản pháp quy về đấu thầu đối với công tác đấu thầu
tại Việt Nam nhằm nêu rõ những kết quả đạt được, những bất cập, hạn
chế cơ bản của công tác này. Trên cơ sở nhận định những điểm chung và
điểm riêng, điểm tiến bộ cũng như hạn chế của các văn bản pháp quy về
đấu thầu tại Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường
ảnh hưởng của các văn bản pháp quy nói trên, đồng thời góp phần lành
mạnh hóa môi trường đầu tư, chống thất thoát vốn nhà nước.

Trong thời gian qua cũng có không ít những bài viết được đăng tải trên

các tạp chí và các phương tiện truyền thông khai thác những khía cạnh khác
nhau của vấn đề. Có một số bài viết mang tính lý luận nghiên cứu các quy
định pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu, có
những bài viết đánh giá công tác thực thi xử lý vi phạm đấu thầu cũng như
những vấn đề khác liên quan, ví dụ “Hà Nội: Xử lý nhiều vi phạm trong đấu
thầu” (đăng tải trên Báo Đấu thầu ngày 07/03/2017), “Hàng chục quyết định
xử lý vi phạm trong đấu thầu chưa được công khai” (đăng tải trên website
“baomoi.com” ngày 17/03/2017), “Chủ đầu tư vi phạm quy định đấu thầu, xử
lý thế nào?” (đăng tải trên website “baochinhphu.vn” ngày 14/11/2016),…
Tuy nhiên, các bài viết chỉ là những bài viết ngắn, mới dừng lại ở mức độ
cung cấp thông tin chứ chưa đi sâu phân tích làm rõ vấn đề pháp lý cũng như
chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong vấn đề liên quan.


5

Nhận thấy tình hình thực tế của các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực
đấu thầu nói chung và các công trình nghiên cứu đối với vấn đề xử lý vi phạm
đấu thầu nói riêng, tác giả quyết định lựa chọn đề tài với mục đích nghiên cứu
cụ thể về pháp luật xử lý các hành vi vi phạm trong đấu thầu. Việc xây dựng
luận văn thạc sỹ này sẽ có nhiều điểm mới so với các công trình nghiên cứu
trước đây như:
-

Luận văn luận giải, xây dựng những vấn đề lý luận về hoạt động đấu
thầu, pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu, sự cần thiết
phải điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật trong vấn đề này.


-

Từ góc độ lý luận, luận văn xác định nội dung, hình thức thực hiện pháp
luật về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu, chỉ ra việc thực thi
pháp luật về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố và đối tượng.

-

Luận văn nêu ra và đánh giá chi tiết về các quy định pháp luật để đánh
giá những điểm tiến bộ cũng như những điểm còn hạn chế của hệ thống
pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu.

-

Luận văn cũng tìm hiểu về quy định pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới để làm nền tảng so sánh với hệ thống quy định của pháp luật
Việt Nam trong hoạt động xử lý vi phạm đấu thầu. Từ đó, luận văn đưa
ra những đánh giá về sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật các nước, là nền tảng nghiên cứu để đưa ra những kiến
nghị học hỏi các quy định pháp luật tiến bộ của các quốc gia.

-

Luận văn nêu lên thực trạng công tác thực thi pháp luật xử lý vi phạm
trong đấu thầu với những ví dụ sinh động từ thực tế, đánh giá những
vướng mắc, bất cập và chỉ ra các nguyên nhân gây ra những vướng mắc,
bất cập ấy.



6

-

Với những nghiên cứu về hệ thống quy định pháp luật cũng như tìm
hiểu, đánh giá về thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, luận văn
đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

4.

Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Để công trình nghiên cứu đạt hiệu quả cao, trước và trong quá trình thực

hiện đề tài, tác giả luôn xác định cụ thể và định hướng rõ ràng đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định pháp luật về
xử lý vi phạm trong đấu thầu của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới
cũng như thực trạng thực thi pháp luật xử lý vi phạm trong đấu thầu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về các hành vi
vi phạm trong đấu thầu mà giới hạn nghiên cứu là vi phạm hình sự và vi phạm
hành chính, hệ thống các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong đấu thầu
của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, thực trạng thực thi pháp luật
xử lý vi phạm trong đấu thầu. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn tập trung
phân tích các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu như
luật đấu thầu, các nghị định, thông tư liên quan, bộ luật hình sự,… Đặc biệt
trong quá trình nghiên cứu, luận văn cũng có sự phân tích và so sánh các quy
định về xử lý hình sự đối với các vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu tại Bộ luật
Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực. Ngoài ra,

luận văn cũng đề cập đến quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
như Đức, Trung Quốc, Philippines và so sánh với pháp luật Việt Nam về các
hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu cũng như những chế tài xử
lý tương ứng. Đối với thực trạng thực thi pháp luật xử lý vi phạm trong đấu
thầu, luận văn đề cập tới những vi phạm thực tế diễn ra trong cuộc sống trên
phạm vi lãnh thổ Việt Nam.


7

5.

Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu và thực tiễn công tác xử lý
các hành vi vi phạm trong đấu thầu, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm trong đấu thầu, đồng
thời nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực đấu thầu.
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn triển khai các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
-

Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của đấu thầu cũng như khái niệm,
đặc điểm và phân loại hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu.

-

Nghiên cứu các quy định pháp luật về hành vi vi phạm cũng như các quy

định về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu của Việt Nam và
một số quốc gia trên thế giới.

-

Đánh giá thực tiễn xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu của
Việt Nam, những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập.

-

Đưa ra định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
xử lý vi phạm trong đấu thầu cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu.

6.

Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Để giải quyết các nội dung nghiên cứu và mục đích mà đề tài đặt ra,

trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng linh
hoạt các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, đánh giá, giải
thích pháp luật, so sánh pháp luật, thông kê, bình luận,…. Cụ thể như sau:


8

-

Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, giải thích pháp luật để
nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý đối với các quy định pháp

luật về các hành vi vi phạm trong đấu thầu và các chế tài xử lý đối với
các hành vi vi phạm đó (Chương 1, Chương 2).

-

Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng để so sánh các quy định
pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới về các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu và các chế tài xử lý tương ứng (Chương
1, Chương 2).

-

Phương pháp thống kê, đánh giá, bình luận, quan sát thực tế được sử
dụng để nghiên cứu thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực
đấu thầu ở Việt Nam với những kết quả đạt được và những vướng mắc,
bất cập còn tồn tại (Chương 2).

-

Phương pháp tổng hợp, diễn giải, quy nạp,… được sử dụng để nghiên
cứu về các yêu cầu, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi
phạm trong đấu thầu và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong công
tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu (Chương 3).

7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn mang những ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn nhất định,
cụ thể như sau:


-

Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham
khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác đào tạo và
nghiên cứu pháp luật về hoạt động đấu thầu nói chung và pháp luật về xử
lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu nói riêng.

-

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là những tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan hữu quan trong công tác nghiên cứu
để tìm ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động đấu


9

thầu nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu nói
riêng. Đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là những tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan hữu quan trong công tác nghiên cứu
để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong
công tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu.
8.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần "Mở đầu", "Kết luận" và "Danh mục tài liệu tham khảo", nội

dung đề tài gồm ba chương như sau:
-

Chương 1: Khái quát chung về đấu thầu và các hành vi vi phạm trong

lĩnh vực đấu thầu.

-

Chương 2: Các quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh
vực đấu thầu và thực tiễn ở Việt Nam.

-

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đấu thầu.


10

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ CÁC HÀNH VI VI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC ĐẤU THẦU
1.1. Khái quát chung về đấu thầu
1.1.1. Khái niệm đấu thầu
Từ rất lâu, các quốc gia trên thế giới đã quy định khái niệm về đấu thầu
trong các văn bản khác nhau với thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng Anh là
"Procurement" nghĩa gốc là “mua sắm”. Khái niệm về đấu thầu ở các quốc
gia được quy định trong các văn bản luật (thường được gọi là "Law on
Procurement") hoặc quy chế (thường được gọi là "Procurement Regulation")
và đều mang nghĩa đặc thù là sự tổ chức lựa chọn để tìm ra người bán phù
hợp nhất.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “đấu thầu” được ghi nhận tại cuốn "Từ điển
tiếng Việt" do Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1988. Theo đó, đấu thầu
được giải thích là việc “Đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt

nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng (một phương thức giao làm
công trình hoặc mua hàng)”1. Từ cách giải thích này có thể hiểu hoạt động
đấu thầu được thừa nhận như là một sự ganh đua, cạnh tranh để được thực
hiện một việc nào đó, một yêu cầu nào đó.
Trước đây, trong cơ chế tập trung bao cấp, vấn đề đấu thầu chưa được
coi là một vấn đề độc lập cần được quy định trong một văn bản luật riêng.
Điều đó phần nào phủ nhận giá trị và tầm quan trọng của đấu thầu trên thực
tế. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường đã khiến vấn đề đấu thầu được nhìn nhận, đánh giá lại. Đấu thầu đã
Đồng tác giả, Hoàng Phê chủ biên (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.302.
1


11

được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thiết thực vào việc
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội. Nhà
nước đã không ngừng thay đổi toàn diện cơ chế quản lý về đấu thầu để thích
ứng linh hoạt với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo thị trường bảo đảm
phù hợp với thông lệ quốc tế.2
Theo thời gian, khái niệm “đấu thầu” đã được quy định chính thức tại
các văn bản luật của Việt Nam. Quy định mới nhất về khái niệm "đấu thầu"
được quy định tại Khoản 12, Điều 4, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày
26 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội (Sau đây gọi tắt là "Luật Đấu thầu năm
2013"): "Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp
đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp;
lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh
tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế". Kết quả của quá trình lựa

chọn đó là có hợp đồng được ký kết với các điều khoản quy định chi tiết trách
nhiệm của hai bên, một bên là nhà thầu, nhà đầu tư phải thực hiện các nhiệm
vụ như nêu trong hồ sơ mời thầu (có thể là dịch vụ tư vấn, cung cấp hàng hoá,
chịu trách nhiệm xây dựng một công trình hoặc thực hiện dự án đầu tư…),
một bên là chủ đầu tư, bên mời thầu có trách nhiệm giám sát, kiểm tra,
nghiệm thu và thanh toán cho nhà thầu, nhà đầu tư đã thực hiện phần công
việc đó. Về cơ bản, đấu thầu là một quá trình chủ đầu tư, bên mời thầu lựa
chọn được một nhà thầu, nhà đầu tư đáp ứng các yêu cầu của mình theo quy
định của pháp luật. Có thể hiểu cơ bản là "người mua" (chủ đầu tư, bên mời
thầu) tổ chức đấu thầu để "người bán" (các nhà thầu, nhà đầu tư) cạnh tranh

Trịnh Thị Thu Hòa (2016), Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá
trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2


12

nhau trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu của người mua là có được hàng
hóa, dịch vụ, sản phẩm thỏa mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất
lượng với chi phí thấp nhất. Mục đích của nhà thầu, nhà đầu tư là giành được
quyền cung cấp hàng hóa, dịch vụ, quyền thực hiện dự án đầu tư với giá trị
nhận được trong tương lai đủ bù đắp các chi phí đầu vào và đảm bảo mức lợi
nhuận cao nhất có thể.
Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan trong nền kinh
tế thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải nắm bắt và vận dụng có hiệu quả trong
quá trình quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, việc nghiên cứu
và quy định cụ thể về khái niệm đấu thầu là nền tảng cơ bản để tìm hiểu các
vấn đề liên quan đến hoạt động đấu thầu nói chung cũng như là tiền đề lý luận

không thể thiếu trong công tác xây dựng pháp luật của các nhà lập pháp.
1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu
a)

Mục đích của đấu thầu
Đấu thầu là một hoạt động thương mại mà các chủ thể trong mối quan hệ

kinh tế này đều xác định rõ mục đích của mình, đối với bên mời thầu là sự
xác lập được hợp đồng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với các điều kiện tốt
nhất còn đối với bên dự thầu chính là lợi nhuận, lợi ích kiếm được từ việc
thực hiện các công việc đó. Về bản chất, đấu thầu cũng giống như những hoạt
động thương mại khác, là việc xác lập mối quan hệ kinh tế dựa trên nhu cầu
và mong muốn của mỗi bên. Tuy nhiên cần lưu ý đấu thầu là giai đoạn tiền
hợp đồng. Mục đích cuối cùng của đấu thầu là giúp bên mời thầu tìm ra chủ
thể có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ với chất lượng và giá cả tốt nhất.
Sau khi quá trình đấu thầu hoàn tất, người trúng thầu sẽ cùng với người tổ
chức đấu thầu đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, xây lắp công trình hoặc thực hiện dự án đầu tư.


13

b)

Chủ thể của quan hệ đấu thầu
Về chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu gồm hai chủ thể chính là bên mời

thầu và bên dự thầu. Ngoài ra còn có các chủ thể trung gian như nhà tư vấn, tổ
chuyên gia xét thầu, tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp như đại lý đấu thầu, đơn
vị sự nghiệp được thành lập và thực hiện chức năng đấu thầu chuyên nghiệp.

Thông thường, quan hệ đấu thầu được xác lập giữa một bên mời thầu và nhiều
bên dự thầu nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ như trong trường hợp chỉ định
thầu, khi đó chỉ có một bên mời thầu và bên được chỉ định thầu. Đối với mua
sắm Chính phủ, nguồn vốn là nguồn ngân sách Nhà nước nên để đảm bảo tốt
nhất tính công bằng, minh bạch có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình
đấu thầu. Về phía “bên mua” chính là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan
Nhà nước theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Thứ nhất là người có thẩm
quyền quyết định việc đấu thầu (người phê duyệt quyết định đầu tư). Thứ hai
là chủ đầu tư, đó là các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ hoặc sử dụng
tiền của Nhà nước (là Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn của mình, là các
tổ chức vay ngân sách Nhà nước hoặc các tổ chức được Nhà nước bảo lãnh
các khoản vay) thực hiện đầu tư, đấu thầu. Thứ ba là các nhà thầu tham gia
đấu thầu và các chủ thể trung gian như tổ chuyên gia xét thầu, tổ chức đấu
thầu chuyên nghiệp,…
c)

Hình thức pháp lý của quan hệ đấu thầu
Một đặc điểm riêng của đấu thầu chính là hình thức pháp lý của quan hệ

đấu thầu. Không giống như những quan hệ kinh tế khác được biểu hiện pháp
lý bởi hợp đồng, vì đấu thầu là giai đoạn tiền hợp đồng nên hình thức pháp lý
của nó chính là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu là văn bản
pháp lý do bên mời thầu lập, trong đó có đầy đủ những yêu cầu về kĩ thuật, tài
chính còn hồ sơ dự thầu thể hiện năng lực, mức độ đáp ứng của bên dự thầu
trước các yêu cầu trong hồ sơ mời thầu.


14

d)


Tính hiệu quả, cạnh tranh, công bằng và minh bạch
Đấu thầu còn là một hoạt động mang những đặc điểm riêng biệt, yêu cầu

các chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu đều phải tuân thủ một cách nghiêm túc.
Các đặc trưng xuất phát từ chính bản chất của hoạt động đấu thầu bao gồm
tính hiệu quả, cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Về tính hiệu quả, nó được
xét trên nhiều phương diện như hiệu quả về biện pháp thực hiện, thời gian
thực hiện, hiệu quả về tài chính,... Bên cạnh đó, cạnh tranh cũng là một đặc
điểm nổi bật trong đấu thầu, nó buộc các nhà thầu phải cố gắng hết sức để đáp
ứng các tiêu chí mà chủ đầu tư, bên mời thầu đưa ra. Đấu thầu là một quá
trình phức tạp nhằm mục đích chọn lựa được "bên bán" phù hợp nhất, đạt yêu
cầu nhất, vì vậy nhà thầu được lựa chọn phải chứng minh ưu thế của mình so
với những nhà thầu khác. Một đặc điểm nữa của đấu thầu chính là yêu cầu về
sự công bằng. Theo đó, công tác đấu thầu phải đảm bảo các nhà thầu đều
được đối xử như nhau khi tham dự thầu (thông tin đều được cung cấp như
nhau, được đối xử như nhau trong suốt quá trình tham dự thầu). Tuy nhiên,
đặc điểm này cũng chỉ là tương đối vì có một số nhà thầu vẫn được ưu tiên và
đôi khi điều này còn được ghi cụ thể trong hồ sơ mời thầu đối với một số dự
án có tính chất đặc thù. Một đặc điểm không thể thiếu nữa của hoạt động đấu
thầu chính là tính minh bạch. Trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu
không được phép có bất kì sự khuất tất nào đó làm nảy sinh nghi ngờ của bên
mời thầu đối với nhà thầu và có điều gì đó khiến các nhà thầu nghi ngờ lẫn
nhau. Mọi vấn đề đều phải công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp
luật, đảm bảo không có bất cứ sự che giấu nào vì lợi ích nhóm, lợi ích cá
nhân. Đây đều là những đặc điểm tiêu biểu của đấu thầu đồng thời cũng là
mục đích của sự ra đời hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên trên thực tế, việc đảm
bảo các đặc điểm này của đấu thầu đều được thực hiện đúng không phải là



15

một điều dễ dàng vì vẫn còn tồn tại không ít những sai phạm trong quá trình
thực hiện công tác đấu thầu.
1.1.3. Vai trò của đấu thầu
a)

Vai trò của đấu thầu đối với bên mời thầu
Đấu thầu có vai trò quan trọng đối với chủ thể là bên mời thầu. Thông

qua đấu thầu, bên mời thầu sẽ tìm được đối tác đáp ứng được những yêu cầu
mình đưa ra về chất lượng, tiến độ, chi phí,… Thông qua việc đặt ra các tiêu
chí ban đầu và trải qua một quá trình đánh giá và chọn lọc, bên mời thầu sẽ có
cơ hội đánh giá được khả năng của từng bên dự thầu. Khi tìm được một đối
tác phù hợp nhất, chất lượng công trình, hàng hóa, dịch vụ và tiến độ thực
hiện sẽ được đảm bảo, đồng thời bên mời thầu sẽ kiểm soát và tiết kiệm được
nguồn vốn đầu tư.
Một vấn đề thường xảy ra trong kinh doanh là việc các chủ thể có thói
quen kết hợp với các đối tác quen thuộc mà mình đã biết hoặc đã từng hợp
tác. Thói quen trong kinh doanh này vừa có ưu điểm vừa có nhược điểm. Ưu
điểm là họ không mất thời gian và công sức để tìm kiếm đối tác mới, đồng
thời đã có lòng tin nhất định vào những đối tác mình quen biết hoặc đã từng
có cơ hội cộng tác. Tuy nhiên nhược điểm của điều này là họ đã tự hạn chế sự
lựa chọn của mình trong khi có thể những đối tác họ chưa biết đến hoặc chưa
từng cộng tác lại phù hợp hơn và có lợi thế hơn so với đối tác cũ của họ. Vì
vậy, đấu thầu chính là cơ hội để bên mời thầu có thêm nhiều lựa chọn, vượt ra
ngoài phạm vi an toàn trong việc lựa chọn đối tác.
Ngoài ra, trong quá trình tổ chức đấu thầu, bên mời thầu cũng phải thực
hiện các công tác chuyên môn và công tác tổ chức xuyên suốt quá trình.
Chính yêu cầu này đòi hỏi khả năng từ chính bên mời thầu và cũng là động



16

lực giúp bên mời thầu phát triển hơn về năng lực, có thêm kiến thức, thông tin
và trở thành những "người mua" ngày một thông thái hơn.
b)

Vai trò của đấu thầu đối với bên dự thầu
Đấu thầu không chỉ có vai trò quan trọng đối với bên mời thầu mà còn

đối với bên dự thầu. Một trong những đặc trưng của đấu thầu là sự tính cạnh
tranh công bằng. Cũng chính sự cạnh tranh công bằng khiến các bên dự thầu
luôn phải cố gắng hết sức mình để ngày một hoàn thiện và phát triển khả
năng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các bên mời thầu. Khi đó, đấu thầu đã góp
phần kích thích sự tự hoàn thiện của các bên dự thầu.
Ngoài ra, đấu thầu còn có ý nghĩa như một sân chơi lớn cho mọi thành
phần kinh tế và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp mới
bước đầu gia nhập thị trường. Thực tế cho thấy nhiều chủ thể có xu hướng
hợp tác kinh doanh với những đối tác quen thuộc, chính điều này đã dẫn đến
sự thiếu công bằng của nền kinh tế cũng như gián tiếp hình thành sự độc
quyền thương mại. Khi đó, đấu thầu chính là cơ hội để các doanh nghiệp mới
tham gia thử sức. Đấu thầu sẽ giúp nhiều doanh nghiệp thành lập mới hoặc
đang trong giai đoạn vừa bước chân vào thị trường có cơ hội tham gia môi
trường đấu thầu, kích thích thị trường trong nước phát triển, chống sự độc
quyền tự nhiên bởi các doanh nghiệp lâu năm.
Không chỉ thế, thông qua việc tham gia đấu thầu trong nước, các nhà
thầu càng có thêm nhiều kinh nghiệm để tham gia các gói thầu quốc tế, cạnh
tranh với các nhà thầu nước ngoài để có được những hợp đồng kinh tế lớn. Xu
thế hội nhập và toàn cầu hóa đang ngày một phát triển, việc các nhà thầu Việt

Nam vươn mình ra thế giới là một điều vô cùng đáng khích lệ. Tuy nhiên
không thể phủ nhận rằng sự cạnh tranh trên thương trường quốc tế là rất khốc
liệt. Thực tế từ trước đến nay cho thấy các đối thủ của chúng ta trên thương
trường quốc tế đều rất lớn mạnh và có nhiều kinh nghiệm không chỉ trong


17

lĩnh vực chuyên ngành mà còn cả trong công tác thực hiện đấu thầu. Vì vậy,
một môi trường đấu thầu trong nước với những sự cạnh tranh gay gắt sẽ là
điều kiện thực hành rất tốt giúp các nhà thầu Việt Nam "vững vàng" hơn khi
vươn tầm ra ngoài thế giới.
c)

Vai trò của đấu thầu đối với nền kinh tế
Đấu thầu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước, đặc biệt

trong bối cảnh xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Công tác
đấu thầu đóng góp những thành tựu to lớn cho sự phát triển kinh tế, thể hiện
vai trò quan trọng trong các hoạt động của kinh tế thị trường. Là một công cụ
quan trọng của kinh tế thị trường, giúp "bên mua" (bên mời thầu, chủ đầu tư)
và "bên bán" (nhà thầu, nhà đầu tư) gặp nhau thông qua cạnh tranh. Ngoài ra,
đấu thầu là giai đoạn tiền hợp đồng, thông qua đó các hoạt động khác đều
được kích thích phát triển như ngành sản xuất trực tiếp, các ngành phụ trợ,
ngành chế biến, xây dựng,… Đấu thầu góp phần phát triển các ngành sản xuất
theo hướng chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá rộng. Việc nhiều nhà thầu ở
các ngành, lĩnh vực khác nhau cùng kết hợp đứng làm tổng thầu giúp cho sản
phẩm đầu ra đạt hiệu quả cao, công tác thực hiện diễn ra nhanh chóng, vừa
đảm bảo sự chuyên môn hóa vừa tăng cường sự đa phương hóa.
Hơn nữa, với bản chất và mục đích hoạt động, đấu thầu còn góp phần tạo

động lực cho sự phát triển nền kinh tế thị trường nhờ nguyên tắc công khai,
minh bạch, công bằng, hiệu quả. Đặc biệt đối với các hoạt động mua sắm
bằng nguồn vốn của Nhà nước cho các công trình công cộng, đấu thầu càng
có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự minh bạch và nâng cao việc sử
dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước.
Đấu thầu là một công cụ quan trọng của nền kinh tế thị trường giúp "bên
mua" và "bên bán" kết nối thông qua sự cạnh tranh và lựa chọn. Chính đặc
điểm ganh đua khốc liệt giữa các nhà thầu và sự lựa chọn kỹ lưỡng, có chọn


18

lọc của bên mời thầu, chủ đầu tư đã góp phần làm tăng tính tự do, linh hoạt và
môi trường cạnh tranh đúng nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, đấu thầu giúp công khai hóa, minh bạch hóa nền kinh tế,
khắc phục được nhược điểm của những thủ tục hành chính rườm rà, những sự
thiếu công khai, minh bạch trong quá trình mua sắm công, đầu tư công; thực
hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục những nhược điểm của những thủ tục
hành chính nặng nề cản trở sự năng động, sáng tạo; tạo điều kiện để thúc đẩy
tiến trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế “xin”,
“cho”.
Đặc biệt nhờ hoạt động đấu thầu, việc sử dụng nguồn vốn của Nhà
nước sẽ đạt hiệu quả hơn, chống thất thoát, lãng phí cũng như hạn chế những
tiêu cực vì lợi ích nhóm. Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp quản lý chi
tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất
thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển
mà có sự tham gia của các tổ chức Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước ở một
mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các hoạt động của bộ máy Nhà
nước. Cùng với pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, pháp luật về
phòng chống tham nhũng tạo thành công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi

gian lận, tham nhũng và lãng phí trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà
nước, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội nhờ thực hiện các hoạt
động mua sắm công theo đúng pháp luật của Nhà nước. Việc chi tiêu, sử dụng
tiền của Nhà nước thông qua đấu thầu sẽ giúp các cơ quan quản lý có điều
kiện xem xét, quản lý và đánh giá một cách minh bạch các khoản chi tiêu do
quá trình đấu thầu phải tuân thủ các quy trình chặt chẽ với sự tham gia của
nhiều bên.
Thông qua đấu thầu mà đặc biệt là đấu thầu các công trình thi côngxây lắp, hàng loạt các con đường, cầu cảng, sân bay, nhà máy,… đã được xây


19

dựng, trùng tu, góp phần rất lớn trong việc thay đổi tích cực kết cấu hạ tầng
và diện mạo đất nước, nâng cao đời sống người dân, tạo hình ảnh đẹp của
quốc gia với các đối tác và bạn bè quốc tế.
Đặc biệt, hoạt động đấu thầu còn thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia
sẻ kiến thức, kinh nghiệm giữa các quốc gia, các tổ chức phát triển. Hoạt
động đấu thầu không chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp mà được diễn ra trên toàn
thế giới. Các nhà thầu danh tiếng trên thế giới có khả năng tham gia vào tất cả
các hoạt động của các quốc gia, thông qua đó có thể thiết lập mối quan hệ
chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm. Với vai trò này có
thể thấy đấu thầu còn là sợi dây kết nối giữa các tổ chức tại các quốc gia khác
nhau trên thế giới, góp phần không nhỏ vào xu thế hội nhập và hợp tác toàn
cầu. Đặc biệt, Việt Nam đang nỗ lực để vươn mình ra thế giới, thiết lập vị thế
trên thương trường quốc tế và hòa nhập vào xu thế chung, vì vậy đấu thầu
càng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia trong thời đại
mới.
1.1.4. Các trường hợp phải đấu thầu bắt buộc
Hoạt động đấu thầu có nhiều vai trò quan trọng và đem lại những hiệu
quả nhất định. Tuy nhiên tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà pháp luật

quy định có phải đấu thầu bắt buộc hay không. Theo quy định tại Điều 1, Luật
đấu thầu năm 2013 thì các trường hợp phải đấu thầu bắt buộc gồm cung cấp
dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với dự án đầu tư phát
triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp công lập; dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; dự án
đầu tư phát triển có sử dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước từ
30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư


×