Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.54 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử. Sự
hình thành, phát triển của tội phạm về tham nhũng gắn liền với sự hình thành giai
cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tội phạm về tham nhũng diễn ra
ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, điều kiện và
trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã
nhận định tội phạm về tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm cao độ, trở
thành một trong những nguy cơ làm cản trở sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất
nước. Chính vì lý do đó em xin chọn đề tài: “Xu hướng phát triển của pháp luật
hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng” để tìm hiểu.

NỘI DUNG
I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
1.Khái niệm về tội phạm tham nhũng
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có
chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của . Tài liệu hướng
dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969)
định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà
nước để trục lợi riêng... Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam
quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi . Người
có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn
vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm
tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến


nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp
phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt


động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
2.Đặc điểm của tội phạm tham nhũng
Thứ nhất, tội phạm về tham nhũng xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn
của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ hai, tội phạm về tham nhũng, những người có chức vụ lợi dụng chức vụ,
quyền hạn được giao để thực hiện hành vi trái với công vụ;
Thứ ba, tội phạm về tham nhũng có mục đích vụ lợi, đó là những hành vi cố
ý, có mục đích.
Thứ tư, chủ thể của tội phạm về tham nhũng do những người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện
II.XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
1.Quá trình phát triển của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham
nhũng trước khi ban hành Bộ Luật Hình sự 2015
Tội phạm về tham nhũng là những nhóm tội có tính lịch sử. Cùng với sự phát
triển của nền kinh - tế xã hội. Tham nhũng xuất hiện ở Việt Nam và phát triển qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau. Các quy định về tội phạm về tham nhũng trong lịch
sử lập pháp hình sự Việt Nam có thể chia làm những giai đoạn sau:
Giai đoạn trước năm 1945: trong xã hội phong kiến Việt Nam, các tội phạm
về tham nhũng đã được quy định một cách tương đối đầy đủ và chặt chẽ. Việc đấu
tranh phòng, chống các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là một
yêu cầu để bảo vệ chế độ và bộ máy nhà nước phong kiến đương thời. Tuy nhiên,
nhìn dưới góc độ phát triển chung của pháp luật thì các quy định về các tội phạm về
tham nhũng trong thời kỳ này còn có những hạn chế nhất định, bởi ở thời kỳ này
pháp luật chủ yếu bảo vệ chế độ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp địa chủ phong kiến
giai - cấp thống trị xã hội.


Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985:
ngay từ khi mới giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ rằng,

muốn cho đất nước ổn định, bảo vệ chính quyền non trẻ và xây dựng thành công xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước trong sạch, công bằng, dân chủ và văn minh
thì phải đấu tranh không khoan nhượng với các tội phạm về tham nhũng. Đã có
nhiều văn bản pháp luật quy định về các tội phạm về tham nhũng, đáp ứng được
nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ, đồng thời thể hiện được chính sách hình sự
của Đảng và nhà nước ta đối với tội phạm này, góp phần quan trọng vào công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế ngăn chặn những hành vi lợi dụng
chức vụ quyền hạn xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong giai đoạn này pháp
luật hình sự đã quy định một số tội phạm về tham nhũng điển hình như: tội đưa hối
lộ; tội nhận hối lộ; tội đào nhiệm; tội tham ô, tội cố ý làm trái nguyên tắc chính
sách về kinh tế, tài chính gây thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa; tội lạm dụng chức
vụ, quyền hạn xâm phạm tài sản riêng của công dân; tội cố ý làm trái công vụ gây
hậu quả nghiêm trọng; v. v… Các văn bản pháp luật trong thời kỳ này cũng đã quy
định về những hình phạt rất nghiêm khắc, đặc biệt đối với các tội phạm về hối lộ.
Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, phạt tiền
cũng đã được quy định, có tác dụng phòng ngừa, đồng thời bảo đảm trong việc xử
lý tội phạm được triệt để. Kỹ thuật lập pháp ngày càng được nâng cao, từ việc quy
định gộp nhiều hành vi thành một tội hoặc chỉ nêu tội danh đã tách ra làm nhiều tội
cụ thể với nội dung điều luật tương đối chặt chẽ, các dấu hiệu tội phạm được quy
định tương đối đầy đủ. Bên cạnh những thành tựu về mặt lập pháp, do điều kiện
kinh tế - xã hội nói chung và tình hình phạm tội nói riêng, trong thời kỳ từ năm
1945 đến trước năm 1985, các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta còn có những
hạn chế nhất định. Các tội phạm về tham nhũng được quy định một cách giản đơn,
gộp nhiều tội, các dấu hiệu của cấu thành tội phạm chưa được mô tả cụ thể. Tuy
nhiên, có thể khẳng định rằng, các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ này đã phản


ánh được tình hình thực tế khách quan của đất nước. Các quy định của pháp luật
hình sự về các tội phạm về tham nhũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc, có vai trò quan

trọng trong việc đấu tranh phòng, chống và hạn chế đáng kể các hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn xâm phạm vi uy tín, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức,
lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp công dân, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các quy định về tội phạm về tham nhũng trong bộ luật hình sự 1985: cùng
với sự phát triển của xã hội đất nước ta, tội phạm về tham nhũng ngày càng phát
triển và phức tạp, tính chất, mức độ và hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Các
văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật hình sự ngày càng trở nên lạc
hậu không còn phù hợp với tình hình mới. Ngày 27 tháng 6 năm 1985, Bộ luật
Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành. Kế
thừa kinh nghiệm lập pháp hình sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng trong giai đoạn trước, Bộ luật Hình sự 1985 đã dành một chương
riêng quy định về tội phạm chức vụ trong đó có các tội phạm về tham nhũng
(chương IX). Các tội phạm về tham nhũng đã được quy định tương đối đầy đủ, các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm đối với từng tội danh được mô tả cụ thể. So với
các nhóm tội khác, hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng đã được quy định
tương đối nghiêm khắc và đa dạng. Mặc dù vẫn có một số hạn chế nhất định nhưng
Bộ luật hình sự năm 1985 là một văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong
việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng
nói riêng. Các quy định của Bộ luật đã thể hiện chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta là xử lý nghiêm khắc không khoan nhượng đối với các tội phạm này.
Bộ luật Hình sự năm 1985 đã đánh dấu bước phát triển tiến bộ về lập pháp triển
tiến bộ về lập pháp hình sự nước ta, là cơ sở nền tảng cho việc hoàn thiện pháp luật
hình sự về các tội phạm về tham nhũng sau này.
Các quy định về tội phạm về tham nhũng trong bộ luật hình sự năm 1999:
Theo quy định của BLHS năm 1999, các tội phạm về tham nhũng được quy định tại


Mục A Chương XXI BLHS năm 1999, bao gồm bảy tội sau: Tội tham ô tài sản
(Điều 278); Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
(Điều 281); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282); Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội
giả mạo trong công tác (Điều 284). Các tội phạm về tham nhũng quy định tại mục
A chương XXI, so với các tội phạm này quy định tại chương IX Bộ luật hình sự
năm 1985 có nhiều sửa đổi bổ sung. Bộ luật hình sự năm 1985 không phân biệt tội
phạm tham nhũng với tội phạm về chức vụ khác mà coi tham nhũng cũng là tội
phạm về chức vụ. Các yếu tố định tội và định khung hình phạt quy định tại mục A
chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều sửa đổi bổ sung theo hướng
không có lợi cho người phạm tội, nhưng cũng có những quy định lại có lợi cho
người phạm tội. Ngoài những quy định tại BLHS về các tội phạm tham nhũng, hệ
thống các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của BLHS về các tội phạm về
tham nhũng như Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001… chúng ta còn
quy định các hành vi tham nhũng trong Luật phòng, chống tham nhũng. Theo quy
định tại BLHS, có 7 tội phạm về tham nhũng, theo Luật phòng, chống tham nhũng
có 12 hành vi tham nhũng. Thiết nghĩ, sau khi Luật PCTN có hiệu lực thì những
hành vi đã được quy định tại Điều 3 Luật PCTN là hành vi tham nhũng, nhưng
những hành vi này lại được quy định là tội phạm trong các chương khác của BLHS
sự năm 1999 thì cũng phải coi đó là tội phạm về tham nhũng. Ví dụ: hành vi dùng
tài sản nhà nước để đưa hối lộ được quy định tại Điều 289 BLHS năm 1999 chỉ là
tình tiết định khung hình phạt và Tội đưa hối lộ (Điều 289) chỉ là tội phạm khác về
chức vụ chứ không phải là tội phạm về tham nhũng, nhưng sau khi Luật PCTN năm
2005 có hiệu lực thì hành vi dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ nhằm được
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương mình, phải được
coi là tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên, vấn đề cần được nghiên cứu kỹ và đề
xuất trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS trong thời gian tới.


2. Những điểm mới về tội phạm tham nhũng theo quy định của Bộ luật Hình sự
năm 2015 so với Bộ luật Hình sự 1999

2.1.Mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm tham nhũng ra khu vực tư (ngoài
nhà nước)
Các quy định của BLHS năm 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham
nhũng trong khu vực công (do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện) mà chưa ghi
nhận về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư và vì vậy, chưa có các quy định
pháp luật tương ứng, kèm theo các biện pháp xử lý hình sự đối với loại tội phạm
này, mặc dù, một số hành vi tương tự xảy ra trong khu vực tư, theo quy định của
BLHS vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, thực tiễn về việc xử lý
hành vi tham nhũng đối với tài sản của doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà
nước, trong đó có sự đan xen về sở hữu mà trong nhiều trường hợp không thể tách
biệt giữa tài sản, phần vốn góp của Nhà nước với tài sản, phần vốn góp của tư nhân,
việc xác định xử lý trách nhiệm của cá nhân là người có chức vụ, quyền hạn trong
loại hình doanh nghiệp này rất khó khăn.
Do đó, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng:
Một là, mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm chức vụ (trong đó có tội phạm
tham nhũng) để có thể bao gồm cả các tội phạm về chức vụ trong khu vực tư (ngoài
Nhà nước), cụ thể là mở rộng chủ thể thực hiện tội phạm không chỉ là người có
chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong
hệ thống các cơ quan nhà nước), mà còn là người có chức vụ trong khi thực hiện
“nhiệm vụ” (tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước).
Hai là, BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi các tội phạm tham nhũng trong
khu vực ngoài nhà nước đối với các tội danh sau: Tội tham ô tài sản, tội nhận hối
lộ. Cụ thể là khoản 6 Điều 353 (tội tham ô tài sản) quy định “Người có chức vụ,
quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị
xử lý theo quy định tại Điều này”; khoản 6 Điều 354 (tội nhận hối lộ) quy định


“Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà
nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”.
2.1.Mở rộng nội hàm “của hối lộ” tại các điều khoản liên quan đến tội phạm

tham nhũng
Theo quy định của BLHS năm 1999, để có thể xử lý được người phạm tội thì
“của hối lộ” trong cấu thành tội nhận hối lộ và một số tội phạm chức vụ liên quan
như: đưa hối lộ, môi giới hối lộ... phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị
giá được bằng tiền. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm tham
nhũng cho thấy, bên cạnh việc dùng tiền hay các lợi ích vật chất khác để hối lộ
người có chức vụ, quyền hạn thì lợi ích tinh thần bao gồm nhiều hình thức khác
nhau có thể mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người thụ hưởng (ví dụ tình dục,
vị trí, việc làm...) cũng được các đối tượng sử dụng để hối lộ nhằm đạt được mục
đích của mình. Đây cũng là yêu cầu của UNCAC, theo đó, các quốc gia thành viên
phải quy định nội hàm “của hối lộ” hoặc những thiệt hại do tham nhũng gây ra là
những lợi ích bất chính, tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, vô hình hoặc hữu hình,
vật chất hoặc tinh thần, tiền tệ hoặc phi tiền tệ. Khoản 2 Điều 15 UNCAC quy định
yếu tố khách quan bắt buộc trong cấu thành tội nhận hối lộ là lợi ích không chính
đáng mà người thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhận được có thể dành cho chính bản
thân công chức hoặc cho người khác, ví dụ, họ hàng người thân của công chức đó,
hoặc có thể dành cho một thực thể khác.
Khoản 1 Điều 354 (tội nhận hối lộ) Bộ luật hình sự 2015 đã quy định rõ yêu
cầu này, cụ thể là: “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua
trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người
đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a)
Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi
này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1


Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) BLHS năm 2015 đã bổ
sung “lợi ích phi vật chất” vào các cấu thành định tội đối với lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi và một số tội phạm khác

về chức vụ như tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với
người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.
2.3.Tăng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tham ô, chiếm đoạt, của hối lộ
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác là một trong các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình
sự cơ bản của hầu hết các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, có thể thấy, BLHS năm
1999 chưa có sự phân hóa phù hợp về giá trị tài sản giữa các khung trong một điều
luật cụ thể, chưa bảo đảm mức độ tương xứng giữa giá trị tài sản và mức hình phạt
trong khung, cũng như chưa phù hợp với tình hình phát triển mới về kinh tế - xã hội
và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, để bảo đảm sự phù hợp với
thực tiễn xử lý loại tội phạm này, phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế,
đồng thời nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm mức độ tương xứng giữa
hình phạt với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội khi căn cứ vào
giá trị tiền, tài sản tham ô, của nhận hối lộ hoặc thu lời bất chính, BLHS năm 2015
đã nâng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tại các điều khoản có liên quan. Cụ
thể: BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung mức định lượng giá trị tiền, tài sản đối với
nhóm tội liên quan đến hối lộ: (i) Nâng giá trị tiền, tài sản là căn cứ truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 các Điều 354 (tội nhận hối lộ) từ “2 triệu đồng
đến dưới 10 triệu đồng” theo quy định tại điều khoản tương ứng của BLHS năm
1999 lên “từ 2 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng”; (ii) Nâng giá trị tiền, tài sản
quy định tại khoản 2 “từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng” theo quy định của
BLHS năm 1999 lên “từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng”; (iii) Nâng giá trị
tiền, tài sản quy định tại khoản 3 từ “50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng” theo
quy định của BLHS năm 1999 lên “từ 500 triệu đồng đến 01 tỉ đồng”; (iv) Nâng giá


trị tiền, tài sản quy định tại khoản 4 từ “từ 300 triệu đồng trở lên” theo quy định của
BLHS năm 1999 lên “từ 01 tỉ đồng trở lên”.
2.4.Bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với một số tội và bổ
sung các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham

nhũng
Cũng giống như hầu hết các quy định của BLHS năm 1999 về các nhóm tội
phạm cụ thể khác, các quy định về tội phạm tham nhũng còn nhiều hạn chế, dấu
hiệu định tội, định khung của nhiều tội chưa rõ ràng cụ thể, nhiều tình tiết có tính
chất “định tính”, gây khó khăn cho việc áp dụng để xử lý tội phạm. Hơn nữa, một
số quy định về tội phạm chức vụ còn quá đơn giản, chưa dự liệu được hết các
trường hợp phạm tội có tính nghiêm trọng hơn, do đó, chỉ thiết kế một hoặc hai
khung hình phạt. Để bảo đảm tính minh bạch của các quy định, bảo đảm cá thể hóa
trách nhiệm hình sự cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố
tụng thống nhất áp dụng, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa
các tình tiết định tính “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”,
“gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, bổ sung nhiều tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt đối với hầu hết các tội phạm về tham nhũng. Cụ thể như sau:
- Tội tham ô tài sản (Điều 353): Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung
trách nhiệm hình sự tại điểm đ, e, g, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định
khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, c, d khoản 3.
- Tội nhận hối lộ (Điều 354): Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách
nhiệm hình sự tại điểm d, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách
nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 3; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách
nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 4.
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Bổ sung tình tiết tăng
nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm đ, e khoản 2, bỏ tình tiết định khung
“tái phạm nguy hiểm” theo Điều 280 BLHS 1999; Bổ sung các tình tiết tăng nặng


định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, c, d khoản 3; Bổ sung các tình tiết tăng
nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 4.
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Bổ sung tình
tiết định khung hình phạt tại khoản 1; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách
nhiệm hình sự tại điểm c, khoản 2; Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách

nhiệm hình sự tại khoản 3.
- Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Bổ sung tình tiết định khung
hình phạt tại khoản 1; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự
tại điểm c, khoản 2; Sửa đổi khung hình phạt và bổ sung tình tiết định khung hình
phạt tại khoản 3, 4.
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi: Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm d, khoản
2; Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại điểm b, khoản 3;
Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản 4.
- Tội giả mạo trong công tác: Sửa đổi định khung hình phạt tại điểm c, khoản
2; Sửa đổi, bổ sung định khung hình phạt tại khoản 3, 4.
2.5.Tăng mức định lượng, cụ thể hóa số tiền phạt đối với các tội phạm về tham
nhũng
Định lượng về tiền phạt đối với một số tội danh tham nhũng của Bộ luật hình
sự 1999 không còn phù hợp với thực tế tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
của Việt Nam, chưa tương xứng với hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra nên cần
phải có sự điều chỉnh nâng lên cho phù hợp. Một số tội danh, mức phạt chưa được
cụ thể hóa mà để theo mức độ giá trị tiền và tài sản mà người tham nhũng có được
khi thực hiện hành vi tham nhũng cũng chưa hợp lý vì tiền và tài sản có được đó
phải bị tịch thu còn tiền phạt thì cần được quy định cụ thể căn cứ vào tội danh nên
BLHS 2015 sửa đổi theo hướng cụ thể hóa mức tiền phạt. Cụ thể như sau:


Tội tham ô tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:
nâng mức phạt từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng lên từ 30 triệu đồng đến 100 triệu
đồng.
Tội nhận hối lộ và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi trước đây tiền phạt có thể bằng một hoặc gấp 5 lần số tiền
hoặc giá trị tài sản mà người đó có được thì theo quy định mới của BLHS 2015, có
thể bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng.

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội lạm quyền
trong khi thi hành công vụ, tội giả mạo trong công tác nâng mức phạt từ 3 triệu đến
30 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 100 tr iệu đồng.
2.6.Bổ sung một số chính sách mới liên quan đến việc xử lý tội phạm tham
nhũng
Một là, để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện
thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng,
Điều 28 BLHS năm 2015 bổ sung trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô tài sản đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 353, tội nhận hối lộ đặc biệt nghiệm trọng quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 354. Đối với các trường hợp này, bất kể thời điểm nào
phát hiện được tội phạm là có thể xử lý.
Hai là, nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần
thực hiện chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị là giảm hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng
khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho nhà nước và hợp tác với cơ quan có thẩm
quyền phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng. Điều 40
BLHS năm 2015 quy định “người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận
hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử


lý tội phạm hoặc lập công lớn” thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết
án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi tham nhũng của Luật
Phòng, chống tham nhũng cho thống nhất với quy định mới của Bộ luật hình sự
năm 2015. Bộ luật hình sự và Luật Phòng, chống tham nhũng đã trải qua nhiều lần
sửa đổi bổ sung điều khoản liên quan đến hành vi tham nhũng và tội phạm tham

nhũng, có nhiều quan điểm và ý kiến được đưa ra nhưng sau lần sửa đổi mới nhất
này, Bộ luật hình sự vẫn giữ nguyên quy định tội phạm tham nhũng đối với 7 hành
vi tham nhũng, trong khi đó Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành cũng như dự
thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi vẫn quy định về 12 hành vi tham
nhũng. Điều này gây nên những rắc rối, phức tạp, thiếu thống nhất trong quá trình
áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Có hành vi được xác định là hành vi
tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện nay không có
chế tài hình sự và cũng không có chế tài hành chính cụ thể, riêng biệt nào để xử lý.
Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng cũng không có
thống kê liên quan đến việc phát hiện và xử lý các hành vi này. Bởi vậy, cần sớm
điều chỉnh lại các quy định của Luật phòng chống tham nhũng cho thống nhất với
quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Hai là, cần ban hành văn bản hướng dẫn một số quy định về tội phạm về
chức vụ nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng để thuận tiện trong áp dụng
pháp luật một cách thống nhất, bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
về tham nhũng. Ví dụ như hướng dẫn cụ thể về lợi ích phi vật chất trong cấu
thành định tội, hướng dẫn một số từ ngữ mang tính chất định tính, khó xác định
trên thực tế như “lập công lớn”…
Bà là, BLHS năm 2015 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với 2 nhóm tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi trường. Tuy nhiên, đối với


nhóm tội phạm được thực hiện bởi các pháp nhân thì chưa đặt ra. Điều này cũng
thể hiện sự thiếu tương thích của BLHS với yêu cầu UNCAC. Chính vì vậy, trong
giai đoạn tiếp theo, cần nghiên cứu mở rộng phạm vi tội phạm mà pháp nhân
thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự cho nhóm tội phạm về tham nhũng.
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu hệ thống các văn bản liên quan, sửa đổi, bổ sung
để tạo điều kiện cho việc tiến tới tội phạm hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp của
công chức do lợi dụng chức vụ theo như khuyến nghị tại Điều 20 UNCAC: “Trên
cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước

mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét áp dụng các biện pháp lập pháp và các
biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách
cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng
lên đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải
thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể”. Vì vậy, Việt Nam nên tiến tới
hình sự hóa hành vi này để xử lý bằng các chế tài hình sự vì bản thân nó là một loại
tham nhũng (lợi dụng chức vụ nhằm trục lợi bất chính), làm tổn hại uy tín của cơ
quan, tổ chức. Tuy nhiên, việc kiểm soát tài sản, thu nhập thực tế của cán bộ, công
chức bằng các công cụ pháp lý tại Việt Nam hiện nay còn mang tính hình thức như:
Quy định về kê khai tài sản, công khai bản kê khai tài sản, giải trình nguồn gốc
phần tài sản tăng thêm, việc xác minh tài sản, thu nhập,… Do vậy, chúng ta chưa
thể hình sự hoá ngay được do quy định trong các văn bản luật khác chưa tương
thích. Vì vậy, cần phải cân nhắc, nghiên cứu tổng thể để tiến hành sửa đổi.
Năm là, sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng, mở rộng phạm vi
điều chỉnh ra khu vực tư cho tương thích với quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Hiện nay, BLHS đã mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm cả khu vực ngoài nhà
nước đối với tội tham ô, nhận hối lộ; hoàn thiện cấu thành của một số nhóm tội đáp
ứng yêu cầu đấu tranh chống tham nhũng; quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân… Bên cạnh đó, chu trình đánh giá tiếp theo đối với Chương II về phòng ngừa
tham nhũng và Chương IV về thu hồi tài sản của UNCAC bắt đầu từ năm 2016 đặt


ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng trong cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước một cách toàn
diện, sâu rộng như các biện pháp nhận diện và kiểm soát xung đột lợi ích; xây dựng
và tuân thủ các nguyên tắc liêm chính trong hoạt động kinh doanh; thực hiện các
biện pháp và cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả… Chính vì vậy, Luật
PCTN sửa đổi cần mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư để tạo sự nhất quán
với Bộ luật hình sự 2015, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác
PCTN, nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng,

phù hợp với một số văn bản luật có liên quan.
Sáu là, bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tiền là hình phạt
chính đối với một số tội phạm về tham nhũng. Chế tài đối với tội phạm về chức vụ
hiện nay tương đối nghiêm khắc, loại hình phạt chủ yếu là tù. Nhằm thể chế hóa
chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo tinh thần Nghị quyết số
49/NQ-TW về hoàn thiện chính sách xử lý người phạm tội theo hướng giảm khả
năng áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không mang
tính giam giữ như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội
phạm chức vụ ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng cần bổ sung hình phạt cải tạo
không giam giữ tại một số tội cấu thành cơ bản, nhằm tạo tính linh hoạt cho Tòa án
xem xét áp dụng hình phạt phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, về bản
chất của các tội phạm về chức vụ là có tính chất vụ lợi, thông thường nhân thân
người phạm tội là tốt, do đó, đối với tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng thì việc
áp dụng một số chế tài không giam giữ như hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ
cũng bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa tội phạm.

KẾT LUẬN
Tham nhũng được coi là một căn bệnh nguy hiểm, gây ra tác hại nhiều mặt,
cản trở sự phát triển của xã hội. Đảng và Nhà nước đặt ra mục tiêu đấu tranh để loại
trừ ra khỏi đời sống xã hội. Thực tiễn cho thấy công tác xét xử các vụ án về tội


phạm về tham nhũng của ngành Tòa án trong thời gian qua đã đạt được những kết
quả quan trọng; nhiều vụ án về tội phạm về tham nhũng lớn đã được đưa ra xét xử
công khai, với chất lượng xét xử ngày càng được cải thiện; các hình phạt được áp
dụng đối với người phạm tội thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo
mục đích của hình phạt, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Đảng và Nhà nước về
chống và phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự năm 2015;
2. Bộ luật Hình sự năm 1999;
3. Luật phòng chống tham nhũng năm 2005;
4. Nguyễn Thị Thu Nga, Viện Khoa học thanh tra, Những điểm mới về
tội phạm tham nhũng theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, ngày
28/02/2018;
5.

Kim Anh, Bộ luật Hình sự năm 2015 đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện, ngày 30/12/2017.



×