Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

ĐỀ TÀI 09: TÁI CHẾ NHỰA VÀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TẠI MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.4 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI 09: TÁI CHẾ NHỰA VÀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TẠI MỸ.
Danh sách nhóm:
Nguyễn Trí Vũ Anh

1022012

Võ Thị Kim Anh

1022017

Phạm Lê Hải Sơn

1022248

Keyword:
-

Indiscriminate disposal of wastes: Thải bỏ CTR một cách bừa bãi.
Combustion: phương pháp đốt.
Incinerator: lò đốt.
PET: Polyethylene terephthalate
HDPE: high density polyethylene.
Environment compatibikity :khả năng tương thích với môi trường.
Municipal solid waste (MSW): chất thải rắn đô thị.
Waste-to-energy (WTE): chất thải thành năng lượng.
Integrated waste management: quản lý chất thải tổng hợp.

-

Tổng quan
Sự nâng cao nhận thức về môi trường đã góp phần to lớn vào việc quan tâm đến


lối sống và sự thải bỏ bừa bỏ chất thải rắn. Trong suốt thế kỷ qua, họ đã cố gắng giải
quyết vấn đề phức tạp này theo hướng tính cực hơn.Đây là 1 cuộc thảo luận ngắn về
những nổ lực của Mỹ trong việc giải quyết tình trạng chất thải rắn và đặc biệt là nhựa.
Những nổ lực đã bắt đầu cho thấy những kết quả khả quan. Chất thải rắn đô thị thải ra
mỗi năm đã bắt đầu giảm từ 211.5 triệu tấn năm 1995 xuống còn 209.7 triệu tấn năm
1996. Tỷ lệ tái chế và làm phân compost tăng lên. Thải bỏ vào các bãi chôn lấp giảm (từ
60.9% xuống 55.5% năm 1996). Xử lý CTR bằng phương pháp đốt tăng lên. Vấn đề này
chủ yếu dựa vào sự hiệu quả của các lò đốt mới và khả năng loại bỏ bụi và khí độc hại.
Nhựa thì nhỏ nhưng có ý nghĩa to lớn trong dòng thải. Điều đáng chú ý là lượng nhựa
được tái chế tăng lên. Năm 1997 khoảng 317 triệu ký chai nhựa HDPE và 294 triệu kg
nhựa PET được tái chế. Việc tái chế các sản phẩm bền, như các bộ phận của xe oto, thảm.
đồ điện,thiết bị gia đình đang được nghiên cứu. Khả năng tương thích với môi trường và


có thể tái chế đang được xem xét trong suốt quá trình thiết kế những bộ phận mới. Đánh
giá vòng đời và quản lý được nghiên cứu như là công cụ ra quyết định.
1. Giới thiệu.

Sự theo đuổi chất lượng cuộc sống cao hơn là mục tiêu của con người trong thế
giới này. Điều này góp phần làm tăng sự tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Hậu quả
của việc tiêu thụ quá nhiều là gia tăng sự ô nhiễm và lượng chất thải lớn. Mục tiêu
của phát triển bền vững là sử dụng có hiệu quả nguồn năng lượng trong từng bước
của hệ thống, từ sự sản xuất hàng hóa đến xử lý chất thải, tối đa nhất. Sự phụ
thuộc lẫn nhau trong từng bước của tổng thể, đòi hỏi việc giải quyết vấn đề trong
tổng thể. Đây là nhiệm vụ lớn và phức tạp. Trong bài này, chỉ tập trung vào sự thải
ra chất thải rắn và việc quản lý chúng, đặc biệt là nhựa trong dòng thải ở Mỹ. Cách
tiếp cận quản lý CTR tổng hợp được xem xét có liên quan đến việc sử dụng vật
liệu, tái chế và xử lý.
2. Chất thải rắn đô thị.
Hầu hết người tiêu dùng đều tạo ra chất thải rắn, cũng như 1 phần của chất thải

công nghiệp được tạo ra ở đất nước này, được xử lý ở các bãi chôn lấp. Tuy nhiên
trong suốt thế kỷ qua, nhận thức về môi trường đã tăng lên. Câu hỏi được đặt ra là
tính khả thi của hoạt động xử lý chất thải rắn bừa bãi. Kết quả là, những tiến bộ
đáng kể được tạo ra trong quản lý tốt hơn CTR và sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên đất đai. Tổng lượng CTR đô thị thải ra đã giảm. Lượng chất thải theo đầu
người cũng giảm và hoạt động tái chế và ủ phát triển (Bảng 1). Số lượng bao bì
loại bỏ và hàng hóa bền được cắt giảm (Bảng 2). Lượng đáng kể CTR được tái chế
và/hoặc ủ (Bảng 3). Xử lý CTR bằng phương pháp đốt cũng tăng. Đây là kết quả
của những ảnh hưởng tốt của những kế hoạch chuyển đổi chất thải thành năng
lượng mới (WTE) mà chuyển năng lượng thì việc đốt hoàn toàn chất thải hữu cơ,
bắt giữ và loại bỏ khí độc hại và bụi. APC,Dinger, Greenberg và Porter đã cung
cấp tổng quan về tình hình CTR. Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ EPA, cho thấy cả
tổng lượng chất thải và tỉ lệ theo đầu người đều giảm. US EPA dự đoán tỉ lệ CTR
theo đầu người tương đối ổn định trong năm 2000, nổ lực quản lý CTR vẫn tiếp
tục có hiệu quả.
Bảng 1
Chất thải rắn đô thị ở Mỹ

Tổng MSW (tr tấn)

1993

1994

1995

1996

206


209

211,5

209,7


Lượng sinh ra bình
quân/người (kg)

2,0

2,0

2,0

1,95

Lượng thải bỏ bình
quân/người (kg)

1,59

1,54

1,49

1,45

Tái chế - tái sử dụng làm

phân compost (%)

21

24

26

27

Bảng 2
Thành phần vật liệu trong CTR đô thị
KHối lượng (%)
Giấy và sản phẩm giấy
Kính
Kim loại
Fe
Al
Kim loại màu khác
Tổng kim loại
Nhựa
Cao su và da
Dệt may
Gỗ
Khác
Thức ăn dư
Đồ trang trí
Rác vô cơ linh tinh

1995

31,3
6,2

1996
31,1
6,0

4,7
1,2
0,3
6,3
11,5
3,5
4,2
6,4
1,9
13,6
13,3
20

4,8
1,3
0,3
6,4
12,3
3,7
4,4
6,8
1,9
14,0

11,3
2,1

Ngày nay, hơn 19000 cộng đồng có liên quan đến việc tái chế. 78% dân số Mỹ
chấp nhận chương trình tái chế.
Rathje và những người khác đã chỉ ra những quan điểm trái ngược so với suy nghĩ
thông thường, nhựa không phải là loại vật liệu phổ biến ở các bãi chôn lấp, mà là giấy và
các sản phẩm từ giấy chiếm tỉ lệ lớn nhất ở bãi chôn lấp. Các loại thực phẩm và rác sân
vườn là thành phần kế tiếp có khối lượng lớn. Trong số những thành phần còn lại nhựa


chiếm tỉ lệ lớn nhất (Bảng 2). Số lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp,
tái chế, làm phân compos hoặc đốt được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3:
Quản lí CTR đô thị ở Mỹ
%
Bãi chô lấp
Ủ phân
compost
Đốt

1998

1990

1994
60,9

1996
55,5


13

17

23,6

27,3

15,5

17,2

3. Bãi chôn lấp.

Trong bảng 3, hầu hết các chất thải đều được chôn lấp. Trong suốt những năm
1980, có một cuộc khủng hoảng do thiếu diện tích đất chôn lấp, điều này cho thấy nước
Mỹ sẽ sớm không kiểm soát được lượng rác thải này. Hình ảnh những xà lan rác nổi lên
và chìm xuống ở các bờ biển đã ăn sâu vào tâm trí. Trong khi có một sự thật là ở một số
địa phương đã thiếu các bãi chôn lấp trong những năm 1980, điều chưa từng xảy ra trên
toàn quốc. Trong khi số lượng các bãi chôn lấp giảm xuống thì công suất xử lý ở các bãi
chôn lấp lại tăng lên. Từ năm 1990 đến năm 1996, 17% các bãi chôn lấp đã giảm. Mức độ
phục hồi quốc gia đạt 27% trong năm 1996 và lượng chất thải đô thị phải chôn lấp giảm
từ 83% năm 1986 xuống 55.4% năm 1996. Có một phép tính cho thấy lượng chất thải của
Mỹ trong 1000 năm tới sẽ lấp đầy một hố sâu 120 feet có diện tích 44 dặm vuông.
Các bãi chôn lấp hiện đại được thiết kế để chôn lấp chất thải một cách an toàn để
có thể kiểm soát chất ô nhiễm, không gây nguy hiểm cho nguồn nước ngầm. Những bãi
chôn lấp này, trong nhiều trường hợp sau khi đã đóng cửa sẽ được sử dụng làm công
viên, sân golf hoặc sân bay.
4. Nhựa và chất thải nhựa.


Nhựa đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống. Số lượng nhựa được sử
dụng tăng đều đặn qua các năm (Bảng 4). Tỉ trọng thấp, sức mạnh, thiết kế thân thiện,
khả năng chế tạo và chi phí thấp là các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Ngoài ra, nó
cũng được sử dụng rộng rãi trong bao bì, các ứng dụng trong ô tô và công nghiệp, chúng


được sử dụng rộng rãi trong hệ thống dịch vụ y tế, cấy ghép nhân tạo và các ứng dụng y
tế khác, loại bỏ vi khuẩn,…. Sử dụng chất dẻo trong bảo quản và phân phối thực phẩm,
nhà ở và các thiết bị được đề cập rất nhiều. Chất dẻo được thiết kế đặc biệt, có thể được
dùng trong công nghiệp truyền thông và điện tử - nó được dùng trong các con chip, bo
mạch của máy tính. Nó cũng là thành phần không thể thiếu trong việc chuẩn bị và cung
cấp các hệ thống năng lượng như: tế bào nhiên liệu, pin và cả năng lượng mặt trời. Được
phổ biến một cách rộng rãi như vậy, nên khối lượng của nó ngày càng tăng lên trong
dòng thải. Trong tổng số MSW, năm 1996, nhựa chiếm khoảng 12% về khối lượng. Bảng
5 mô tả các số lượng nhựa (nghìn tấn) trong dòng thải.
Bảng 4:
Sự tăng của nhựa trong CTR đô thị
Năm
1960
1970
1980
1990
1992
1994
1995
1996

% nhựa
0,5

2,6
5,0
9,8
10,6
11,2
11,5
12,3

BẢNG 5
Chất thải rắn trong rác thải đô thị (1996, nghìn tấn)
Sản phẩm bền
Sản phẩm không bền
Túi xách, bao tải và vỏ bọc
Vỏ nước giải khát, sữa…
Đồ chứa khác

6260
5350
3220
1350
1280

Nhựa trong dòng thải tồn tại rất nhiều loại khác nhau về thành phần và tính chất.
Điều này gây khó khăn cho việc thu nhận, phân loại và tinh chế gặp nhiều khó khăn.
Trong các loại nhựa được thải bỏ, polyethylene chiếm số lượng lớn nhất, các loại khác
với số lượng ít hơn cũng được tìm thấy trong dòng thải này (Bảng 6).
Bảng 6


Loại và tính chất nhựa trong chất thải rắn đô thị (nghìn tấn)


5. Quản lý tổng hợp chất thải nhưa.

Bất kỳ một nổ lực nào để quản lý một số lượng lớn chất dẻo ô nhiễm, sử dụng
năng lượng một cách hiệu quả và thân thiện với môi trường đều cần phải được xem xét
một cách cẩn thận. Điều nay đặt ra yêu cầu kiểm tra, phân tích các bước khác nhau từ
nguyên liệu sản xuất, quy trình sản xuất, thiết kế và chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh, có thể
tái sử dụng hay không và cách xử lý thích hợp.
Một khái niệm quản lý tổng hợp như trên bao gồm:





6.

Giảm thiểu tại nguồn
Tái sử dụng
Tái chế.
Chôn lấp.
Thu hồi năng lượng từ chất thải.
Giảm thiểu tại nguồn – Tiết kiệm năng lượng.

Một báo cáo của Hoa kì cho thấy chỉ có 4% năng lượng được dùng cho quá trình
sản xuất ra các sản phẩm nhựa. Franklin Associates Ltd, một học viên hàng đầu đã
nghiên cứu vòng đời sản phẩm của nhựa, để so sánh nó với các vật liệu thay thế. Một
nghiên cứu được thực hiện để so sánh năng lượng để sản xuất, sử dụng và xử lý nhựa với
các vật liệu khác có thể thay thế nhựa. Nghiên cứu cho thấy rằng, bằng cách sử dụng bảo
bì bằng nhựa, các nhà sản xuất tiết kiệm được năng lượng để phục vụ cho một thành phố
có 1 triệu ngôi nhà trong khoảng 3,5 năm. Rathje đã phân tích và đưa ra kết luận. Thủy

tinh có giá trị 1.9, nghĩa là để đóng gói 1.9 ounce nước trái cây cần 1 ounce thủy tinh,
nhựa có giá trị 34 ounce nghĩa là để đóng gói 34 ounce nước trái cây chỉ cần 1 ounce
nhựa, giấy có giá trị 6.9 và nhôm là 21.8.
7. Giảm thiểu tại nguồn – sử dụng hiệu quả.


Một khía cạnh quan trọng trong tiếp cận quản lý tổng hợp chất thải là giảm thiểu
tối đa lượng nhựa sử dụng. Bằng cách sử dụng các công nghệ sản xuất đã được cải thiện,
chất thải được tạo ra trong quá trình sản xuất đã giảm đáng kể. Nó đang được cải thiện để
có được hiệu quả cao hơn với trọng lượng ít hơn. Nhiều nổ lực đã được thực hiện để giảm
thiểu số lượng các loại nhựa trong các hoạt động lắp ráp. Nhựa tái chế thường được sử
dụng làm nguyên liệu để sản xuất một loạt các bộ phận đặc biệt là trong các lĩnh vực ô tô
và công nghiệp. Từ năm 1977, trọng lượng của chai nhựa đựng nước ngọt 2L đã giảm từ
68 – 51 g, giảm 25%. Điều này đã tiết kiệm được 206 triệu pounds PET mỗi năm. Các
bình đựng sữa 1 gallon cũng giảm về khối lượng, trọng lượng của chúng đã giảm đi 30%
so với cách đây 20 năm. Một số loại sữa và nước trái cây được đóng gói trong các túi tái
chế có khối lượng ít hơn so với các chai nhựa. Khối lượng thấp hơn, bên cạnh việc giảm
lượng chất thải tạo ra trong quá trình sản xuất, giảm các chi phí liên quan đến vận chuyển
hàng hóa và xử lý. Nhựa có độ bền cao thường được sử dụng trong các ứng dụng thứ cấp.
Theo Duranceau, một số lượng lớn các linh kiện ô tô được thu hồi từ các vụ tai nạn hoặc
các xe bị loại bỏ. Chúng được tháo dỡ, sữa chữa và tái sử dụng trong việc sửa chữa ô tô.
Những linh kiện được tái sử dụng này góp phần giảm lượng nhựa nguyên sinh cần tạo ra
cho lĩnh vực này.
8. Tái chế nhựa.

Tái chế nhựa đã phát triển trong những năm gần đây. Trong năm 1997, đã tái chế
khoảng 1.4 tỉ pound bao gồm 704 triệu pound chai HDPE, 649 triệu pound chai PET
(Bảng 7). Hiện nay, có hơn 1700 doanh nghiệp xử lý và tái chế nhựa đã qua sử dụng. Một
loạt các sản phẩm mới như phim máy ảnh, băng ghế công viên, áo len, quần Jean, băng
video, chai chất tẩy rửa và đồ chơi được sản xuất hoặc được đóng gói từ nhựa tái chế.

Hơn 1500 sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nhựa tái chế. Sản xuất và tiêu thụ hạt
nhựa nguyên sinh đã được tăng đều đặn, số lượng nhựa tái chế cũng tăng (4% năm 1997);
tuy nhiên, tỷ lệ tái chế đã giảm. Điều này là do các loại nhựa nguyên sinh có giá rất thấp,
trong khi thị trường cho các loại nhựa tái chế ngày càng suy yếu (Năm 1999).
8.1. Tái chế nhựa cứng
Nhựa cứng, trái ngược với hầu hết các bao bì bị loại bỏ sau khi sử dụng một lần,
có xu hướng được sử dụng trong 3 năm hoặc nhiều hơn. Xe ô tô, máy vi tính, đồ gia đình,
thảm, đều thuộc loại này. Việc sử dụng nhựa để làm các vật liệu này tiếp tục được các kỹ
sư thiết kế, các nhà sản xuất và người tiêu dùng sử dụng bởi hiệu quả cao, chi phí thấp.
Tái chế từ các loại trên là phức tạp. Thông thường chúng được tích hợp với một số loại
nhựa khác và các thành phần khác. Sau đó chúng được tách, phục hồi và làm sạch theo
một vài yêu cầu nào đó. Nói chung, khối lượng các vật liệu có sẵn cho việc phục hồi rất


hạn chế. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đang được thực hiện nhằm tái chế hiệu quả các
sản phẩm như vậy sau khi bị thải bỏ. Các nhà sản xuất của các sản phẩm này đã cam kết
sử dụng vật liệu tái chế, bất cứ nơi nào có thể, như là một phần tổng số nhu cầu vật chất
của họ. Kinh doanh thiết bị và các nhà sản xuất máy tính, hiện đang thu hồi các kim loại
quý từ các sản phẩm, thử nghiệm việc thu hồi vỏ nhựa và các thành phần khác từ sản
phẩm của họ. Công ty ô tô đã có những nổ lực lớn trong việc tái chế các thành phần nhựa
và cố gắng sử dụng vật liệu nhựa tái chế.


Bảng 7
Tỉ lệ chai nhựa tái chế
Chai nhựa (triệu
kg)
Chai nước giải
khát PET
Chai PET tổng hợp

Tổng chai PET
HDPE tự nhiên
HDPE màu
Tổng HDPE chai
Tất cả chai nhựa

1996

1997

Thay đổi

240

246

2,7

46
286
183
115
297
593

48
295
188
132
319

617

3
2,8
2,7
14,9
7,4
4,1

Ở Mỹ, các tấm thảm ngốn hết hơn 2 tỉ pounds polymers, trong đó hầu hết là nylon
66, nylon 6 hoặc polyesters. Tấm thảm được tạo ra bao gồm khoảng 50% các sợi tổng
hợp. Thành phần của các tấm thảm luôn là polypropylene, kèm theo đó là một lớp phủ
cao su dạng SBR. Phục hồi các sợi bề mặt thành một dạng tinh khiết cần phải tách các
chất phụ gia, các chất độn, đây là một quá trình rất phức tạp. Các nhà sản xuất thảm giới
thiệu một công nghệ mới để phục hồi nhiều hơn các sợi thảm và lớp đệm, nó bao gồm
quá trình chuẩn bị các dạng monomers và trung gian nguyên chất.
Một vài nghiên cứu và chương trình thử nghiệm trong tái chế nhựa cứng được
thực hiện theo cách dưới đây. Mục tiêu của các chương trình này là khảo sát ảnh hưởng
của việc tái chế đến các khía cạnh công nghệ, kinh tế và sinh thái. Thiết bị phá hủy ô tô
sẽ trộn lẫn các thành phần của ô tô sau khi đã hết sử dụng là chủ đề được điều tra về tiềm
năng sử dụng năng lượng của nó để điều chỉnh tác động của bê tông, nhiệt phân hoặc làm
nhiên liệu cho các nhà máy năng lượng. Mô hình kinh tế đã góp phần bổ sung cho các
nghiên cứu này. Nó được đánh giá dựa trên hệ thống kinh tế tại thời điểm hiện tại đối với
cơ sở hạ tầng tái chế ô tô, các dự án sử dụng vật liệu thay thế và phục hồi năng lượng.
8.2.

Thiết kế cho tái chế.

Cho đến thời điểm gần đây, vẫn có rất ít sự quan tâm đối với việc tái chế các
thành phần và sản phẩm bị thải bỏ sau quá trình sử dụng. Nhựa, giấy, kim loại và các sản

phẩm tự nhiên được sử dụng kết hợp với nhau mà không xem xét đến sự khó khăn trong
quá trình tái chế. Ví dụ, chai PET có đáy bằng polyethylene, polypropylene, nắp nhôm,
nhãn giấy. Chất kết dính thường được sử dụng để găn kết chúng lại, nó làm cho việc tách
các bộ phận kèm theo chai gặp khó khăn. Với việc nâng cao nhận thức về tiềm năng tái


sử dụng, các nhà thiết kế đang nghiên cứu các thiết kế và cách kết hợp vật liệu mới. Đơn
giản hóa việc thiết kế các chai nước giải khát, các chi tiết của ô tô, bảng công cụ là những
ví dụ cho những nỗ lực đó.
8.3.

Tiếp cận công nghệ tái chế

Cách tiếp cận để tái chế nhựa phế thải liên quan đến việc tạo ra các monomers và
các khối có độ tinh khiết cao, từ nhựa phế thải sẽ tái sản xuất ra các sản phẩm nhựa mới.
Tái chế theo công nghệ mới (ví dụ đường phân, ammonolysis, nhiệt phân ) đại diện cho
một công nghệ tiến bộ có thể bổ sung cho các kỹ thuật hiện có. Chúng được gọi là tái chế
cao cấp, tái chế hóa học, tái chế sinh học. Trong khi một số công nghệ trong một số lĩnh
vực đã phát triển, mở rộng quy mô ứng dụng phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế.
Bảng 8: Giá trị năng lượng của vật liệu thông thường
Vật liệu
Nhựa
PE
PP
PS
Cao su
Báo
Vải
Gỗ
Trung bình chất thải rắn

đô thị
Rác thải sân
Thức ăn thừa
Dầu
Than củi
9.

BTU/hợp chất
19900
19850
17800
17800
8000
7200
6700
4500
3000
2600
20900
9600

Thu hồi năng lượng.

Một trong những cách quan trọng để quản lý CTR là thu hồi năng lượng của các
sản phẩm sau khi chúng bị thải bỏ. Nó liên quan đến phương pháp đốt chất thải đô thị
hoặc thiết bị thu hồi năng lượng từ rác thải. Thiết bị thu hồi năng lượng hiện đại sẽ đốt
CTR trong các thiết bị đốt đặc biệt, và năng lượng tạo ra từ quá trình sẽ được dùng để
chạy hệ thống và tạo ra điện. Quá trình có thể thu hồi 90% năng lượng từ MSW. Ngày
nay, có 114 nhà máy tái chế năng lượng ở 32 bang của Mỹ, năng lượng điện tạo ra đủ
cung cấp cho 1.2 triệu ngôi nhà và công ty.



Boettcher chỉ ra rằng nhựa thường có nguồn gốc từ dầu mỏ và các khí thiên thiên,
nó lưu giữ nhiều năng lượng hơn bất kì dạng vật liệu phổ biến nào được tìm thấy trong
dòng thải. Giá trị năng lượng vủa một vài loại vật liệu được trình bày trong bảng 8.
Polyolefins thường được sử dụng trong bao bì sản phẩm có năng lượng gần gấp
đôi than Wyoming và xấp xỉ dầu mỏ. Khi các loại nhựa được xử lý tại các thiết bị WTE
hiện đại, chúng có thể làm cho quá trình đốt chất thải diễn ra hoàn toàn hơn, tạo ra ít tro
trong quá trình xử lý. Trong một vài báo cáo của Mỹ, có một báo cáo năm 1995 được
hoàn thành Hiệp hội các kĩ sư cơ khí Mỹ (ASME) và một nghiên cứu được tài trợ bởi Hội
nghị các thị trưởng Mỹ năm 1989, đã phát hiện ra rằng không có bằng chứng nào về quá
trình đốt chất thải có chứa nhựa PVC với việc gia tăng lượng khí thải Dioxin. Quá trình
đốt này có thể là cách xử lý an toàn một số lượng lớn các linh kiện từ ô tô. Năm 1992, có
112 cơ sở tái chế năng lượng hoạt động trên 31 bang của Mỹ, với công suất thiết kế gần
101500 tấn/ngày.
9.1.

Phân tích vòng đời sản phẩm và quản lý.

Trong 20 năm qua, dư luận từ cộng đồng và các qui định môi trường của chính
phủ đã dẫn đến sự hình thành một phương pháp đo mức độ ảnh hưởng đến môi trường
của một dự án công nghiệp. Lowman, trong bài trình bày của mình tại một hội nghị
ngành công nghiệp ô tô đề cập đến việc phân tích vòng đời (LCA) đã nổi lên như một
công cụ trong sự phát triển của chính sách công cộng và trong việc ra quyết định. Nó
phân tích nhiều thuộc tính của một sản phẩm hệ thống từ lúc hình thành đến lúc bị loại
bỏ. Nó cũng có thể tạo ra một danh sách kiểm kê định lượng tất cả các yếu tố đầu vào quá
trình và kết quả đầu ra, từ đó phân tích sự cân bằng có thể thực hiện được hay không
trước khi đưa ra các quyết định chính sách hoặc đầu tư vào quá trình sản xuất hay nghiên
cứu.
Tại Hoa kỳ, nơi mà diện tích các bãi rác ngày càng tăng, EPA là một trong những

giai đoạn thu thập thông tin, và ngày càng trở nên có hiệu quả trong quản lý vòng đời
(LCM).

10. Kết luận.

Trong thập kỉ vừa qua, có sự tăng nhận thức về các vấn đề môi trường, sự hỗ trợ
cho việc thăm dò và qui trình thực hiện các phương pháp và thực thi các phương pháp
này làm cho sản phẩm và qui trình của chúng thân thiện hơn với môi trường. Trong lĩnh


vực quản lý môi trường cũng có những tiến bộ đáng kể. Đối với chất thải rắn bao gồm cả
nhựa, có những tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong giảm thiểu chất thải và tăng số
lượng rác tái chế. Tái chế hóa học làm monomer, trong trường hợp nylon và polyeste, đã
được hoàn thiện và xử lý những hỗn hợp rất phức tạp, phương pháp xử lý chất thải dẻo
bằng phương pháp đốt cũng phát triển. Trong khi một vài công nghệ mới đã được phát
triển, số lượng vật liệu được tái chế dường như đạt đến mức ổn định. Trong trường hợp
không có các biện pháp bổ sung, việc tái chế các loại nhựa sẽ bị chậm lai do chi phí cho
việc này cao hơn so với việc chôn lấp. Tuy nhiên, với mục tiêu dài hạn là nâng cao chất
lượng môi trường thì phân tích vòng đời của sản phẩm, phát triển các loại nhựa và tái chế
chúng sẽ trở nên quan trọng hơn trong tương lai.



×