Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số kinh nghiệm huấn luyện học sinh giỏi nội dung chạy cự li ngắn cho học sinh (nam) ở trường THPT hà trung SKKN THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.57 KB, 15 trang )

Mục lục.
1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài (Trang 1)
1.2 Mục đích nghiên cứu (Trang 2)
1.3 Đối tượng nghiên cứu (Trang 2)
1.4 Phương pháp nghiên cứu (Trang 2)
1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm (Trang 2)
2. Nội dung sáng kiến
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. (Trang 3)
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. (Trang 4)
2.3 Giải pháp tổ chức thực hiện để giải quyết vấn đề. (Trang 5)
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. (Trang 11)
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận (Trang 13)
3.2 Kiến nghị (Trang 13)

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình đổi mới phương pháp
dạy học. Với đặc trưng của môn giáo dục thể chất (GDTC) là nhằm hoàn thiện
và nâng cao sức khỏe, đào tạo, rèn luyện tác phong con người mới XHCN, góp
phần xây dựng nhân cách con người, đáp ứng với sự phát triển của đất nước.
Trong thời kỳ khó khăn của dân tộc thì: Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân
tập thể dục (27/03/1946) lời kêu gọi có đoạn trích như sau: “…Giữ gìn dân chủ
xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành
công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi
một người dân khoẻ mạnh tức là làm cho cả nước mạnh khoẻ ….”
Thông qua các tiết dạy thể dục cũng như tập luyện ngoại khóa giúp học


sinh rèn luyện các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự khéo
léo, để đảm bảo sức khỏe và nâng cao thành tích, khắc phục mọi khiếm khuyết
về tư thế cơ bản. Trên tinh thần đó, giúp người tập phát triển toàn diện, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Rèn luyện ý thức tự giác, kỉ luật, đạo
đức, ý chí cho các em. Thông qua các cuộc thi thể dục thể thao các cấp hình
thành kĩ năng, kĩ xảo vận động. Phát triển hài hòa hình thái chức năng cơ thể.
Phát triển tài năng trẻ cho thể thao nước nhà. Sức nhanh, sức mạnh, sức bền và
sự khéo léo, khả năng mềm dẻo là những tố chất vận động. Các tố chất vận động
cần thiết với tất cả mọi người trong cuộc sống bình thường và đặc biệt là trong
học tập, lao động chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc.
Điền kinh là một môn thể thao phong phú và đa dạng. Nhằm rèn luyện tất
cả các tố chất cho con người. “Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, tốc độ và phản
xạ”. Đây là những yếu tố cơ bản nhất để học tốt các nội dung khác trong chương
trình GDTC.
Chạy cự ly ngắn là một trong những nội dung chính của môn thể thao
trong trường trung học, trong đó chạy 100m, 200m, 400m,chạy tiếp sức là các
nội dung thi chính thức trong các giải Điền kinh các cấp cũng như các cuộc thi
đấu lớn và Đại hội Olympic. Thành tích đạt được trong chạy cự li ngắn phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố thể lực như: sức mạnh tốc độ, sức bền tốc độ. Để
các em học sinh trong trường THPT rèn luyện và phát huy được các yếu tố thể
lực trên, chúng ta phải có phương pháp huấn luyện như thế nào cho hợp lý.
Nội dung chạy cự li ngắn trong thi đấu thể thao luôn luôn được chú trọng
và luôn được chờ đợi “ Môn thể thao Nữ Hoàng ” không những có tác dụng tăng
cường sức khỏe cho người tập mà còn là cơ sở để phát triển các tố chất, ngoài
dạy đại trà cho học sinh tôi còn huấn luyện đội tuyển cho học sinh giỏi để tham
gia thi các cấp (Huyện) và (Tỉnh) chính vì vậy mà bản thân tôi luôn phải tìm tòi,
học hỏi để có được những phương pháp huấn luyện tốt nhất đối với từng nội
dung cụ thể. Với nội dung chạy cự li ngắn thì bản thân tôi cũng chưa thể nói hết
về kinh nghiệm huấn luyện học sinh giỏi trong sáng kiến kinh nghiệm này được
Bởi lẽ (Phương pháp huấn luyện học sinh nam cũng sẽ có khác so với phương

pháp huấn luyện học sinh nữ).
1


Căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu, nhiệm vụ năm học (2016- 2017) của nhà
trường cũng như của tổ: Thể Dục.
Vậy nên tôi tiến hành viết đề tài “ Một số kinh nghiệm huấn luyện học
sinh giỏi nội dung chạy cự li ngắn cho học sinh (nam) ở Trường THPT Hà
Trung ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài này là áp dụng các pháp pháp huấn luyện đã tích luỹ,
cũng như đã áp dụng đối với học sinh nam của trường THPT Hà Trung để nâng
cao thành tích đối với học sinh giỏi nội dung chạy cự li ngắn cho học sinh (nam)
ở trường THPT Hà Trung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh (nam) Trường THPT Hà Trung năm học (2016- 2017)
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, đánh giá thực tiễn.
- Phương pháp toán học thống kê.
- Phương pháp chia nhóm.
- Phương pháp vận dụng thực tiễn.
- Phương pháp luyện tập: Quay vòng, cuốn chiếu…
- Phương pháp tổng kết, đánh giá kết quả.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đưa ra trong việc giải quyết vấn đề rất cụ thể, rõ ràng.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong luyện tập môn chạy cự li ngắn để có được những giờ học đạt kết
quả cao trước tiên cần tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong tập luyện để
các em nắm vững và thực hiện nội dung kĩ thuật động tác một cách chính xác...
Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ nội dung bài tập, làm mẫu chính xác từng
động tác, thao tác thuần thục, phân tích rõ ràng từng chi tiết kĩ thuật các giai
đoạn, động tác trước khi lên lớp.
Giáo viên làm mẫu động tác phải đạt được yêu cầu chính xác, đẹp, đúng
kĩ thuật. Vì những động tác làm mẫu dễ gây được ấn tượng trong trí nhớ các em.
Khi phân tích, giảng giải kĩ thuật động tác nên ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu mặt
khác dùng tranh ảnh để minh họa tạo sự chú ý cho các em.
Do đặc điểm tâm sinh lý của các em là học sinh thường hay hiếu động,
thiếu tập trung nhất là trong những giờ học bồi dưỡng (ngoại khoá) do ảnh
hưởng các yếu tố bên ngoài. Vậy giáo viên cần quán triệt học sinh thực hiện
nghiêm túc nội qui trong giờ học. Chia lớp học thành từng nhóm, đội và thường
xuyên cho các nhóm này thi đua với nhau để kích thích trong mỗi học sinh luôn
luôn có sự phấn đấu trong học tập hơn nữa mặt khác tạo điều kiện cho các em có
nhiều cơ hội tập luyện vận dụng những kĩ năng đã học một cách nhuần nhuyễn,
khéo léo, mạnh dạn để thể hiện được hết khả năng của mình... Để mỗi khi thi
đấu cấp trường, cấp huyện luôn tự tin mạnh dạn không nhút nhát, e dè, sợ sệt...
Giáo viên thường xuyên tuyên dương khích lệ những cá nhân tích cực
tham gia tập luyện và ghi nhận những thành quả của học sinh đã đạt được trong
những năm qua. Tạo được niềm tin, lòng tự hào của mỗi thành viên trong đội.
Đồng thời cũng thẳng thắn nêu và phân tích những khuyết điểm còn yếu kém,
khó khăn chưa khắc phục được.
Để làm được những điều như trên là giáo viên dạy môn thể dục như tôi
cần phải tìm hiểu kĩ thực trạng của học sinh mình từ đó đưa ra những biện pháp
tốt nhất, phù hợp nhất nhằm giúp cho đội tuyển Điền kinh của trường có được
chất lượng tốt nhất mang về nhiều thành tích cho nhà trường...
Bước vào thời kỳ đổi mới khởi đầu từ nghị quyết đại hội Đảng Toàn Quốc

lần thứ VI (1986) trong công tác TDTT nói chung và công tác GDTC trong các
trường học luôn được Đảng- Nhà nước quan tâm đầu tư về chất lượng GDTC
trong các trường học là một yêu cầu cấp bách để bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật, quản lý kinh tế, an ninh quốc phòng cho đất nước trên con đường
đổi mới.
Đảng, nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế
hệ trẻ. Trong đó Trí dục, Đức dục được coi là những vấn đề quan trọng nhằm
giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh- sinh viên người chủ tương lai của
đất nước những người lao động phát triển cao về trí tuệ , cường tráng về thể
chất, trong sáng về đạo đức.
Từ cơ sở trên, tôi thấy phải nghiên cứu tìm giải pháp để phát triển được
thành tích thể thao nói chung và điền kinh nói riêng một cách hợp lí và toàn diện
3


cho đội tuyển điền kinh của trường THPT Hà Trung nơi tôi và các đồng nghiệp
đang công tác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong những năm gần đây, việc bồi dưỡng đào tạo đội tuyển học sinh giỏi môn
GDTC hầu như chưa được chú trọng. Chủ yếu dựa vào thành tích sẵn có của học
sinh nếu có thì cũng mang tính thời vụ tức thời và hoàn toàn bị động chủ yếu là
dựa vào kế hoạch của cấp trên. Nghĩa là lúc nào tổ chức thi học sinh giỏi cấp
tỉnh thì khi đó nhà trường mới có kế hoạch triển khai tới tổ (nhóm) lên kế hoạch
tập luyện cho học sinh. Thông thường còn khoảng hai tháng là tới ngày thi đấu
thì học sinh mới được tập luyện. Trong hai tháng luyện tập học sinh không thể
tập luyện trong tất cả các ngày, nếu chúng ta cho học sinh tập luyện tất cả các
ngày liên tục tức là khối lượng quá nặng với các em, ngược lại nếu chúng ta
không cho các em tập luyện thường xuyên, liên tục thì không thể có thành tích
cao. Như vậy để các em có thời gian hồi phục hầu như không có, làm cho các
em càng tập càng mệt mỏi, dẫn đến thành tích sẽ bị ảnh hưởng.

Mặt khác do thời gian cập rập quá gấp nên việc lựa chọn, sàng lọc đội
tuyển chưa được chu đáo. Giáo viên chỉ nhìn vào thành tích trong một thời điểm
để tuyển chọn mà chưa nhìn nhận tới nhiều yếu tố khác liên quan đến công tác
tập luyện sau này như: Sự ổn định về thành tích, thể lực, tốc độ chạy... của từng
học sinh. Vì lẽ bất cập đó mà kết quả tập luyện của các em hầu như không có
nhiều biến chuyển thậm chí một số em thành tích không ổn định nên giáo viên
cũng khó xác định cũng như lựu chọn học sinh tham gia thi đấu. Trên cơ sở
nghiên cứu những yếu tố đặc trưng quyết định thành tích trong chạy 100m,
200m, 400m cho học sinh (nam) trong đề tài nghiên cứu nhằm xác định mức độ
tối thiểu của chạy cự li ngắn.
Thực trạng đối với học sinh. Hầu như các em không muốn tham gia vào
đội tuyển học sinh giỏi môn thể dục. Vì áp lực từ phía gia đình không muốn các
em tập luyện vất vả, tốn sức, mất thời gian, sao nhãng về việc học các môn văn
hóa và nhiều gia đình cũng cho rằng đầu tư thời gian cho TDTT chưu hẳn TDTT
sẽ mang lại lợi ích gì cho tương lai con em sau này, còn bản thân các em chưa
xác định được mục tiêu cần phải đạt được là gì. Chính vì vậy trong quá trình tập
luyện các em tập đang còn hời hợt, chiếu lệ không chú ý về mặt kĩ thuật dẫn tới
một số động tác sai mà các em đang còn mắc phải.
- Các động tác sai học sinh thường mắc phải:
+ Phản xạ chậm so với lệnh xuất phát.
+ Bước chạy đầu tiên ngắn hoặc dài quá.
+ Thân người nâng cao đột ngột do bước đầu tiên quá dài.
+ Chân đạp sau chưa tích cực.
+ Thân người ngả ra sau do hạ thấp trọng tâm cơ thể và không sử dụng hết
sức của chân ở thời kì đạp sau.
+ Đặt chân chạm đất bằng cả bàn chân hoặc gót bàn chân do bước quá dài,
tốc độ guồng chân chậm, lực đạp sau kém nên tốc độ di chuyển về trước chậm.
4



+ Chạy không thẳng hướng do không nhìn hoặc do chân chữ “ bát ”, “vòng
kiềng ”.
+ Không biết cách khi chạy, mà để người căng thẳng.
+ Không dùng ngực hoặc vai đánh đích.
+ Nhảy lên khi đánh đích.
+ Qua đích dừng lại đột ngột.
Thực trạng đối với giáo viên. Căn cứ vào tình hình thực tế nêu trên trước
hết người giáo viên phải làm cho các em hiểu được TDTT là một phần của cuộc
sống xã hội, nó luôn tồn tại và phát triển không ngừng và đã được Đảng, Nhà
nước rất quan tâm đến vấn đề TDTT đối với sức khoẻ của con người. Song bên
cạnh đó trong mỗi tiết học người Thầy phải xác định được nội dung chính trong
một tiết học để phân phối thời gian cho hợp lí, dạy phân đoạn hay hoàn chỉnh,
quan sát tranh, làm mẫu ở tư thế nào... biết phân phối lồng ghép nội dung bài
học một cách phù hợp, có biện pháp sửa sai cho từng nội dung ( giai đoạn ) hợp
lí, khuyến khích động viên kịp thời. Phương pháp tập luyện phong phú có thể
kết hợp phương pháp trò chơi vận động nhằm kích thích học sinh hưng phấn tập
luyện, giúp học sinh thấy được khối lượng vận động có phù hợp hay không phù
hợp để có những biện pháp khắc phục hợp lí nhằm đạt thành tích cao nhất.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có giáo viên cho học sinh ra sân tập tự khởi động
rồi giao nội dung bài học cho học sinh tự tập luyện không nêu nội dung yêu cầu
bài học, học sinh cần phải đạt được gì trong một tiết học đó. Giáo viên phân tích,
làm mẫu kĩ thuật chưa chính xác, chưa có biện pháp sửa sai hợp lí cho từng học
sinh, chưa xác định rõ được nội dung chính trong một tiết học, thiếu tự tin trong
giảng dạy, chưa tạo được hứng thú cho học sinh trong tập luyện, chưa nhiệt tình
trong trong từng tiết dạy. Chính vì vậy thành tích của các em đạt chưa cao.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
2.3.1: Giai đoạn tuyển chọn vận động viên chạy cự li ngắn.
Đây được coi là công việc hết sức quan trọng nên phải làm việc công phu,
chính xác. Trước hết phải chọn những em có thành tích tốt và ổn định, ngoài ra

tôi còn căn cứ vào những đặc điểm sau.
+ Lứa tuổi.
+ Thành tích cao nhất.
+ Thể hình: Chiều cao; cân nặng; vòng ngực ( bình thường, hít vào, thở ra).
+ Dung tích phổi.
+ Sức mạnh cơ lưng.
+ Sức mạnh cơ tay, chân.
+ Kết luận của bác sĩ về sức khỏe.
+ Phát triển thể lực.
+ Kết luận chung mặt yếu, mặt mạnh.
Sau khi tuyển chọn được vận động viên thì giáo viên lên kế hoạch, nội
dung và thời gian tập luyện. Kế hoạch huấn luyện theo hàng tháng, hàng tuần,
5


cho vận động viên ( hoặc nhóm ), nhiệm vụ cụ thể cho từng ngày, tuần hoặc
tháng.
Tháng (09-2016) Tôi cùng các đồng nghiệp đã điều tra thực trạng về thành tích
chạy (100m) của các em học sinh và đã chọn ra được 20 học sinh (nam) có
thành tích tốt nhất trường để huấn luyện, chúng tôi chia làm hai nhóm:
Nhóm 1 (Nhóm: Đối chứng) do giáo viên khác huấn luyện gồm 10 học sinh.
Nhóm 2 (Nhóm: Thực nghiệm) do tôi huấn luyện cũng gồm 10 học sinh.
Kết quả kiểm tra của nhóm: Đối chứng

TT

Họ và tên

Ngày
Lớp

Cự li 100m Thành tích
sinh
1
Lê Tuấn Anh
1998
12
X
14’’00
2
Phạm Xuân Dương
1998
12
X
14”10
3
Trần Văn Dần
1998
12
X
13”80
4
Vũ Lê Kha
1999
11
X
13”92
5
Trương Nhật Linh
1998
12

X
14”05
6
Trần Như Phong
1999
11
X
13”98
7
Hoàng Nhất Phương 1999
11
X
14”05
8
Phùng Văn San
1999
11
X
14”07
9
Lê Thành Trung
1998
12
X
13”94
10
Vũ Thành Trung
1998
12
X

13”84
Như vậy: Tính bình quân mỗi em trong nhóm chạy (100m) với thành tích đạt
được là: 13”98.
Kết quả kiểm tra của nhóm: Thực nghiệm
TT
Họ và tên
Ngày
Lớp
Cự li 100m Thành tích
sinh
1
Phùng Quang Anh
1998
12
X
13”98
2
Phạm Văn Bình
1999
11
X
14”05
3
Vũ Như Công
1998
12
X
13”84
4
Trương Trọng Hà

1999
11
X
14”02
5
Vũ Lê Hợp
1998
12
X
13”95
6
Mai Văn Hùng
1998
12
X
13”88
7
Trương Công Luật
1999
11
X
14”05
8
Hoàng Văn Thanh
1998
12
X
13”97
9
Trần Văn Thành

1999
11
X
14”09
10
Phạm Văn Xưởng
1999
11
X
14”04
Như vậy: Tính bình quân mỗi em trong nhóm chạy(100m) với thành tích đạt
được là: 13”99.
Căn cứ vào kết quả của hai nhóm sau khi kiểm tra chạy 100m, tôi đã so sánh và
nhận thấy không có sự khác biệt lớn về thành tích giữa hai nhóm trên (Dung sai
rất nhỏ <5%) cho phép tôi đi sâu vào thực nghiệm trong đề tài.
2.3.2. Giai đoạn huấn luyện.
6


Tiến hành tập luyện (Thời gian huấn luyện bắt đầu từ tháng (10-2016 đến hết
tháng 03-2017). Trên cơ sở 60 tiết huấn luyện theo qui định như những năm
trước tôi chia học trong 30 buổi ( mỗi buổi 2 tiết ) và tập luyện theo 4 giai đoạn
như sau.
2.3.2a: Giai đoạn huấn luyện ban đầu.
Giai đoạn này chủ yếu nhằm rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, tập phản xạ,
tăng cường sức nhanh, sức mạnh cho từng học sinh.
Thời gian tập (Tháng 10;11-2016) Với 8-10 tiết, chia làm 4-5 buổi, mỗi buổi
cách nhau 2- 3 ngày.
* Nội dung tập luyện:
Trước khi vào nội dung huấn luyện toàn diện, giáo viên cho học sinh tập

luyện và quan sát các em thực hiện để phát hiện ra những kĩ thuật sai mà các em
còn mắc phải để giúp các em sửa những kĩ thuật sai đó.
+ Giáo viên chỉ dẫn cho học sinh biết chỗ sai, sau đó làm mẫu đúng cho
học sinh bắt chước, kết hợp chỉ dẫn bằng tranh kĩ thuật ( hoặc băng, đĩa hình ).
+ Chơi các trò chơi phản xạ nhanh và khả năng tăng tốc.
+ Tập xuất phát chạy tăng tốc.
+ Tập các động tác phát triển sức mạnh của chân.
+ Đi, chạy chậm, chạy với tốc độ trung bình đặt bàn chân theo vạch kẻ
thẳng.
+ Tập phối hợp xuất phát- chạy lao- chạy giữa quãng với tốc độ cao nhất.
+ Đứng tại chỗ, đi, chạy chậm tập đánh đích ( bằng ngực hoặc vai )…
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là phát triển thể lực toàn diện của các
em, dạy cho chúng những bài tập khác nhau, gây cho các em sự ham thích thể
thao- đặc biệt là điền kinh.
Huấn luyện thể lực toàn diện, nâng cao mức độ chịu đựng chung của cơ thể,
tạo được vốn kĩ năng vận động, tăng tri thức để hình thành những nền tảng ban
đầu của tài năng thể thao.
Đặc điểm của giai đoạn này là sử dụng rộng rãi các phương tiện huấn luyện,
song có tính toán tới đặc thù của chạy ngắn.
+ Các bài tập phát triển thể lực. Sức nhanh mạnh và tập phản xạ. Ngoài ra
trong mỗi buổi tập không thể thiếu được đó là phần khởi động. Trong thời gian
này cho học sinh tăng cường tập thể lực bằng các bài tập như. Chạy nhanh tiếp
sức chuyển vật, trò chơi cướp cờ, bóng ma, tập chạy tại chỗ trên cát, trên đệm,
chạy luân phiên ở bậc thềm.
+ Các bài tập phát triển tốc độ. Chúng ta phải hiểu được rằng mục đích tập
luyện là phát triển tốc độ cho người tập ( nâng cao thành tích ). Mà tốc độ chính
bằng: Độ dài bước chạy + Tần số bước chạy.
Trong đó: Độ dài bước chạy là số đo của một bước chạy.
Tần số là số lần bước chạy trong một thời gian nhất định.
+ Các bài tập tăng và ổn định độ dài bước chạy.

- Thông thường độ dài bước chạy phụ thuộc chủ yế vào độ dài cẳng chân
của từng học sinh. Do đó để tăng độ dài bước chạy là không đáng kể, tuy nhiên
7


nếu được luyện tập tốt cũng có thể độ dài bước chạy sẽ được tăng lên hoặc ít
nhất cũng giữ được mức ổn định cần thiết.
- Muốn vậy, học sinh tăng cường các bài tập. Chạy đạp sau, chạy với vạch
qui định, chạy bước hoặc chạy qua rào.
- Nếu đạp sau càng nhanh thì thời gian đạp sau càng lớn.
- Đạp sau mạnh thì lực phản tác dụng khi đạp sau sẽ cùng độ lớn và nhất trí
với thời gian chuyển động.
- Đạp sau đúng phương hướng -> Không bị phân tán về lực.
- Đạp sau đúng góc độ. Góc độ khoảng 48˚ đến 52˚.
- Duỗi hết các khớp mới tận dụng được hết sức mạnh của cơ thông qua
trọng tâm cơ thể.
Như vậy, độ dài bước chạy phụ thuộc vào động tác đạp sau. Nếu đạp sau
không hết thì độ dài bước chạy sẽ bị hạn chế.
+ Các bài tập tăng tần số bước chạy.
Khi độ dài bước chạy đã đạt đến độ dài cần thiết và ổn định thì việc tăng và
duy trì tần số bước chạy sẽ quyết định đến thành tích của người tập. Như vậy
chúng ta cho học sinh tập luyện tốt các bài tập sau.
Chạy nâng cao đùi tại chỗ và di chuyển.
Chạy tại chỗ trên cát hoặc đệm.
Chạy tăng tốc độ theo đoạn ngắn.
Chạy biến tốc theo tín hiệu.
Lượng vận động này được tăng lên hợp lí trong từng buổi tập ( tránh tình trạng
tập quá tải hoặc quá hời hợt ). Cuối buổi tập giáo viên kiểm tra lại tần số bước
chạy của từng em và có biện pháp điều chỉnh. Giáo viên phải có nhật kí của từng
buổi tập, từ đó xác định các giai đoạn tập luyện cho phù hợp, đảm bảo nguyên

tắc tăng tiến về thể lực.
2.3.2b: Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu ( tập kĩ thuật ).
Giai đoạn tập luyện chuyên môn hoá ban đầu này nhằm nâng cao các giai
đoạn tập luyện trong kĩ thuật chạy cự li ngắn.
Thời gian tập (Tháng 11;12-2016 đến tháng 01-2017) Với 18-20 tiết, chia làm
9-10 buổi, mỗi buổi cách nhau 2- 3 ngày. Trước khi tập giai đoạn này giáo viên
cần phân tích, đánh giá cụ thể tỉ mỉ và khoa học theo một loạt các vấn đề sau.
+ Phân tích và khắc sâu cho học sinh những tiến bộ, thành tích trong những
năm qua, những điểm mạnh cần khai thác, các chỉ tiêu về lượng vận động mà
học sinh những năm trước đã thực hiện, những nguyên nhân còn hạn chế sự phát
triển của học sinh, những tiềm năng có thể phát huy được, đối chiếu với năng
lực của học sinh với cấu trúc thành tích cần phải đạt được về mặt thể lực, kĩ
thuật, chiến thuật, tâm lí, trí tuệ.
Phân tích về điều kiện cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác huấn luyện.
Phân tích về điều kiện khí hậu, thời tiết.
Kế hoạch về thời gian tập - giờ nào, ngày nào.
Xác định mục tiêu cần phải đạt được cho từng học sinh.
8


a. Phương pháp luyện tập giai đoạn chạy giữa quãng.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong chạy cự li ngắn. Chính vì vậy chúng
ta cần phải tập với các nội dung sau.
- Tiếp tục sử dụng các bài tập tăng độ dài và tần số bước chạy. Chạy đạp
sau, chạy nâng cao, chạy bước nhỏ.
- Sử dụng các trò chơi phát triển sức nhanh. Trò chơi chạy tiếp sức tạo
không khí thi đua sôi nổi trong học tập.
- Học sinh chạy 3/4 sức trên đường thẳng để giáo viên sửa chữa kĩ thuật
điều chỉnh lại hướng chạy, góc độ thân trên, điểm tiếp xúc với mặt đất của nửa
trước bàn chân trên.

b. Phương pháp tập luyện giai đoạn xuất phát, chạy lao.
Sau khi tập kĩ thuật của giai đoạn chạy giữa quãng tương đối ổn định cho
học sinh, tôi tiếp tục cho học sinh tập giai đoạn xuất phát và chạy lao từ với các
nội dung như sau.
Giới thiệu kĩ thuật xuất phát cao gồm có mấy hiệu lệnh (3 hiệu lệnh).
Thực hiện động tác theo hiệu lệnh “ vào chỗ ”, “ sẵn sàng ” “chạy”.
Tự xuất phát không hiệu lệnh.
Xuất phát cao với tín hiệu chạy khác nhau (tiếng hô, tiếng còi, tín hiệu cờ).
Xuất phát cao và chạy lao 30m- 40m.
c. Phương pháp tập giai đoạn về đích.
Ở giai đoạn này cũng hết sức quan trọng vì đây là một kĩ thuật hay còn gọi
là giai đoạn bảo vệ thành tích của các giai đoạn trước. Về mặt kĩ thuật còn cạnh
tranh về kĩ thuật đánh đích để được xếp thứ hạng cao hơn.
Thông thường chúng ta cho học sinh thực hiện kĩ thuật đánh đích bằng
ngực và vai là chủ yếu.
2.3.2c: Giai đoạn chuyên môn hóa sâu.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện về thể lực, kĩ thuật của
vận động viên chạy cự li ngắn.
Thời gian tập (Tháng 01;02;03-2017) Với 22-26 tiết, chia làm 11-13 buổi, mỗi
buổi cách nhau 2- 3 ngày.
Đặc điểm của giai đoạn này là tính chuyên môn hóa được thể hiện rõ hơn.
Tỷ trọng huấn luyện chuyên môn về thể lực, kỹ thuật, tâm lý được tăng lên đáng
kể. Khối lượng và cường độ của các phương tiện chủ yếu tăng nhiều hơn so với
các giai đoạn trước. Điều này diễn ra không chỉ do huấn luyện chung mà còn do
tăng số lượng các bài tập huấn luyện chuyên môn và thi đấu.
a. Huấn luyện sức nhanh tốc độ.
Trong giai đoạn này, để huấn luyện sức nhanh nên sử dụng các bài tập.
Chạy trong điều kiện khó hăn như chạy lên cầu thang, chạy lên dốc, xuống dốc.
Chạy trong các điều kiện dễ dàng hơn như ( chạy có sử dụng sức kéo nhân tạo ).
Chạy tăng tốc 30m: Nam. 3’’30- 3’’35.

Chạy tốc độ 50m.
Nam. 5’’40- 5’’45.
Chạy xuất phát cao. 02 lần.
Chạy xuất phát có dây chun 30m. 05 lần.
9


Chạy xuất phát cao 100m.
b. Huấn luyện thể lực.
- Chạy đạp sau 60m.
03 lần.
- Bật cóc 15- 20 m.
03 lần.
- Bật cao trên cát.
20 lần
Bài tập về cơ lưng, cơ bụng, cơ gấp bàn chân, cơ gấp và duỗi cẳng chân, cơ gấp
và duỗi đùi. (mỗi bài tập 25 lần).
2.3.2d: Giai đoạn hoàn thiện thể thao ( Kĩ thuật - chiến thuật ).
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện về thể lực cũng như kĩ
thuật trong chạy cự li ngắn để chuận bị cho vận động viên thi đấu.
Thời gian tập (Tháng 03-2017) Với 8-10 tiết, chia làm 4-5 buổi, mỗi buổi cách
nhau 2- 3 ngày.
Đặc điểm của giai đoạn này là trình độ chuyên môn của các vận động
viên chạy ngắn càng cao, lượng vận động trong huấn luyện tương ứng với thi
đấu càng lớn và việc tuân theo các nguyên tắc thích hợp càng nghiêm ngặt. Vì
vậy, chúng ta cần đặc biệt thận trọng điều hòa mối quan hệ giữa khối lượng và
cường độ của lượng vận động trong huấn luyện.
Khối lượng chủ yếu của các bài tập trong giai đoạn này là nhằm nâng cao
tốc độ chạy cực đại và hoàn thiện chạy lao sau xuất phát được thể hiện trong giai
đoạn huấn luyện chuyên môn. Áp dụng các bài chạy đủ khối lượng, đủ cự li

chạy 100m với toàn bộ kĩ thuật.
Giai đoạn này được tập từ với trình tự như sau.
Tiếp tục ôn chạy giữa quãng. Chạy tốc độ cao. 60- 80m sau đó chạy về
với 30% sức. Giai đoạn tập liên tục buổi sau cách buổi trước một ngày.
Ôn tập: Xuất phát cao chạy lao.
Xuất phát, chạy lao, giữa quãng và về đích.
Tổ chức thi đấu kiểm tra, rèn luyện ý chí, tâm lí thi đấu và trí tuệ.
Một trong những điều cần chú ý là sau khi hoàn thành quá trình huấn
luyện cần cho học sinh nghỉ khoảng một tuần trước khi thi đấu.
Đây cũng là một giai đoạn cực kì quan trọng, ngoài việc tổ chức tập luyện
để duy trì tốc độ cao, học sinh cần phải biết vận dụng liên kết giữa các giai đoạn
để đạt thành tích cao nhất. Mặt khác, đây là giai đoạn giáo viên luôn tổ chức
kiểm tra thi đấu, theo dõi thành tích hàng ngày của từng học sinh.
Trong các buổi tập giáo viên cần kết hợp cho học sinh nghỉ ngơi hợp lí
theo từng cự li chạy. Sau khi kiểm tra thi đấu giáo viên nhận xét cụ thể, tỉ mỉ về
kết quả tập luyện của từng học sinh, ghi nhật kí hàng ngày để theo dõi điều
chỉnh. Ngoài những nội dung mà giáo viên truyền thụ cho học sinh, giáo viên
cần ra bài tập về nhà để học sinh thường xuyên luyện tập ( theo yêu cầu của giáo
viên ). Kết hợp với chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lí (trong điều kiện cho
phép). Nhằm mục đích duy trì và đảm bảo thành tích luôn ở thời kì cao nhất.

10


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong lĩnh vực hoạt động TDTT, muốn có thành tích cao, muốn có sức
khỏe, muốn có kĩ năng chiến thuật tốt thì chỉ có một con đường duy nhất đó là
phải thường xuyên luyện tập. Nhưng luyện tập cũng có hai mặt của nó. Đó là
tích cực và tiêu cực. Tích cực trong trường hợp:

- Biết xây dựng kế hoạch hợp lí.
- Các bài tập được tăng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Khối lượng vận động phải từ ít đến nhiều, từ chưa có đến có.
Chính vì vậy, qua nhiều công trình nghiên cứu khoa học, người ta thấy cơ
thể có một điểm rất đặc biệt, đó là sự hồi phục năng lực làm việc của cơ thể
không chỉ dừng lại ở mức ban đầu ( trước khi tập ) mà còn hồi phục vượt mức
trong khoảng thời gian nhất định, sau đó mới giảm xuống rồi trở về mức ban
đầu.
Đặc điểm trên có một ý nghĩa rất đặc biệt trong TDTT. Bởi vì đó là cơ sở
để nâng cao năng lực làm việc từ đó nâng cao dần sức khỏe cho người tập. Khi
cơ thể bước vào thời kì hồi phục vượt mức ở đỉnh cao nhất, người ta tiến hành
tập buổi thứ hai cứ tập luyện như vậy bằng một hệ thống các bài tập được tính
toán một cách có khoa học, phù hợp với sức khỏe của mỗi người, theo một chế
độ chặt chẽ giữa tập luyện và nghỉ ngơi hợp lí. Cứ lần lượt như vậy, ta thấy năng
lực làm việc của cơ thể được nâng lên rõ rệt.
Phương pháp tập luyện tiêu cực. Cũng là tập luyện song không mang tính
khoa học, thời gian tập luyện ngắn mà lượng vận động lại quá lớn làm cho người
tập chưa hồi phục sức khỏe bằng mức ban đầu của buổi tập hai…nếu cứ tiếp tục
như vậy nhiều lần sẽ dẫn đến hiện tượng quá sức và sức khỏe sẽ không tăng lên
mà ngày càng sút kém đi.
Như vậy, tập luyện TDTT thường xuyên và có kế hoạch hợp lí thì sức
khỏe và thành tích chắc chắn sẽ được tăng lên.
Mặt khác, qua kiểm tra đánh giá cho ta thấy. Những học sinh giỏi về
chạy cự li ngắn đều học tốt các nội dung khác như chạy bền, nhảy cao, nhảy xa,
bóng đá, bóng chuyền, đá cầu... Như vậy có thể nói rằng. “ Một mũi tên ta đã
bắn trúng được mấy đích”.
- Sau thời gian huấn luyện chúng tôi kiểm tra lại và thu được kết quả như sau:
+ Đối với nhóm: Đối chứng

TT

1
2
3
4
5
6
7

Họ và tên
Lê Tuấn Anh
Phạm Xuân Dương
Trần Văn Dần
Vũ Lê Kha
Trương Nhật Linh
Trần Như Phong
Hoàng Nhất Phương

Ngày
sinh
1999
1999
1999
2000
1999
2000
2000

Lớp
12
12

12
11
12
11
11

Cự li 100m Thành tích
X
X
X
X
X
X
X

13’’60
13”70
13”72
13”74
13”85
13”68
13”75
11


8
9
10

Phùng Văn San

Lê Thành Trung
Vũ Thành Trung

2000
1999
1999

11
12
12

X
X
X

13”77
13”64
13”60

Như vậy: Tính bình quân mỗi em trong nhóm chạy (100m) với thành tích
đạt được là: (13”70).giảm 28% giây so với trước khi huấn luyện (13”98).
Kết quả kiểm tra của nhóm: Thực nghiệm
TT
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10

Họ và tên
Phùng Quang Anh
Phạm Văn Bình
Vũ Như Công
Trương Trọng Hà
Vũ Lê Hợp
Mai Văn Hùng
Trương Công Luật
Hoàng Văn Thanh
Trần Văn Thành
Phạm Văn Xưởng

Ngày
sinh
1999
2000
1999
2000
1999
1999
2000
1999
2000
2000

Lớp

12
11
12
11
12
12
11
12
11
11

Cự li 100m Thành tích
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X

13”56
13”55
13”44
13”62
13”65
13”48
13”52

13”57
13”59
13”64

Như vậy: Tính bình quân mỗi em trong nhóm chạy (100m) với thành tích
đạt được là (13”56) giảm 43% giây so với trước khi huấn luyện (13”99).
So sánh thành tích sau khi huấn luyện của hai nhóm cũng có sự khác biệt rõ rệt.
Nhóm: Đối chứng có thành tích là (13”70).
Nhóm: Thực nghiệm có thành tích là (13”56).
Nhận thấy sau thời gian huấn luyện thì thành tích chạy (100m) của các em cả hai
nhóm đều đã giảm rất nhiều: Nhóm đối chứng giảm 28% giây; Nhóm thực
nghiệm giảm 43% giây.
Qua quá trình giảng dạy và huấn luyện bản thân tôi đã áp dụng sáng kiến
trên, tôi thấy hiệu quả huấn luyện tăng lên rõ rệt. Học sinh nắm bắt tốt từng bài
tập một cách nhanh chóng, tăng hưng phấn, hứng thú trong luyện tập, thành tích
của các em trong quá trình luyện tập ngày một nâng cao. Chính vì vậy, năm học
2016- 2017 Trường THPT Hà Trung đã đạt được một số kết quả khá cao.

12


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Như vậy thành tích sau khi vận dụng phương pháp tập mới thì thành tích
chạy (100m) của học sinh (nam) đã giảm đi rất rõ rệt( 43%giây) Ngoài ra khi
kiểm tra cho thấy các chỉ số về thể lực và thể hình đều tăng lên. Nếu đem đối
chứng với bảng thống kê quá trình tập luyện của năm học trước thì kết quả sau
quá trình tập luyện năm học 2016- 2017 hoàn toàn hơn hẳn ở mọi thông số. Điều
đó khẳng định cùng khối lượng tập luyện nếu có phương pháp tuyển chọn và
huấn luyện hợp lí thì sẽ có kết quả cao hơn.

Trên đây là ở mức độ nghiên cứu của cá nhân tôi nên còn có nhiều thiếu
sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến chân thành của các bậc thầy và bạn bè
đồng nghiệp cho đề tài này. Như vậy đề tài sẽ hoàn chỉnh hơn để đóng góp cho
công tác giảng dạy môn học thể dục ở bậc THPT hiện nay. Từ đó góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy môn thể dục nói riêng và chất lượng giáo dục nói
chung, qua đó hoàn thành mục tiêu xây dựng con người việt Nam phát triển toàn
diện: Đức - Trí - Thể - Mỹ - Lao, góp phần vào việc “ Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, “Khoẻ để xây dựng bảo vệ Tổ Quốc”, giúp cơ
thể phát triển cân đối, nâng cao khả năng nhận thức, rèn luyện đức tính khiêm
tốn, tự tin, trung thực và cũng là để hình thành nhân cách cho các em. Để các
em yêu cuộc sống hơn.
3.2. Kiến nghị.
Đề nghị nhà trường tiếp tục cho tôi áp dụng các phương pháp huấn luyện
chạy cự li ngắn cho đội tuyển học sinh giỏi trong những năm tiếp theo.
Đề nghị các giáo viên nhà trường tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các
phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng và nghiên cứu lựa chọn các
phương pháp đó cho các môn khác nhau.
Đề nghị nhà trường tăng cường mua sắm thêm dụng cụ phục vụ cho giảng
dạy và huấn luyện môn thể dục để đáp ứng được nhu cầu hiện nay.
Qua thực tế giảng dạy và huấn luyện tôi đã áp dụng những phương pháp
trên, qua học hỏi bạn bè đồng nghiệp, quá trình tích luỹ cũng như tham khảo các
tài liệu đã giúp tôi rút ra một số kinh nghiệm trên và mong được sự tham khảo
và góp ý của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Trung, ngày 25 tháng 5 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
CAM ĐOAN KHÔNG COPY

Đỗ Trường Sơn

13


Tài liệu tham khảo
1.Phương pháp huấn luyện nội dung chạy cự li ngắn (TS Trần Đại Dương) nhà
xuất bản Đại học Thể dục thể thao ( Từ Sơn- Bắc Ninh) 2007.
2.Luật điền kinh (TS Nguyễn Mạnh Hà)- Nhà xuất bản Thể dục thể thao- Hà
Nội, xuất bản năm 2001.
3. Phương pháp giảng dạy môn điền kinh (TS Lương Việt Cường) nhà xuất bản
trường đại học thể dục thể thao Hà Nội năm 2009.
4. Sách giáo viên môn thể dục lớp 10, 11,12. Bộ giáo dục và đào tạo xuất bản
năm 2007 (Vũ Đức Thu ; Trương Anh Tuấn …).
5. Các nguồn thông tin, trang thông tin thể thao trên mạng.

14



×