Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Công nghiệp Quang Minh.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.88 KB, 99 trang )

Luận văn cuối khoá
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao và phát triển tương đối hoàn diện. Hoạt động kinh tế đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những bước tiến mới, đặc biệt kể từ
khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO vào
tháng 11/2006. Sự kiện trọng đại này đã mang đến cho Việt Nam cơ hội mở
rộng giao thương, nhưng đồng thời cũng tạo ra thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Để tăng sức cạnh tranh, tiếp tục tồn tại và phát triển, các doanh
nghiệp phải quan tâm đến việc hoạch định và kiểm soát chi phí bởi vì lợi
nhuận thu được nhiều hay ít, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chi phí đã bỏ ra.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
làm ra là hoạt động kinh doanh chủ yếu. Đó là quá trình người lao động sử
dụng các tư liệu lao động tác động lên các đối tượng lao động, làm nó thay
đổi hình thái vật chất ban đầu, hình thành nên các sản phẩm mới để thoả
mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Trong quá trình sản xuất, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra các
khoản chi phí để tiến hành sản xuất, mặt khác doanh nghiệp sẽ thu được kết
quả sản xuất bao gồm thành phẩm và sản phẩm dở dang. Để đảm bảo bù
đắp được chi phí và có lãi, các doanh nghiệp phải tính toán sao cho với
lượng chi phí bỏ ra có thể thu được kết quả cao nhất, đặc biệt là phải tính
toán chính xác giá thành sản xuất của các sản phẩm làm ra để có căn cứ xác
định mức chi phí cần bù đắp cũng như giá bán của sản phẩm, cuối cùng là
tính toán kết quả kinh doanh đạt được trong kỳ kế toán. Thông qua đó có
thể xác đánh giá được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để kiểm soát tốt các khoản
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
1
Luận văn cuối khoá
chi phí, từ đó hạ giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, tạo điều


kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Xuất phát từ ý nghĩa đó nên công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm luôn là vấn đề quan trọng trong các doanh
nghiệp sản xuất. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Công tác kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Công
nghiệp Quang Minh” làm đề tài luận văn của mình
* Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu (sổ sách, bảng biểu, chứng từ...) của Công ty
- Quan sát quy trình, cách thức tiến hành công việc của các nhân viên
kế toán tại phòng kế toán
- Xác minh những thông tin tự tìm hiểu được bằng cách hỏi lại kế
toán trưởng
Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Chương II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Công
nghiệp Quang Minh
Chương III: Một số nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại Công ty TNHH Công nghiệp Quang Minh
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
2
Luận văn cuối khoá
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Sự cần thiết và nhiệm vụ của tổ chức công tác kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất

1.1.1. Bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật chất, để tiến hành quá trình
hoạt động sản xuất, tất yếu phải có ba yếu tố, đó là: sức lao động, đối tượng
lao động, tư liệu lao động. Ba yếu tố này tham gia vào quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh và hình thành nên các chi phí tương ứng: chi phí về lao
động sống, chi phí về đối tượng lao động, chi phí về tư liệu lao động.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là
quá trình doanh nghiệp bỏ ra các loại chi phí để hoàn thành sản phẩm, công
việc, lao vụ…Có thể khái quát theo ba giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Doanh nghiệp chuẩn bị, mua sắm các yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, đối tượng lao động,
tư liệu lao động.
+ Giai đoạn 2: Giai đoạn vận động, kết hợp các yếu tố đầu vào của
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Gọi là giai đoạn biến đổi nội tại
có chủ đích nhằm đạt được mục đích.
+ Giai đoạn 3: Thực hiện các việc tiêu thụ sản phẩm, lao vụ đã hoàn
thành ở giai đoạn 2. Gọi là giai đoạn thực hiện giá trị và giá trị sử dụng sản
phẩm của doanh nghiệp
Để tăng cường hiệu lực của công tác quản lý, sử dụng thông tin kế
toán nói chung, kế toán chi phí và giá thành sản phẩm nói riêng cần phải
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
3
Luận văn cuối khoá
làm rõ bản chất chi phí doanh nghiệp và chi phí sản xuất, cơ cấu, nội dung
chi phí và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các hao phí
về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng
thước đo tiền tệ, được tính cho một thời kỳ nhất định. Như vậy, bản chất
của chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là:

+ Những phí tổn (hao phí) về các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất kinh doanh gắn liền với mục đích kinh doanh.
+ Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã
tiêu hao trong kỳ và giá cả một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.
+ Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được đo lường
bằng thước đo tiền tệ và được xác định trong một khoảng thời gian xác
định.
Trên góc độ kế toán tài chính, chi phí được nhìn nhận như những
khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp bao
gồm các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
thông thường của doanh nghiệp và các chi phí khác. Những chi phí này
phát sinh dưới dạng tiền, hàng tồn kho, khấu hao máy móc thiết bị, được kế
toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu bằng chứng chứng minh việc
phát sinh của chúng.
Trên góc độ của kế toán quản trị, chi phí không đơn thuần nhận thức
chi phí như kế toán tài chính, mà chi phí còn được nhận thức theo cả khía
cạnh nhận diện thông tin để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Vì
vậy chi phí có thể là phí tổn thực tế đã chi ra trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định,
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
4
Luận văn cuối khoá
cũng có thể là ước tính khi thực hiện dự án hay giá trị lợi ích mất đi khi lựa
chọn phương án này mà bỏ qua cơ hội kinh doanh khác.
1.1.2. Yêu cầu quản lý quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm
Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý
chi phí sản xuất, quản lý giá thành sản phẩm thực chất là quản lý việc sử
dụng lao động, vật tư, tiền vốn một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.

Như vậy, vấn đề đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất là phải tiết
kiệm một cách triệt để chi phí sản xuất để sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm lớn hơn, chất lượng cao hơn, giá thành hạ thấp hơn. Do vậy tăng
cường quản lý chi phí sản xuất là yêu cầu mang tính tất yếu, xuyên suốt quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh
nghiệp phải thực hiện bằng nhiều biện pháp đồng bộ; đặc biệt là trong điều
kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu cùng tồn
tại đan xen và đều bình đẳng trong cùng một môi trường pháp lý. Nền kinh
tế hoạt động tuân theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật lưu thông…; Nhà nước
điều tiết thông qua hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách; các doanh
nghiệp hoạt động trong nền kinh tế lấy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận để
phấn đấu và kết hợp được giữa lợi ích của nhà nước- doanh nghiệp- lao
động. Doanh nghiệp được Nhà nước giao cho quyền tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế đầy đủ. Trong
bối cảnh đó, việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất, quản lý giá thành là
một yêu cầu mang tính cấp thiết, tất yếu trong công tác quản lý doanh
nghiệp. Để đạt được các yêu cầu đó, các doanh nghiệp phải quản lý chi phí
một cách chặt chẽ theo định mức, theo dự toán và đúng với mục đích sử
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
5
Luận văn cuối khoá
dụng chi phí. Yêu cầu của quản lý giá thành sản phẩm là quản lý mức độ
giới hạn chi phí để sản xuất ra sản phẩm, nghĩa là quản lý theo giá thành kế
hoạch với từng khoản mục. Muốn vậy, trước hết phải xác định được chi
nào là chi phí hợp lý, chi phí nào là chi phí bất hợp lý, chi phí nào được
tính vào giá thành, chi phí nào không tính vào giá thành. Đồng thời các
nguyên tắc, phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở, phương pháp tính giá
thành cũng phải được áp dụng một cách khoa học, hợp lý và nhất quán
nhằm đảm bảo tính giá thành sản phẩm mang tính khách quan, phản ánh

đúng, đầy đủ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm.
Như vậy, xuất phát từ những yêu cầu của quản lý chi phí sản xuất
kinh doanh và quản lý giá thành sản phẩm, phải tổ chức tốt công tác kế
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tính đúng,
tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Việc hạch toán đầy đủ,
đúng đắn, chính xác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn nhằm xác
định được chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở định
giá bán, xác định được hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, xác
định đúng đắn phần nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước.
1.1.3. Sự cần thiết và nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm
Chi phí và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ
thống các chỉ tiêu kinh kế phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có
mối quan hệ mật thiết với doanh thu, kết quả (lãi, lỗ) hoạt động sản xuất
kinh doanh, do vậy được chủ doanh nghiệp rất quan tâm.
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm một cách
khoa học, hợp lý và đúng đắn có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi
phí, giá thành sản phẩm. Việc tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của
chi phí phát sinh ở doanh nghiệp, ở từng bộ phận, từng đối tượng, góp phần
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
6
Luận văn cuối khoá
tăng cường quản lý tài sản, vật tư lao động, tiền vốn một cách tiết kiệm, có
hiệu quả. Mặt khác tạo điều kiện phấn đấu tiết kiệm chi phí hạ thấp giá
thành sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng tạo cho doanh
nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh.
Mặt khác, giá thành sản phẩm còn là cơ sở để định giá bán sản phẩm,
là cơ sở để đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, phân tích chi phí, đồng thời
còn là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh, kế toán chi phí chi phí và
tính giá thành sản phẩm với nội dung chủ yếu thuộc về kế toán quản trị,

cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Song nó lại
là khâu trung tâm của toàn bộ công tác kế toán ở doanh nghiệp, chi phối
đến chất lượng của các phần hành kế toán khác cũng như chất lượng và
hiệu quả của công tác quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp
Kế toán doanh nghiệp cần phải xác định rõ vai trò và nhiệm vụ của
mình trong việc tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm như sau:
-Trước hết cần nhận thức đúng đắn vị trí vai trò của kế toán chi phí
và tính giá thành sản phẩm trong toàn bộ hệ thống kế toán doanh nghiệp,
mối quan hệ với các bộ phận kế toán có liên quan, trong đó kế toán các yếu
tố chi phí là tiền đề cho kế toán chi phí và tính giá thành
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công
nghệ sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, khả năng hạch
toán, yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để lựa chọn, xác định đúng
đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi
phí sản xuất theo các phương án phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, đặc điểm của
sản phẩm, khả năng và yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để xác
định đối tượng tính giá thành cho phù hợp.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
7
Luận văn cuối khoá
- Tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân
công rõ ràng trách nhiệm của từng nhân viên, từng bộ phận kế toán có liên
quan, đặc biệt bộ phận kế toán các yếu tố chi phí
- Thực hiện tổ chức chứng từ, hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản,
sổ kế toán phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực, chế độ kế toán đảm bảo
đáp ứng được yêu cầu thu nhận- xử lý- hệ thống hóa thông tinh về chi phí,
giá thành của doanh nghiệp
- Tổ chức lập và phân tích các báo cáo kế toán về chi phí, giá thành
sản phẩm, cung cấp những thông tin cần thiết về chi phí, giá thành sản

phẩm, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp ra được các quyết định một cách
nhanh chóng, phù hợp với quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
1.2. Nội dung công tác tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1.2.1.1 Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của của toàn bộ hao phí về lao
động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất, trong một thời kỳ nhất định.
Trong doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất gồm nhiều khoản chi
có nội dung, công dụng và mục đích sử dụng không giống nhau. Để thuận
tiện cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí đáp ứng được yêu cầu
của kế toán, thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường tiết kiệm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm thì chi phí sản xuất kinh doanh cần phải được phân loại
theo những tiêu thức phù hợp. Việc phân loại chi phí sản xuất là một yêu
cầu tất yếu, phải tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà có thể phân loại chi
phí sản xuất theo những tiêu thức khác nhau.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
8
Luận văn cuối khoá
Việc xác định tiêu thức phân loại phù hợp, khoa học và hợp lý có ý
nghĩa quan trọng đối với việc hạch toán, kiểm tra, phân tích chi phí sản
xuất của toàn doanh nghiệp cũng như các bộ phận cấu thành bên trong
doanh nghiệp.
* Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt
động:
Theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động, chi phí được
chia thành:
- Chi phí khả biến (chi phí biến đổi, biến phí): là những chi phí
thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi mức hoạt động của doanh nghiệp.

Mức độ hoạt động có thể là số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng sản
phẩm tiêu thụ, số giờ máy hoạt động, doanh thu bán hàng thực hiện…
Trong một doanh nghiệp sản xuất, biến phí tồn tại khá phổ biến
như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
năng lượng…
Biến phí được chia thành biến phí tỷ lệ và biến phí thay đổi không
tỷ lệ trực tiếp
- Định phí (chi phí bất biến, chi phí cố định): là những chi phí mà
về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động của
đơn vị. Định phí luôn tồn tại dù doanh nghiệp có hoạt động hay không.
Định phí tồn tại dưới nhiều hình thức:
+ Định phí tuyệt đối
+ Định phí cấp bậc
+ Định phí bắt buộc
+ Định phí không bắt buộc
- Chi phí hỗn hợp: là chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của
định phí và biến phí
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
9
Luận văn cuối khoá
* Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng kế toán chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia
thành: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng
đối tượng kế toán tập hợp chi phí (như từng loại sản phẩm, công việc,
đơn đặt hàng…). Nếu loại chi phí này chiếm đa số trong tổng chi phí thì
thuận lợi cho việc kiểm soát chi phí và dễ dàng trong việc xác định
nguyên nhân gây ra chi phí. Chúng dễ nhận biết và hạch toán chính xác,
phần lớn chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp là

chi phí trực tiếp
- Chi phí gián tiếp: là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng
kế toán tập hợp chi phí khác nhau nên không quy nạp trực tiếp cho từng
đối tượng tập hợp chi phí được, mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh
chi phí khi chúng phát sinh, sau đó quy nạp cho từng đối tượng theo
phương pháp phân bổ gián tiếp.
Khi thực hiện phân bổ chi phí cho từng đối tượng, doanh nghiệp
cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. Mức độ hợp lý của chi phí
phân bổ cho từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của
tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật quy nạp chi
phí vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Thông qua cách phân loại
này, các nhân viên kế toán có thể tư vấn để nhà quản trị doanh nghiệp
đưa ra và thực hiện một số cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý để
đa số các khoản chi phí có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng tập
hợp chi phí. Từ đó giúp cho việc kiểm soát chi phí được thuận lợi hơn.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
10
Luận văn cuối khoá
* Phân loại chi phí theo mối quan hệ với quy trình công nghệ sản
xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành hai loại:
chi phí cơ bản và chi phí chung
- Chi phí cơ bản: là các chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình
công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất, chi
phí khấu hao tài sản cố định dùng trực tiếp vào sản xuất sản phẩm…
- Chi phí chung: là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý
sản xuất có tính chất chung như chi phí quản lý ở các phân xưởng sản
xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp

Với cách phân loại chi phí này có thể giúp các nhà quản trị doanh
nghiệp xác định được phương hướng tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành
sản phẩm
Đối với chi phí cơ bản là chi phí liên quan trực tiếp đến quy trình
công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm, vì vậy không thể cắt bỏ một loại
chi phí nào mà phải phấn đấu giảm thấp chi phí thông qua quản lý việc
sử dụng chi phí bằng định mức tiêu hao hoặc cải tiến quy trình công
nghệ, hợp lý hóa sản xuất…Ngược lại, đối với chi phí sản xuất chung
cần phải tiết kiệm triệt để, hạn chế, thậm chí loại trừ các khoản chi phí
không cần thiết, tăng cường quản lý chi phí chung theo dự toán, chế độ
chi tiêu.
1.2.1.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề mà các doanh nghiệp luôn đặt ra
làm mục tiêu hàng đầu, đó là lợi nhuận. Để tăng cường lợi nhuận đòi hỏi
các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
11
Luận văn cuối khoá
thành sản phẩm. Đây là con đường cơ bản giúp các doanh nghiệp tăng lợi
nhuận một cách chắc chắn và có hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất cũng vậy, mục tiêu của nhà sản
xuất là làm sao hạ thấp được giá thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất
lượng sản phẩm. Hạ được giá thành sản phẩm sản xuất là cơ sở hạ giá bán
sản phẩm và tăng sản lượng tiêu thụ để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của
xã hội, đẩy nhanh vòng quay vốn và đem lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp, từ đó nâng cao tích luỹ cho doanh nghiệp để có thể tái sản xuất và
nâng cao đời sống người lao động.
Như vậy, giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là biểu hiện bằng
tiền của các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc,
lao vụ) nhất định đã hoàn thành.

Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả
sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng
như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kĩ thuật và công nghệ
mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ thấp chi
phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là căn cứ để xác định
giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất. Vì vậy sản
phẩm sản xuất ra cần phải tính giá thành. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế
hiện nay với mức độ cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp thì đòi hỏi sự
cần thiết là các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mặt hàng, nâng cao
chất lượng sản phẩm và hạ giá thành để từ đó tăng nguồn lợi nhuận cho
doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong và
ngoài nước.
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý và hạch toán, giá thành sản phẩm
được phân chia làm nhiều loại khác nhau, tuỳ theo các tiêu thức sử dụng để
phân loại giá thành
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
12
Luận văn cuối khoá
* Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được chia thành ba
loại sau:
- Giá thành sản phẩm kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính toán
trên cơ sơ chi phí kế hoạch và số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch. Giá
thành kế hoạch bao giờ cũng được tính toán trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ. Giá thành sản phẩm
kế hoạch là mục tiêu phấn đấu trong kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nó cũng là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành sản phẩm định mức: là giá thành sản phẩm được tính trên
cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm.

Định mức chi phí được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế- kỹ
thuật của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Giá thành sản phẩm
định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Giá thành sản phẩm thực tế: là giá thành sản phẩm được tính toán
và xác định trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát sinh và tập hợp
được trong kỳ cũng như số lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất và tiêu thụ
trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được khi kết thúc quá trình
sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá thành
và giá thành đơn vị. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải
pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và công nghệ... để thực hiện quá trình sản
xuất ra sản phẩm. Giá thành sản phẩm thực tế cũng là cơ sở để xác định kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định nghĩa
vụ của doanh nghiệp với nhà nước cũng như với các bên liên quan.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
13
Luận văn cuối khoá
* Phân loại giá thành căn cứ vào phạm vi và chi phí cấu thành:
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm dược phân biệt thành
các loại giá thành sau:
- Giá thành sản xuất toàn bộ: là loại giá thành mà trong đó bao gồm
toàn bộ biến phí và định phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cho sản phẩm hoàn thành
- Giá thành sản xuất theo biến phí: là loại giá thành mà trong đó chỉ
bao gồm biến phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sản xuất chung (biến phí sản xuất) tính cho sản phẩm hoàn
thành
- Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý định phí sản xuất: là loại giá
thành trong đó bao gồm toàn bộ biến phí sản xuất tính cho sản phẩm sản

xuất hoàn thành và một phần định phí sản xuất được phân bổ trên cơ sở
mức hoạt động thực tế so với mức hoạt động theo công suất thiết kế
- Giá thành toàn bộ theo biến phí: là loại giá thành sản phẩm trong đó
bao gồm toàn bộ biến phí tính cho sản phẩm tiêu thụ
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: bao gồm giá thành sản
xuất và chi phí ngoài giá thành sản xuất tính cho sản phẩm tiêu thụ
1.2.2. Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất
1.2.2.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể phát sinh ở
nhiều địa điểm khác nhau, liên quan đến việc sản xuất chế tạo các loại sản
phẩm, lao vụ khác nhau. Các nhà quản trị doanh nghiệp cần biết được các
chi phí phát sinh đó ở đâu, dùng vào việc sản xuất sản phẩm nào...Chính vì
vậy chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ phải được kế toán tập
hợp theo một phạm vi, giới hạn nhất định. Đó là đối tượng kế toán chi phí
sản xuất
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
14
Luận văn cuối khoá
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi và giới hạn để tập hợp
chi phí sản xuất theo các phạm vi và giới hạn đó. Xác định đối tượng kế
toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên trong việc tổ chức kế toán chi phí sản
xuất. Thực chất của việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là xác
định nơi gây ra chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, giai đoạn công
nghệ...) hoặc đối tượng chịu chi phí (sản phẩm, đơn đặt hàng...)
Khi xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất trước hết các nhà
quản trị phải căn cứ vào mục đích sử dụng của chi phí sau đó phải căn cứ
vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quản lý sản xuất kinh doanh,
quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất sản phẩm, khả năng, trình
độ và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể mà đối tượng kế toán chi

phí sản xuất trong các doanh nghiệp có thể là:
- Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng
- Từng phân xưởng, giai đoạn công nghệ sản xuất
- Toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, toàn doanh nghiệp
Xác định đối tượng chi phí sản xuất một cách khoa học hợp lý là cơ
sở để tổ chức kế toán chi phí sản xuất, từ việc hạch toán ban đầu đến tổ
chức tổng hợp số liệu, ghi chép trên tài khoản, sổ chi tiết...
1.2.2.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử
dụng để tập hợp phân loại các khoản chi phí phát sinh trong một kỳ theo
các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định. Nội dung cơ bản của phương
pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ vào các đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất đã xác định để mở các sổ kế toán nhằm ghi chép, phản ánh
các chi phí phát sinh theo đúng các đối tượng hoặc tính toán, phân bổ chi
phí phát sinh cho các đối tượng đó.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
15
Luận văn cuối khoá
Tuỳ vào khả năng quy nạp của chi phí vào các đối tượng tập hợp chi
phí, kế toán sẽ áp dụng các phương pháp tập hợp chi phí sản xuất một cách
thích hợp. Thông thường tại các doanh nghiệp hiện nay có hai phương pháp
tập hợp chi phí như sau:
- Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp:
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp chi phí có liên quan trực
tiếp đến các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, tức là đối với các loại
chi phí phát sinh liên quan đến đối tượng nào có thể xác định được trực tiếp
cho đối tượng đó, chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng tập hợp
chi phí cụ thể đã xác định sẽ được tập hợp và quy nạp trực tiếp cho đối
tượng đó.
Phương pháp này yêu cầu kế toán phải tổ chức công tác hạch toán

một cách cụ thể, tỉ mỉ từ khâu lập chứng từ ban đầu, tổ chức hệ thống tài
khoản, hệ thống sổ kế toán...theo đúng các đối tượng tập hợp chi phí đã xác
định, có như vậy mới đảm bảo các chi phí phát sinh tập hợp đúng theo các
đối tượng một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ
- Phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp:
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp các chi phí gián tiếp, đó
là các chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã
xác định mà kế toán không thể tập hợp trực tiếp các chi phí này cho từng
đối tượng đó.
Theo phương pháp này, trước tiên căn cứ vào các chi phí phát sinh
kế toán tiến hành tập hợp chung các chi phí có liên quan đến nhiều đối
tượng theo địa điểm phát sinh hoặc nội dung chi phí. Để xác định chi phí
cho từng đối tượng cụ thể phải lựa chọn các tiêu chuẩn hợp lý và tiến hành
phân bổ các chi phí đó cho từng đối tượng liên quan.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
16
Luận văn cuối khoá
Việc phân bổ chi phí cho từng đối tượng thường được tiến hành theo
hai bước sau:
+ Bước 1: Xác định hệ số phân bổ theo công thức:
H= C/T
Trong đó: H: Hệ số phân bổ chi phí
C: Tổng chi phí cần phân bổ cho các đối tượng
T: Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của các đối tượng
cần phân bổ chi phí
+ Bước 2: Xac định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng tập hợp cụ thể:
Ci = H X Ti
Trong đó: Ci: phần chi phí phân bổ cho đối tượng i
Ti: đại lượng tiêu chuẩn phân bổ dùng để phân bổ chi phí
của đối tượng i

Đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ (còn được gọi là đơn vị công)
được lựa chọn tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.. Tính chính xác, độ tin cậy
của thông tin về chi phí phụ thuộc rất nhiều vào tính hợp lý của tiêu chuẩn
phân bổ được lựa chọn.
Việc xác định tiêu chuẩn phân bổ chi phí có thể được xác định riêng
rẽ theo từng nội dung chi phí cần phân bổ, khi đó cũng phải xác định hệ số
phân bổ theo từng nội dung chi phí này hoặc cũng có thể xác định chung
cho tất cả các chi phí cần phân bổ. Việc xác định tiêu chuẩn phân bổ tuỳ
thuộc vào đặc thù cụ thể của từng doanh nghiệp.
1.2.2.3. Tổ chức kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
* Chứng từ sử dụng: Phiếu xuất kho, Phiếu nhập kho…
* Tài khoản sử dụng: TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm các khoản chi phí về
nguyên vật liệu chính, nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ...sử dụng
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
17
Luận văn cuối khoá
trực tiếp cho việc sản xuất chế tạo sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các
lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp thường được quản lý theo các định mức chi phí do
doanh nghiệp xây dựng. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ
được xác định căn cứ vào các yếu tố sau:
- Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng cho quá trình sản xuất
chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong kỳ
- Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp còn lại đầu kỳ ở các bộ phận, phân
xưởng sản xuất
- Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp còn lại cuối kỳ ở các bộ phận, phân
xưởng sản xuất

- Trị giá phế liệu thu hồi (nếu có)
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định theo
công thức:
Chi phí NVL Trị giá NVL Trị giá NVL Trị giá NVL Trị giá phế
trực tiếp thực = trực tiếp còn + trực tiếp xuất + trực tiếp còn + liệu thu hồi
tế trong kỳ lại đầu kỳ dùng trong kỳ lại cuối kỳ (nếu có)
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sử dụng để sản xuất sản phẩm tại
các doanh nghiệp chủ yếu là chi phí trực tiếp, nên thường được tập hợp trực
tiếp cho từng đối tượng trên cơ sở các sổ “ Sổ chi tiết chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp” được mở cho từng đối tượng căn cứ vào chứng từ xuất kho
vật tư và báo cáo sử dụng vật tư ở từng bộ phận sản xuất
Trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có liên quan đến
nhiều đối tượng tập hợp chi phí mà không thể tập hợp trực tiếp được thì có
thể sử dụng phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp. Khi đó tiêu chuẩn
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
18
Luận văn cuối khoá
sử dụng để phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cho các đối tượng có
thể là:
- Đối với chi phí nguyên vật liệu chính, nửa thành phẩm mua ngoài
có thể lựa chọn tiêu thức phân bổ là: chi phí định mức, chi phí kế hoạch,
khối lượng sản phẩm sản xuất
- Đối với chi phí vật liệu phụ, nhiên liệu…tiêu chuẩn phân bổ có thể
lựa chọn là: chi phí định mức, chi phí kế hoạch, chi phí nguyên vật liệu
chính, khối lượng sản phẩm sản xuất…
- Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621-
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
* Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu:
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kê khai thường xuyên

+ Xuất kho nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trong kỳ:
Nợ TK 621
Có TK 152
+ Trường hợp mua nguyên vật liệu sử dụng ngay cho sản xuất chế
tạo sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ không qua kho
Nợ TK 621
Nợ TK 133
Có TK 111,112,141,331…
+ Cuối kỳ có nguyên vật liệu sử dụng chưa hết, nhập lại kho
Nợ TK 152
Có TK 621
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
19
Luận văn cuối khoá
+ Cuối kỳ, căn cứ tài liệu tính toán, xác định chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp sử dụng cho các đối tượng, kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp cho các đối tượng
Nợ TK 154
Nợ TK 632
Có TK 621
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kiểm kê định kỳ
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, việc tổ chức kế toán khoản mục
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vẫn giống như phương pháp kê khai
thường xuyên, được thực hiện trên TK621- Chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp
1.2.2.4. Tổ chức kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
* Chứng từ sử dụng: Bảng chấm công, Bảng phân bổ tiền lương
và các khoản trích theo lương

* Tài khoản sử dụng: TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công
nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ,
dịch vụ gồm: tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền
trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo số tiền
lương của công nhân sản xuất.
Chi phí tiền lương được xác định cụ thể tuỳ thuộc hình thức trả
lương sản phẩm hay thời gian mà doanh nghiệp áp dụng. Số tiền lương phải
trả cho công nhân sản xuất cũng như các đối tượng lao động khác thể hiện
trên bảng tính lương và thanh toán lương, được tổng hợp, phân bổ cho các
đối tượng kế toán chi phí sản xuất trên bảng phân bổ tiền lương. Trên cơ sở
đó các khoản trích theo lương tính vào chi phí nhân công trực tiếp được
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
20
Luận văn cuối khoá
tính toán căn cứ vào số tiền lương công nhân sản xuất của từng đối tượng
và tỷ lệ trích quy định theo quy chế tài chính hiện hành của từng kỳ
Giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp thường là các khoản chi phí trực tiếp nên nó được tập hợp trực tiếp
vào các đối tượng tập hợp chi phí liên quan. Trong trường hợp không tập
hợp trực tiếp được thì chi phí nhân công cũng được tập hợp chung sau đó
kế toán sẽ phân bổ cho từng đối tượng theo một tiêu chuẩn phân bổ hợp lý.
Các tiêu chuẩn thường được sử dụng để phân bổ chi phí nhân công trực tiếp
là: chi phí tiền lương định mức (hoặc kế hoạch), giờ công định mức, giờ
công thực tế, khối lượng sản phẩm sản xuất ra…
Để kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK
622- Chi phí nhân công trực tiếp.
* Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu:
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kê khai thường xuyên

+ Kế toán phản ánh số tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ
cấp và các khoản khác có tính chất lương phải trả cho công nhân sản xuất
Nợ TK 622
Có TK 334
+ Nếu doanh nghiệp có thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép
của công nhân sản xuất, căn cứ kế hoạch trích trước tiền lương công nhân
nghỉ phép, kế toán ghi
Nợ TK 622
Có TK 335
+ Căn cứ bảng phân bổ tiền lương, trích BHXH, BHYT, KPCĐ…kế
toán ghi
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
21
Luận văn cuối khoá
Nợ TK 622
Có TK 338
+ Cuối kỳ, tính toán kết chuyển (hoặc phân bổ) chi phí nhân công
trực tiếp cho các đối tượng chịu chi phí để tính giá thành sản phẩm
Nợ TK 154
Nợ TK 632
Có TK 622
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kiểm kê định kỳ
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, việc tổ chức kế toán khoản mục
chi phí nhân công trực tiếp vẫn giống như phương pháp kê khai thường
xuyên, được thực hiện trên TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp
1.2.2.4. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chung
* Chứng từ sử dụng: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ, Bảng
phân bổ Công cụ dụng cụ, Phiếu chi…
* Tài khoản sử dụng: TK 627- Chi phí sản xuất

Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí cần thiết khác phục
vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận
sản xuất, bao gồm:
- Chi phí nhân viên phân xưởng
- Chi phí vật liệu
- Chi phí dụng cụ sản xuất
- Chi phí khấu hao TSCĐ
- Chi phí dịch vụ mua ngoài
- Chi phí khác bằng tiền
Chi phí sản xuất chung được tổ chức tập hợp theo từng phân xưởng,
đội sản xuất, quản lý chi tiết theo từng yếu tố chi phí, mặt khác chi phí sản
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
22
Luận văn cuối khoá
xuất chung còn phải được tổng hợp theo chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Cuối kỳ sau khi đã tập hợp được chi phí sản xuất chung theo từng phân
xưởng, kế toán tính toán, phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng đối
tượng kế toán chi phí sản xuất trong phân xưởng theo những tiêu chuẩn
phân bổ hợp lý. Việc tính toán xác định chi phí sản xuất chung tính vào chi
phí chế biến sản phẩm còn phải căn cứ vào mức công suất thực tế của phân
xưởng:
+ Chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ vào chi phí chế biến
cho mỗi đơn vị sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy
móc sản xuất. Trường hợp mức sản xuất thực tế sản xuất cao hơn công suất
bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định phân bổ theo chi phí thực tế
phát sinh. Trương hợp mức sản phẩm sản xuất thấp hơn công suất bình
thường, thì chỉ được phân bổ theo mức công suất bình thường, phần chi phí
chung không được phân bổ, được ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
+ Chi phí sản xuất chung biến đổi được phân bổ hết trong kỳ theo chi

phí thực tế.
Kế toán sử dụng TK 627- Chi phí sản xuất chung để kế toán tập hợp
và phân bổ chi phí sản xuất chung.
* Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu:
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kê khai thường xuyên
+ Tập hợp chi phí nhân viên:
Nợ TK 627
Có TK 334
Có TK 338
+ Tập hợp chi phí dụng cụ sản xuất
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
23
Luận văn cuối khoá
Nợ TK 627
Có TK 153
Có TK 142, 242
+ Tập hợp chi phí khấu hao TSCĐ:
Nợ TK 627
Có TK 214
+ Tập hợp chi phí dịch vụ mua ngoài:
Nợ TK 627
Có TK 111, 112, 331…
+ Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả phân bổ, kế toán kết chuyển phần chi
phí sản xuất chung phân bổ vào chi phí chế biến sản phẩm
Nợ TK 154
Có TK 627
Phần chi phí sản xuất chung không được phân bổ vào chi phí chế
biến sản phẩm, được ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
Nợ TK 631

Có TK 627
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kiểm kê định kỳ
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, việc tổ chức kế toán khoản mục
chi phí sản xuất chung vẫn giống như phương pháp kê khai thường xuyên,
được thực hiện trên TK 621- Chi phí sản xuất chung
1.2.3. Tổ chức kế toán đánh giá sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc đang trong quá
trình sản xuất, gia công chế biến trên các giai đoạn của quy trình công
nghệ, hoặc đã hoàn thành một vài quy trình chế biến nhưng vẫn còn phải
gia công, chế biến tiếp tục mới trở thành thành phẩm.
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
24
Luận văn cuối khoá
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản
xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Tuỳ vào đặc điểm sản xuất
của từng doanh nghiệp mà sản phẩm dở dang cuối kỳ có thể được đánh giá
theo một trong các phương pháp sau:
- Đánh giá sản phẩm làm dở theo chi phí nguyên vật liệu chính trực
tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Điều kiện áp dụng: Phương pháp này được áp dụng trong trường
hợp doanh nghiệp có chi phí nguyên liệu, vật liệu chính trực tiếp ( hoặc chi
phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản
xuất; khối lượng sản phẩm dở dang ít và tương đối ổn định giữa các kỳ
+ Nội dung: Chỉ tính cho sản phẩm dở phần chi phí nguyên liệu, vật
liệu chính trực tiếp (hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp), còn các chi phí
sản xuất khác được tính hết cho số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Trường hợp doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu
chế biến liên tục thì chi phí sản xuất dở dang của giai đoạn công nghệ sau được
xác định theo giá thành nửa thành phẩm của giai đoạn trước chuyển sang

= x
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn
thành tương đương:
+ Điều kiện áp dụng: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm một tỷ
trọng không lớn trong tổng chi phí sản xuất; khối lượng sản phẩm dở dang
lớn và không ổn định giữa các kỳ, đánh giá được mức độ hoàn thành của
sản phẩm dở dang
+ Nội dung: Tính cho sản phẩm dở dang cuối kỳ cả chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp và các chi phí sản xuất khác
Nguyễn Thị Thuý Quỳnh Lớp: K42/21.06
25

×