Việt nam qua các thời kỳ lịch sử
Mc lc
ã
ã
ã
ã
ã
ã
ã
ã
ã
ã
ã
1 Tin sử
2 Thời Hồng Bàng
o 2.1 Nước Xích Quỷ
o 2.2 Nước Văn Lang
o 2.3 Nước Âu Lạc
3 Thời Bắc thuộc
o 3.1 Nam Việt
o 3.2 Nhà Hán
o 3.3 Sau nhà Hán
4 Thời phong kiến độc lập
o 4.1 Xây dựng và bảo vệ đất nước
o 4.2 Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
5 Thời Pháp thuộc
6 Tuyên bố độc lập
7 Chiến tranh Đông Dương
8 Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
o 8.1 Đất nước chia cắt
o 8.2 Chiến tranh lan rộng
9 Thống nhất và độc lập
o 9.1 Giai đoạn mới gần đây
10 Sự thay đổi tên
11 Ghi chú
Tiền sử
Khu vực nay là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các nơi cư ngụ tại Núi Đọ,
Ninh Bình và Nga Sơn, Thanh Hóa Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời
kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng (vào khoảng hơn 2500 năm trước Công Nguyên) Nền văn hóa Phùng Nguyên,
nằm xung quanh tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ ngày nay, xuất hiện từ năm 2000 TCN đến năm 1400 TCN. Đến khoảng
1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng
đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đơng Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng
được khai quật của văn hóa Đông Sơn cho thấy sự ảnh hưởng lên Đông Nam Á và cũng minh chứng cho việc kỹ thuật
đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây. Nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Nền văn hóa Đơng
Sơn có điểm giống nhau với những nền văn hóa được khai quật khác tại Đơng Nam Á (Khu mộ thuyền Prâyviêng,
Cánh đồng Chum - Lào, Các khu di tích khảo cổ Phukhet - Thái lan v.v...), ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài
và lọ chơn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen.
Thời Hồng Bàng
Bài chi tiết: Hồng Bàng
Nước Xích Quỷ
Trang - 1 -
Theo một số tài liệu cổ sử chưa có căn cứ chắc chắn., các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh
Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sơng Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông
Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của người Việt được hình thành từ năm 2879
TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam-Trung Quốc), đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc (thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 3
TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến
tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh
điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đơng
Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) thời kỳ này có thể nói đây là một "liên bang" lỏng lẻo giữa các
nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết
Giang, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam...
Nước Văn Lang
Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo tục truyền, các đời Hùng Vương trị vì nước Văn Lang của
người Lạc Việt (tên này được ghi trong sử sách người Trung Quốc)
được thành lập vào khoảng thế kỷ 7 TCN tại khu vực miền bắc Việt
Nam ngày nay, đóng đơ tại Phong Châu (Phú Thọ). Người Lạc Việt
được xem như là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.
•
Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[4] phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của
người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở
Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với
nước Việt (Yue) của Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang - Trung Quốc
ngày nay.
Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đơng bắc Văn Lang) của người Âu Việt đã bắt vua Hùng
Vương thứ 18 nhường ngơi cho mình và lập nên nước Âu Lạc, đóng đơ tại Cổ Loa, ngày nay là huyện Đông Anh (Hà
Nội).
Thời Bắc thuộc
Nam Việt
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay)
nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN) đã cát cứ vùng đất quận Nam Hải, đánh chiếm
các khu vực lân cận như Âu Lạc, Quế Lâm (Quảng Tây).
Khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Triệu Đà khôi phục và thống nhất các khu vực ông quản lý ở Quảng Đông, Quảng
Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay và tạo ra một vương quốc tên là Nam Việt. Chữ "Việt" là tên được người Trung
Quốc đặt cho những người sống ở vùng đất phía nam của đế quốc nhà Hán, kể cả thổ dân đồng bằng sông Hồng. Triệu
Đà chia vương quốc Nam Việt thành 9 quận quân sự, ba quận phía nam - Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân - là phần đất
của Âu Lạc. Các Lạc hầu vẫn cai quản vùng châu thổ sông Hồng,
nhưng với địa vị chư hầu cho Nam Việt.
Nhà Hán
Lãnh thổ Việt Nam thuộc nhà Hán năm 87 TCN
Trang - 2 -
Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung
Quốc muốn cai quản miền châu thổ sơng Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Ấn Độ và Indonesia.
Trong thế kỷ thứ nhất, các tướng Lạc vẫn còn được giữ chức. Trong thế kỷ thứ 1, Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng
hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu
quyền lực chính trị hơn. Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là
các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là
có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này.
Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và qn đội chưa tổ chức hồn thiện
nên khơng đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dịng sơng Hát để giữ vẹn khí
tiết. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được coi là sự kiện đấu tranh giành lại quyền độc lập đầu tiên của dân tộc Việt
Nam.
Sau nhà Hán
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc khác thay nhau đô hộ Việt Nam. Các triều đại này cố
gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy nhiên, sau 1000 năm Bắc thuộc, người Việt giành được độc lập
vào năm 938.
Trong hơn 1.000 năm bị Trung Hoa cai trị, người Việt chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị, xã hội và văn hóa của các
chế độ phương Bắc.
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đơng Á. Mặc dù lúc đó Đơng Nam Á đã
chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo
và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương
Thời phong kiến độc lập
Bài chi tiết: Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ
Xây dựng và bảo vệ đất nước
Lãnh thổ Việt Nam mở rộng sau các cuộc Nam tiến (1069-1757)
Năm 938, Việt Nam giành được độc lập. Năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ
Việt, năm 1054 đổi tên thành Đại Việt. Đại Việt trải qua nhiều chế độ phong
kiến: nhà Lý (thế kỷ 11, 12), nhà Trần (thế kỷ 13, 14), nhà Hồ (đầu thế kỷ 15),
nhà Hậu Lê (thế kỷ 15, 16, 17, 18), nhà Tây Sơn (cuối thế kỷ 18).
Trong thời kỳ này các vương triều Trung Hoa mang quân sang xâm lược,
nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui 2 lần
quân nhà Tống (thế kỷ 10 và 11), nhà Trần đánh bại quân nhà Nguyên 3 lần
(thế kỷ 13). Đầu thế kỷ 15 nhà Minh xâm chiếm được Việt Nam và cai trị
trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi và thành lập nhà Hậu
Lê, cuối thế kỷ 18 nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại.
Tuy nhiên, từ thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Lịch sử Việt Nam, từ khi Đại Việt độc lập vào thế kỷ 10, mang dấu ấn của hai
khuynh hướng chính. Dấu ấn đầu là sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mơ
hình kiểu Trung Hoa. Sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu chính
quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa; cơ cấu luật pháp, hành chính, văn
chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.
Dấu ấn thứ hai là sự bành trướng xuống phương Nam. Với một quân đội có tổ chức hơn, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất
nơng nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Giữa thế kỷ 11 và 17, Đại Việt đã tiêu diệt
Trang - 3 -
vương quốc Champa (ngày nay là miền Trung Việt Nam). Tiếp đó (thế kỷ 17, 18) xâm chiếm đồng bằng Nam Bộ của
người Khmer và vào đầu thế kỷ 19 cạnh tranh giành ảnh hưởng với Thái Lan ở Campuchia.
Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương
thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các
vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động sản xuất, thương mại hầu như chưa phát triển
mặc dù vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán với các vương quốc trong vùng tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh),
thời Trịnh - Nguyễn buôn bán với Châu Âu tại các trung tâm như Thăng Long, Hội An.
Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802)
Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
Vào thế kỷ 16, Việt Nam có nội chiến và đến thế kỷ 17 thì bị chia đôi: chúa
Trịnh ở miền Bắc và chúa Nguyễn ở miền Nam. Lấy ranh giới là sông Gianh
thuộc châu Bố Chính, nay là phía bắc Quảng Bình. Trong hai thế kỷ 17 và 18,
các chúa Nguyễn ở miền Nam tiếp tục mở rộng đất nước về phương Nam.
Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này.
Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ
chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, Khmer và Thượng-Tây
Nguyên. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử;
người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn. Tổ
chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã
được đơn giản hóa ở miền Nam[6].
Thời kỳ đất nước chia thành 2 lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong
cũng là thời kỳ hoạt động ngoại thương sơi động, cả Đàng Ngồi và Đàng
Trong đều tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân
Châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh,
Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật
Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, đồ sứ.
Tuy nhiên sang đến thế kỷ 18 thì hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Từ giữa thế kỷ 18, các cuộc chiến liên tục với Xiêm, Chân Lạp ở Đàng Trong
cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm
cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu
thất bại. Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn
- Bình Định đã phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ
Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê
vốn chỉ còn trên danh nghĩa. Nguyễn Huệ trở thành vua Quang Trung của nhà
Tây Sơn, đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm (1784) tại miền Nam và 20 vạn quân
Mãn Thanh (1789) xâm lược tại miền Bắc.
Cuộc nổi dậy đẩy lùi cuộc xâm chiếm của Trung Hoa, thống nhất hầu hết lãnh
thổ, và thay đổi hệ thống thương gia người Hoa ở Việt Nam. Họ chỉ thực sự bị
lúng túng khi điều hành chính quyền thực tế. Sau cái chết của Quang Trung
năm 1792, nội bộ lục đục khiến chính quyền càng ngày càng suy yếu.
An Nam Đại Quốc họa đồ năm 1838
Một người thuộc dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với
sự hậu thuẫn của một số người Pháp, đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm
Trang - 4 -
1802. Ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vua đầu tiên cai trị một đất nước thống nhất với hai
đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải.
Gia Long (1802-1820) đóng đơ ở Huế (trung tâm của đất nước). Ơng cho xây dựng Huế tương tự như Tử Cấm Thành
ở Bắc Kinh. Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820-1841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và
phương pháp hành chính Trung Hoa. Nhưng cố gắng này về lâu dài đã gây ra hậu quả xấu, đó là đất nước kém phát
triển rồi dẫn đến mất nước[cần dẫn nguồn]. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường
Tộ) đã đặt ra yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đáp lại,
vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883) chọn chính sách đã lỗi thời là
coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản) và ngăn cản Thiên chúa giáo, tôn giáo từ phương Tây.
Những nhà truyền giáo người Pháp thực ra đã có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 17. Họ cũng hỗ trợ nhân lực và vật
lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người cải đạo sang
Thiên chúa giáo[cần dẫn nguồn]. Chính quyền thực sự lo ngại sự hình thành của một tơn giáo có tổ chức nên đã sát hại những
người theo đạo Thiên chúa giáo và san bằng nhiều xóm đạo.
Thời Pháp thuộc
Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài
Gịn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ
thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm
chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở
miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt
và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam khơng thể kiểm sốt nổi mối
bất hịa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi qn đến đó, nhưng
cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.
Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy trì các hồng đế bù nhìn cho
đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức
phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức
ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở
trung ương là Phủ toàn quyền Đơng Dương. Đứng đầu Phủ tồn quyền gọi là
Tồn quyền Đơng Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính
trị Pháp trên tồn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3
kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều
nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông
Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm sốt của Tồn
quyền Đơng Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao.
Việt Nam bị chia làm 3 kỳ thuộc Liên bang Đông Dương
Những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Quốc
Dân Đảng ở Trung Hoa) năm 1927. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc
khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm
trọng. Cùng năm, một số thanh niên Việt Nam theo chủ nghĩa Marx-Lenin
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục
tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân
trong chính quyền Pháp.
Trang - 5 -
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho
Nhật tồn quyền cai trị Đơng Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn cơng
tồn bộ Đơng Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy
tín là Trần Trọng Kim đứng đầu và quốc kỳ là cờ quẻ ly.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) thành lập năm 1941 với vai trị một mặt trận của Đảng
Cộng sản Đơng Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới Việt-Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ơng trở về nước lần
đầu tiên kể từ 1911 (năm ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các
thập niên 1920 và 1930.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm
lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn
đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này
Tuyên bố độc lập
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh (dưới ngọn cờ độc lập dân tộc hơn là xã hội
chủ nghĩa) đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở miền Bắc và miền Trung Việt
Nam. Họ kém thành công hơn ở miền Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và
độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử đã được tổ chức. Những người
Cộng sản chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kì được
chọn là cờ đỏ, sao vàng 5 cánh.
Chiến tranh Đông Dương
Bài chi tiết: Chiến tranh Đông Dương
Tuy nhiên, Việt Nam chưa thực sự có được độc lập. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia Trung Hoa
giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy trì ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao cho Pháp trong sự chịu đựng
của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam, quân Nhật được giải giới bởi qn Anh-Ấn. Nhưng sau đó,
qn Anh-Ấn chán nản vì Sài Gòn quá hỗn độn đã chuyển giao cho Pháp. Cuối năm 1945, Pháp trở lại miền Nam Việt
Nam. Trong suốt năm 1946, chính quyền Hồ Chí Minh thương lượng với Pháp, mặc dù hai bên cũng chuẩn bị lực
lượng cho chiến tranh. Chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ tháng 12 năm 1946.
Đại đoàn 308 tiến vào tiếp quản thủ đô Hà Nội năm 1954, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ
Vào đầu năm 1947, Pháp có vẻ thắng và nắm được tồn bộ vị trí chiến lược
của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Minh kiên trì với chiến lược "chiến tranh nhân
dân", tổ chức và đào tạo dân chúng cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài. Trong
thời gian này, Pháp dựng lên một chính quyền bù nhìn đứng đầu là Quốc
trưởng Bảo Đại, với cờ quẻ ly là quốc kì. Chính quyền này có sự tham gia của
các quan lại cũ thân Pháp. Năm 1950, chính quyền cộng sản Trung Hoa và
Liên Xô bắt đầu trợ giúp Việt Minh với nhân lực và nguyên liệu. Bên kia, Pháp
được Mỹ hậu thuẫn. Nhưng đầu thập niên 1950, Pháp bắt đầu yếu đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ
(gắn liền với tên tuổi nhà chiến lược quân sự Việt Minh Võ Nguyên Giáp) vào tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn toàn
nỗ lực của Pháp nhằm giữ Việt Nam và tồn bộ Đơng Dương.
Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
Đất nước chia cắt
Trang - 6 -
Sau trận chiến Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh.
Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là một cuộc đình chiến và tạm phân đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17.
Miền Bắc được lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh dưới tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Miền Nam được lãnh đạo bởi Bảo
Đại (thoái vị năm 1945 và trở thành quốc trưởng bù nhìn dưới quyền Pháp năm 1949) dưới tên Quốc gia Việt
Nam.1.100.000 người theo Thiên chúa giáo ở miền Bắc đã di cư vào Nam.
Chính quyền Hồ Chí Minh xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng vì hiệp định này có dự định cho một
cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956 để thành lập một quốc gia thống nhất, một cuộc tuyển cử mà họ cho rằng họ sẽ
thắng vì vai trị phổ biến của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên cuộc tuyển cử đã khơng bao giờ diễn ra. Người Pháp triệt
thoái, nhưng Người Mỹ lại hậu thuẫn Ngơ Đình Diệm, một tín đồ Thiên chúa giáo và một người quốc gia bảo thủ, lên
làm Thủ tướng dưới quyền Bảo Đại. Năm 1955, Ngơ Đình Diệm thắng trong cuộc trưng cầu dân ý mà nhiều người
xem là giả tạo, cho phép ông lên làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng hòa của Việt Nam Cộng hịa. Bảo Đại lưu
vong sang Pháp. Ngơ Đình Diệm từ chối tham gia vào tổng tuyển cử toàn quốc.
Ở miền Bắc, chính quyền Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao
gồm nông nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh. Nhưng của cơng cuộc
cải cách ruộng đất theo chỉ dẫn của cố vấn Trung Quốc[cần dẫn nguồn] đã đấu tố giết hại hàng ngàn[cần dẫn nguồn] địa chủ và cả
trung nơng miền bắc.Mặt khác nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo đã bị đưa đi cải tạo, kiểm điểm hoặc treo bút vì viết bài
khơng đúng ý nhà cầm quyền trong cuộc thanh trừng Nhân văn Giai phẩm.
Tại miền Nam, Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngơ Đình Diệm xây dựng một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên những
xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính quyền mới bắt đầu thực
thi những chính sách "Tố cộng", "Diệt cộng", đàn áp tôn giáo nhất là đạo Phật vốn chiếm số đông trong các tầng lớp
dân chúng. Nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền, (Quảng Trị), ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng trăm
tù nhân cộng sản bằng hơi độc).
Từ năm 1959, chính quyền miền Bắc hậu thuẫn cho tổ chức Mặt trận Giải phóng Dân tộc (MTGPDT). MTGPDT kêu
gọi lịng yêu nước và giá trị đạo lý của người Việt Nam, hứa hẹn chống lại sự can thiệp Mỹ và thành lập chính quyền
tốt đẹp hơn. Điểm lưu ý là vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài trăm người.
Đầu thập niên 1960, quân vũ trang của MTGPDT tấn công rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều cuộc đánh
bom ở Sài Gòn. Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tăng cường viện trợ cho Ngơ Đình Diệm và gửi 17.500 "cố vấn" Mỹ
đến Việt Nam vào năm 1963 thực chất là để giật dây chính quyền này. Cả thế giới lên án chính quyền Ngơ Đình Diệm
đàn áp tơn giáo khi một loạt các cuộc biểu tình của hàng vạn Phật tử nổ ra ở các thành thị chủ yếu của miền nam. Điển
hình có vụ nhà sư Phật giáo, hịa thượng Thích Quãng Đức tự thiêu phản đối chế độ Ngơ Đình Diệm. Thơng cáo của
Hoa Kỳ gửi cho các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa kêu gọi họ chống lại những chính sách q khắt khe của Ngơ Đình
Diệm Tướng lĩnh Qn lực Việt Nam Cộng hịa đảo chính và ám sát Ngơ Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm
dứt nền Đệ nhất Cộng hịa.
Khơng lâu sau khi Ngơ Đình Diệm chết, Kennedy bị ám sát và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên làm tổng thống
Mỹ. Mới lên làm tổng thống, Johnson tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa (ngày 24
tháng 11 năm 1963).
Cái chết của Ngơ Đình Diệm làm cho miền Nam càng thêm bất ổn.Giới lãnh đạo quân sự mới quá thiếu kinh nghiệm
trong chính trị, khơng thể thâu tóm được quyền lực trung ương như dưới thời Ngơ Đình Diệm. Việc đảo chính lan tràn
khắp miền Nam đã cho chính quyền miền Bắc nhiều lý do tin rằng đã đến lúc họ có thể trực tiếp can thiệp vào miền
Nam.
Chiến tranh lan rộng
Bài chi tiết: Chiến tranh Việt Nam
Năm 1964, những trận đụng độ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tàu khu trục do thám của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ
(ngày 7 tháng 4 năm 1964) là nguyên cớ khiến Johnson ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt
Trang - 7 -
Nam tham chiến. Về sau này người ta mới được biết khi đó Hoa Kì sợ hiệu ứng domino cộng sản nên đã cố tình tìm
cách can thiệp vào Việt Nam và gây ra vụ này.
Chiến tranh Việt Nam bắt đầu bùng nổ năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và
Lào, và các trận khơng kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ, Hàn
Quốc (Nam Hàn), Thái Lan, Úc, New Zealand (Tân Tây Lan) và Philippines (Phi Luật Tân). Một bên là Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGP). Liên Xơ và Trung Quốc cung cấp hỗ
trợ quân sự cho Bắc Việt Nam và MTDTGP nhưng không gửi quân sang (cố vấn Trung quốc và Bắc Hàn được xác
nhận đã hiện diện tại miền Bắc vào những năm chiến tranh).
Việt Cộng cho nổ bom giữa Sài Gòn năm 1965
Ngày 8 tháng 3 năm 1965, 3.500 lính thuỷ quân lục chiến (Marine
Corps) Hoa Kỳ trở thành lính chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào miền
Nam Việt Nam, cộng thêm 25.000 cố vấn Mỹ đang ở đây. Ngày 24
tháng 7 năm 1965, Mỹ không kích Bắc Việt Nam. Ngày 29 tháng 7,
4.000 lính nhảy dù của Sư đồn Khơng vận thứ 101 (của Hoa Kỳ)
đến Việt Nam, đổ bộ ở Vịnh Cam Ranh. Ngày 18 tháng 8, 5.500 hải
quân Mỹ đụng độ trận đầu tiên với MTDTGP ở đồn Vạn Tường
(Quảng Ngãi).
Năm 1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống của nền Đệ
nhị Cộng hịa của Việt Nam Cộng hịa, ơng duy trì ghế Tổng thống
đến năm 1975.
Ở miền Bắc, quân Mỹ ném bom phá huỷ làng mạc, nhà cửa, khu dân cư, làm hàng ngàn người chết, hàng vạn người
phải đi sơ tán. Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng.
Chiến tranh lan rộng khắp miền Nam. Người dân miền Nam thường sống trong lo sợ vì bom đạn đánh nhau ở mọi nơi.
Chất độc màu da cam được quân đội Mỹ sử dụng gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và làm gần 1 triệu
người bị nhiễm độc
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của quân Bắc Việt Nam và MTDTGP vào hầu hết các thành phố chính của
miền Nam Việt Nam (ngày 30 tháng 1 năm 1968) tuy thất bại về mặt quân sự nhưng đã làm cho Johnson và dân chúng
Mỹ mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam.
Ngày 30 tháng 10 năm 1968, trong vòng đàm phán hịa bình tại Paris, Johnson tun bố dừng hồn tồn "tất cả cuộc
khơng kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam", có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11. Tuy nhiên, một năm sau, tổng
thống kế nhiệm, Richard Nixon, thông báo Mỹ quay trở lại Chiến tranh Việt Nam.
Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh", theo đó: giảm quân Mỹ và tăng viện
trợ, tăng quân Nam Việt Nam ở mọi cấp độ, gia tăng khơng kích cả Bắc và Nam Việt Nam, cũng như tại Campuchia
để tiêu diệt quân Bắc Việt Nam đang đồn trú ở đây.
Mỹ rút quân khỏi Việt Nam năm 1973, theo Hiệp định Paris
Cùng lúc đó hội đàm Paris đã được khởi động lại giữa Mỹ và Bắc Việt
Nam/MTDTGP. Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hịa bình Paris
mới được ký giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời của MTDTGP sau sự thất
bại nặng nề của các cuộc khơng kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các
thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa kỳ tiến hành
cuối năm 1972. Điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều
khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình
Trang - 8 -
chiến, hỗn tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thối qn
hồn tồn trong vịng 60 ngày.
Nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn, hai bên quân đội tại Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm điều khoản đình chiến
trong hiệp định Paris. Tháng 8 năm 1974, Nixon từ chức vì vụ Watergate. Tinh thần quân đội Việt Nam Cộng hịa suy
giảm nghiêm trọng vì tổng thống mới của Mỹ, Gerald Ford, không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm nhiều
tiền cho chiến trường Việt Nam. Giữa tháng 3 năm 1975, quân đội VNDCCH/MTDTGP mở cuộc tấn công ở Tây
Nguyên khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ. Ngày 30 tháng 4
năm 1975, quân miền Bắc chiếm được Sài Gịn, chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Người Mỹ cuối cùng bỏ chạy khỏi đây chỉ 2 giờ trước đó, song song với cuộc tháo chạy của quân đội Việt Nam Cộng
hòa.
Thống nhất và độc lập
Ngày 25 tháng 4 năm 1976, hai miền của Việt Nam được thống nhất thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng hồ
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Tuy nhiên, do những sai lầm của giới lãnh đạo, chủ trương thống nhất mọi mặt theo tiêu chuẩn miền Bắc (thí dụ, kế
hoạch xã hội hóa toàn bộ kinh tế miền Nam nhằm hợp nhất với kinh tế miền Bắc) đã làm cho quốc gia mới này rơi vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Nhóm các nhà lãnh đạo chủ trương cấp tiến bị thất sủng, phe bảo thủ thắng thế, lên nắm
quyền và phạm liên tiếp các sai lầm. Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, một phần do thiên tai và lũ lụt năm 1977 và
1978. Hậu quả của các sai lầm về lãnh đạo và kinh tế đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế và nạn đói, gây ra một làn sóng
người vượt biên chưa từng có trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1978 Từ tiếng Anh boat people ("thuyền nhân")
lần đầu tiên xuất hiện cũng do sự kiện này.
Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân vào Campuchia và đánh đuổi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ của Pol Pot, sau khi
quân Khmer Đỏ tấn công các tỉnh Tây Ninh và Kiên Giang. Để trả đũa, Trung Quốc, vốn ủng hộ chế độ Pol Pot, tấn
cơng biên giới phía bắc của Việt Nam, gây ra cuộc Chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979. Sự kiện này đã gây
nên cuộc khủng hoảng "nạn kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người Hoa và Việt gốc Hoa chạy khỏi Việt
Nam về Trung Hoa hoặc gia nhập nhóm "thuyền nhân" chạy sang nước khác.
Những sai lầm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng làm suy yếu uy tín của các nhà lãnh đạo bảo thủ và tạo điều kiện để
nhóm cấp tiến giành lại chính quyền. Năm 1985, những cải cách của Mikhail Sergeyevich Gorbachov ở Liên Xơ đã
kích thích mạnh mẽ những người cải cách ở Việt Nam
Trong thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên đến
774,7% vào năm 1986.
Giai đoạn mới gần đây
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi mới", đứng đầu là ơng Nguyễn Văn Linh,
để hợp lý hóa cơ cấu hành chính, cải cách cơ cấu đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh tế theo
hướng kinh tế thị trường.
Công cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất
khẩu. Trước 1989 Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu: 1-1,5 triệu tấn
gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm: 4,4 triệu tấn (2004), 4,9 triệu tấn (2005), đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo.
Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%) và năm 2005 lạm phát chỉ còn 8,5%.
Trong thời gian 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến
tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1% (1991) xuống còn
12,7% (1995) và 4,5% (1996).
Trang - 9 -
Năm 2004 Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng vị trí thứ hai
trong khu vực sau Singapore. (Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD, khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg–
Vorpommern của Đức). Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu (tăng 30%)
cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng (10,2%). Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam
là 8,4%.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ bn bán với trên 100 nước. Các công ty
của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và gia nhập khối ASEAN, APEC..., ngày 7 tháng 11 năm 2006 đã trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới.
Sự thay đổi tên
Bài chi tiết: Quốc hiệu Việt Nam
Dưới thời cai trị của Trung Quốc, Việt Nam được người Trung Quốc gọi là An Nam (có nghĩa là "miền Nam yên
bình" theo hy vọng của Trung Quốc). Khi Việt Nam độc lập, nó được gọi là Đại Cồ Việt, Đại Ngu hay Đại Việt. Năm
1804, vua Gia Long xin phép nhà Thanh đổi tên nước thành Nam Việt, lý do là thống nhất An Nam và Việt Thường.
Để tránh sự hiểu lầm với quốc hiệu của nhà Triệu và đề phòng việc yêu sách đất đai, nhà Thanh yêu cầu đảo thứ tự hai
từ thành Việt Nam. Năm 1838, dưới thời Nguyễn, tên nước được đổi tạm thời thành Đại Nam. Dưới thời thực dân
pháp, Việt Nam bị chia thành: Tonkin (Bắc kỳ hay Bắc Việt Nam), Annam (Trung kỳ hay Trung Việt Nam), và
Cochinchine (Nam kỳ hay Nam Việt Nam).
Tên gọi của Việt Nam qua các thời như sau:
•
•
•
Xích Quỷ: Thời Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN
•
(thuộc)Nam Việt: Bắc thuộc thời nhà Triệu
•
Nam Việt gồm lãnh thổ Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây)
(thuộc)Giao Chỉ: Bắc thuộc thời Hán
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Văn Lang: Thời Hùng Vương
Âu Lạc: Thời An Dương Vương
Giao Chỉ bộ gồm miền bắc Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây)
Giao Châu: Bắc thuộc từ thời nhà Đông Ngô đến nhà Đường
Vạn Xuân: Giai đoạn độc lập dưới thời nhà Tiền Lý năm (542 - 602)
An Nam Đô hộ phủ: Bắc thuộc thời Đường (618-866)
Tĩnh Hải quân: tiếp tục trong thời thuộc Đường qua thời Tự chủ tới hết thời nhà Ngô (866-967)
Đại Cồ Việt: 968 - 1054 thời nhà Đinh - Tiền Lê và đầu thời Nhà Lý
Đại Việt: 1054 - 1400 thời nhà Lý-nhà Trần
Thời vua Lý Anh Tông, năm 1164 nhà Tống công nhận một quốc gia độc lập, tên An Nam Quốc
Đại Ngu: 1400-1407 ("Ngu" nghĩa là "hồ bình") thời Nhà Hồ
Đại Việt: 1428 - 1802 thời Nhà Hậu Lê - Nhà Tây Sơn và 03 năm đầu thời nhà Nguyễn
Việt Nam: Nhà Nguyễn từ năm 1804 - 1839
Đại Nam: Nhà Nguyễn từ năm 1839 - 1887
Từ năm 1887, Pháp chia Việt Nam ra làm 3 xứ tương đương với 3 vương quốc là Tonkin (Bắc kỳ), Annam (Trung kỳ), Cochinchine (Nam
kỳ), cả 3 đều nằm trong Liên bang Đông Dương
Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 - tháng 8 năm 1945]] dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim
Quốc gia Việt Nam: 1949 - 1955 với quốc trưởng Bảo Đại do Pháp dựng lên
Trang - 10 -
•
•
•
Việt Nam Cộng hòa: tồn tại từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay.
Ghi chú
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
^ Ở đây, lịch sử được quy ước là tính từ thời điểm có sự tồn tại của con người trên lãnh thổ. Cịn nếu hiểu lịch sử là tính từ khi Nhà nước
được thành lập (thông thường vào thời kỳ đồ sắt), thì lịch sử Việt Nam có thể bắt đầu muộn hơn (cuối thời kỳ văn hóa Đơng Sơn).
^ Ngơ Sĩ Liên, Đại Việt sử ký tồn thư
^ Lê Đạo Nguyên chú giải, Thủy kinh chú
^ Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB VHTT, 2005, tr.21
^ Khắc Thành - Sanh Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Trẻ, 2003, tr.266
^ Khắc Thành - Sanh Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Trẻ, 2003, tr.268
^ William Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế Giới, 2007, tr.10
Trang - 11 -