Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

MỘT số QUAN điểm và GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ bồi DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN DUY vật BIỆN CHỨNG CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.85 KB, 30 trang )

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI
PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN
DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN TỈNH
AN GIANG HIỆN NAY


- Một số quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho học sinh trung học phổ thông
ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
- Quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà
nước về bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh
trung học phổ thông
Thực hiện Nghị quyết Số: 29-NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm
2013 Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã được Hội nghị Trung ương
8 (khóa XI) thông qua với các nội dung chủ yếu như:
“Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”[19, tr.3].
“Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt,
học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn
với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất



lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập
quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”[19, tr.3].
Thực hiện Công văn số 928-CV/BTGT, ngày 21/3/2018 của
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang về việc sơ kết 05 năm thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”[6,tr.1].
Ban Thường vụ Thành ủy Long Xuyên báo cáo sơ kết 05 năm
thực hiện với những nội dung cụ thể về đổi mới giáo dục trong các
cấp học. Xác định mục tiêu giáo dục với các quan điểm cơ bản như:
Giáo dục và đào tạo được đặt lên hàng đầu, mọi việc đều ưu
tiên cho giáo dục, phát triển giáo dục trước các hoạt động phát triển
kinh tế-xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới
những vấn đề lớn, vấn đề cốt lõi và cấp thiết. Trước hết phải đổi
mới quan điểm, bởi chỉ có quan điểm tiến bộ mới dẫn đến tư tưởng


chỉ đạo tiến bộ của Đảng, sự tiến bộ trong quản lý của Nhà nước.
Sau đó đổi mới mục tiêu, thay đổi nội dung, cải tiến phương pháp.
Có cơ chế chính sách hợp lý hơn. Các cơ sở giáo dục cũng cần thay
đổi các hoạt động quản lý. Các bậc học, ngành học sẽ được đổi mới
dần theo lộ trình.
Khi thực hiện đổi mới, cần lĩnh hội những kinh nghiệm hay từ
những nước đi trước, loại bỏ những cách làm không phù hợp, phát
huy hơn nữa những kết quả tốt đẹp đã đạt được. Những nhận thức

nào chưa chuẩn hay những việc làm nào chưa đúng phải nhanh
chóng khắc phục. Cần phải có tầm nhìn xa để thực hiện đổi mới có
tính hệ thống. Có giải pháp thực hiện đối với từng đối tượng giáo
dục và phải có bước đi đúng đắn.
Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” với mục tiêu là xây dựng phát
triển đất nước toàn diện. Cho nên giáo dục phải thay đổi mạnh mẽ
từ truyền thụ kiến thức là chủ yếu sang phát triển tư duy, năng lực
sáng tạo, nhân cách của HS. Chú trọng áp dụng lý luận vào thực
tiễn, “Học đi đôi với hành”. Kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà
trường và xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và phát huy những
tiến bộ khoa học kĩ thuật thường phát sinh những vấn đề mới cần


thiết cho hai lĩnh vực này. Do đó nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo
là phải đào tạo những nhân tài đáp ứng yêu cầu mới, tạo nên sự gắn
kết giữa giáo dục, kinh tế và khoa học hợp quy luật. Giáo dục ngày
càng chú trọng chất lượng và hiệu quả đào tạo và số lượng đạt được.
Hệ thống giáo dục được mở rộng, tạo điều kiện liên thông
giữa các bậc học, cấp học, đa dạng các hình thức giáo dục. Đầu tư
trang thiết bị ngày càng hiện đại vào các trường học, thực hiện
chuẩn hoá giáo dục.
Phát triển giáo dục và đào tạo không để bị ảnh hưởng bởi
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường mà cần phải khắc
phục nó, thúc đẩy mặt tích cực phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Giáo dục công lập phải có sự hỗ trợ, hợp tác tốt với giáo
dục ngoài công lập. Chính sách giáo dục và đào tạo với phương
hướng ưu tiên đầu tư giáo dục nhất là vùng sâu, xa, khó khăn, đặc
biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, quan tâm HS vùng biên giới, hải

đảo; Còn có phương hướng xã hội hoá giáo dục với mong muốn cả
xã hội cùng chung tay phát triển giáo dục và đào tạo.
Trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế phải mang tính tích
cực, chủ động để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời phát triển
giáo dục và đào tạo phải đáp ứng được những yêu cầu hội nhập quốc
tế để phát triển đất nước.


Chương trình số 05-CTr/TU ngày 29/7/2016 của Tỉnh ủy An
Giang về việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương (khóa XI). Ban Thường vụ Thành ủy đã xây dựng
và triển khai kế hoạch, tổ chức nghiên cứu, quán triệt trong toàn
Đảng bộ và toàn ngành giáo dục nội dung Nghị quyết của Trung
ương và Chương trình hành động của Tỉnh ủy. Đồng thời, ban hành
Kế hoạch số 31-NQ/TU, ngày 30/10/2016 “Về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”[6,tr.2] nhằm cụ thể hóa Chương trình số 05-CT/TƯ
của Tỉnh ủy tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như:
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của nhà
nước đối với viẹc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
Nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý giáo dục và đào tạo; đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra;Đổi
mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, thi và đánh giá kết
quả giáo dục - đào tạo đảm bảo tính trung thực, khách quan theo yêu
cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học;Phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo;Tăng cường công tác giáo dục toàn diện trong cán
bộ, đảng viên viên chức ngành giáo dục và HS, sinh viên;Tăng
cường công tác giáo dục toàn diện;Thực hiện tốt công tác phổ cập



giáo dục gắn với xây dựng nông thôn mới;Đẩy mạnh xã hội hóa
giáo dục và đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, nâng cao hiệu quả
đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo” [6,tr.2].
Đồng thời, Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng kế hoạch
48/KH-UBND ngày 31/3/2016 về xây dựng trường đạt Chuẩn quốc
gia thành phố Long Xuyên giai đoạn 2016 – 2020.
- Kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong việc bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh trung học
phổ thông ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay
Duy trì và phát triển tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình
và xã hội, tạo điều kiện để Ban đại diện cha mẹ học sinh trường, Ban
đại diện cha mẹ học sinh lớp phát huy vai trò và khả năng hoạt động
theo Điều lệ quy định. Huy động các nguồn lực của xã hội, cá nhân
tham gia vào phát triển nhà trường.
Đảm bảo thông tin liên lạc giữa nhà trường và phụ huynh
học sinh trong giáo dục, chỉ tiêu nhà trường cung cấp thông tin đầy
đủ (100%) theo tháng, cuối học kỳ và cả năm về kết quả đánh giá
xếp loại rèn luyện học tập của học sinh.
Trong những năm qua sự phối hợp nhà trường với gia đình và
xã hội về công tác BDTGQDVBC cho HS đã đạt những kết quả to


lớn, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu
thực tiễn đổi mới. Vì vậy việc giáo dục và BDTGQDVBC cho HS
cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả thực tế. Điều
đó cũng có nghĩa là đã tạo điều kiện thuận lợi để HS nâng cao khả
năng tiếp thu kiến thức khoa học và nâng cao nhận thức, trong đó có
BDTGQDVBC.

- Tạo môi trường vật chất thuận lợi cho việc bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho học sinh trung học phổ thông ở
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay
Trong trường học thì cơ sở vật chất có vai trò quan trọng đối
với công tác đào tạo. Cơ sở vật chất không phải là yếu tố quyết định
nhưng việc hoàn thiện nó có ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao
chất lượng giảng dạy cũng như chất lượng mục tiêu giáo dục đào
tạo, trong đó có mục tiêu về giáo dục, bồi dưỡng TGQ khoa học.
Cơ sở vật chất trong một trường học bao gồm nhiều yếu tố,
liên quan đến từng khâu, từng bộ phận, tạo ra một guồng máy hoạt
động thường xuyên liên tục, diễn ra trên bình diện chung của nhà
trường. Để hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu của người giáo
viên và HS có chất lượng cao thì không chỉ là khả năng, sự nỗ lực
của nhân tố chủ quan những con người đó, mà còn là sự đảm bảo tốt
của các điều kiện khách quan về cơ sở vật chất như: lớp học, bàn


ghế, loa đài, ánh sáng, tài liệu, sách báo... những yếu tố đó có ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng dạy và học. Ngoài ra
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhà trường phải tạo đều kiện
hoàn thiện cả cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu nơi ăn, chốn ở, khu
vui chơi giải trí để rèn luyện thể chất, nâng cao trí lực của người
giáo viên và HS.
- Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho học sinh trung học phổ thông
ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
- Giải pháp đối với cán bộ quản lý, giáo viên
- Đối với cán bộ quản lý
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt; có
trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ vững vàng để

đáp ứng được yêu cầu mới. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức về
lãnh đạo, quản lý cho cán bộ quản lý nhà trường. Tăng cường tham
quan học hỏi, giao lưu hội nhập quốc tế. Quán triệt cụ thể rõ ràng
các chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cán bộ quản lý nhà trường.
Xây dựng lề lối làm việc khoa học, tác phong hiện đại. Tăng cường
công tác bồi dưỡng chuyên môn và tự bồi dưỡng chuyên môn, nâng
cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ quản lý.


Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn có vai trò rất to lớn đối với việc
giáo dục TGQDVBC cho HS. Phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác Đoàn thực sự có năng lực tổ chức và hiểu biết rộng, nhiệt
huyết với phong trào, sôi nổi, có uy tín. Theo tôi đội ngũ Ban Chấp
hành Đoàn phải lựa chọn cho được những gương mặt tiêu biểu
không nên đặt nặng về cơ cấu thành phần, nói đúng hơn phải lựa
chọn một đội ngũ Ban chấp hành có năng lực thực sự, có khả năng
hoạt động.
Nội dung chương trình hoạt động công tác Đoàn phải đi vào
chiều sâu, thiết thực, phải xuất phát từ sở thích, nguyện vọng của
HS. Tổ chức triển khai chương trình hành động chi tiết cụ thể, thiết
thực và có tính khả thi cao.
Về phương hướng triển khai nội dung giáo dục của đoàn cũng
cần phải đổi mới phương thức tránh hành chính hoá tổ chức Đoàn.
Cần kết hợp nhiều hình thức giáo dục. Mọi hình thức tổ chức phải
hợp lý về thời gian, địa điểm, tránh việc tổ chức quá nhiều hoạt
động chạy theo thành tích làm ảnh hưởng tới thời gian học tập và
sinh hoạt của HS. Nội dung chương trình các buổi kỷ niệm các ngày
lễ lớn phải tổ chức trang trọng, cô đọng, sâu sắc tránh phô trương
hình thức, phải làm cho HS thấy được niềm phấn khởi, vinh dự tự
hào về truyền thống của tuổi trẻ, của dân tộc. Tổ chức rộng rãi các



hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, các cuộc thi tìm hiểu,
tăng cường các hoạt động kết nghĩa, giao lưu tạo ra “sân chơi” rộng
rãi cho HS, xây dựng chương trình hành động cụ thể cho cuộc vận
động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí
Minh”.
Ban chấp hành Đoàn luôn phải chủ động xây dựng chương
trình và tham mưu kịp thời với Hiệu trưởng để triển khai các nội
dung hoạt động có hiệu quả, ý nghĩa thiết thực, thu hút đông đảo
đoàn viên nhiệt tình hưởng ứng. Vận động sự ủng hộ về vật chất và
tinh thần của các lực lượng khác trong nhà trường và ngoài nhà
trường.
Trong mỗi nội dung hoạt động cần phải có đánh giá tổng kết,
khen thưởng, kỷ luật thật khách quan để qua đó khích lệ được sự
năng động sáng tạo của tuổi trẻ.
- Đối với giáo viên đặc biệt là đội ngũ giáo viên dạy môn
giáo dục công dân.
Nói đến việc học tập của HS cũng có nghĩa là nói đến nhà
trường, nói đến thầy giáo, mà nói đến trường học là nói đến tri thức,
nói đến văn minh, văn hoá. Điều 19 Luật Giáo dục, số 38/2005/QH
11ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định: “không truyền bá tôn giáo,
tiến hành các nghi thức tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục


khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà
nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng
vũ trang nhân dân”. Điều này muốn nói lên đòi hỏi người làm giáo
dục cũng phải có một TGQ khoa học - TGQDVBC. TGQ khoa học
của nhà giáo chi phối hoạt động và thái độ của họ trong quá trình

hành nghề, như trong việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng
dạy, việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị - xã hội, gắn
nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống, cũng như cách nhìn
nhận và đánh giá mọi biểu hiện của HS. Nói cách khác, TGQDVBC
là kim chỉ nam giúp cho nhà giáo đi đúng hướng, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và giáo dục của nhà giáo.
Trong các trường THPT, đội ngũ giáo viên có vai trò,vị trí hết
sức quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện mục tiêu, yêu cầu của
môn học. Mục tiêu, yêu cầu hàng đầu của BDTGQDVBC cho HS
THPT là giáo dục TGQDVBC cho HS và chính đội ngũ giáo viên
giảng dạy môn GDCD là lực lượng chủ yếu thực hiện mục tiêu, yêu
cầu cơ bản này. Thông qua giảng dạy giáo viên giúp HS nắm vững
và vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào học tập và
phân tích các vấn đề thực tiễn xã hội. Vì vậy, nâng cao trình độ đội
ngũ giáo viên giảng dạy đặc biệt là đội ngũ giáo viên giảng dạy môn
GDCD là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của việc
giáo dục TGQDVBC cho HS.


Vì vậy, theo tôi muốn việc giáo dục TGQDVBC cho HS
THPT hiện nay có hiệu quả cần tập trung vào những vấn đề cụ thể
sau:
Một là, phải nâng cao hơn nữa chất lượng của toàn bộ đội ngũ
giáo viên ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Long Xuyên
hiện nay, trang bị cho đội ngũ này đầy đủ những phẩm chất cần thiết
như luôn quan tâm, tôn trọng, yêu thương HS. Bản thân luôn chú
trọng giữ gìn danh dự, nhân phẩm, tư cách của người giáo viên. Có
năng lực chuyên môn, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học. Có năng lực ngoại ngữ phù hợp với tiêu chuẩn đặt ra. Có kĩ
năng, kinh nghiệm và kiến thức giải quyết các vấn đề trong dạy học.

Hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của bản thân tham gia vào các hoạt
động giáo dục. Có quan hệ hoà đồng, thân thiện, sẵn sàng hợp tác,
chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, phối hợp với các cơ quan tổ chức
trong ngoài nhà trường.
Điều đó đòi hỏi bản thân đội ngũ giáo viên phải là người giác
ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có phẩm chất chính trị vững vàng
tham gia tích cực vào việc giáo dục TGQDVBC thông qua những
môn học mà mình đang trực tiếp giảng dạy.
Hai là, tiếp tục bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên một phương
pháp sư phạm tốt, khả năng truyền thụ hấp dẫn, logic,... giúp HS


nắm chắc kiến thức qua đó mà TGQDVBC của họ ngày càng được
củng cố và nâng cao.
Riêng đối với giáo viên môn GDCD, do chức năng đặc biệt
của họ trong việc giáo dục TGQ nên trong quá trình nâng cao trình
độ năng lực của đội ngũ này phải có những chủ trương chính sách
quan tâm hơn.
Cũng giống như các loại hình giáo viên khác, trước hết giáo
viên môn GDCD có sự hiểu biết rộng, có chuyên môn giỏi, có năng
lực bắt kịp tri thức khoa học hiện đại và có hiểu biết thực tiễn sinh
động. Thông qua việc truyền đạt những nội dung chính của môn
GDCD tác động đến tư tưởng, tình cảm của HS, đến sự lôi cuốn HS
say mê học tập hoặc cũng có thể gây nên tình trạng HS chán, không
muốn học môn học này.
Để có được đội ngũ giáo viên GDCD đáp ứng được nhiệm vụ
đó cần phải có các biện pháp như sau:
Ngành giáo dục cần có những biện pháp kiên quyết để không
còn tình trạng giáo viên không còn đủ trình độ, năng lực chuyên
môn và nghiệp vụ kém. Đặc biệt, những giáo viên có biểu hiện suy

thoái về đạo đức, lối sống phải kiên quyết cho ra khỏi ngành. Bởi
những hành vi sai trái của đội ngũ giáo viên nếu không được ngăn
chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành nhân cách của mỗi


HS, suy giảm niềm tin của họ đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản
lý của nhà nước. Bên cạnh đó cần phải đảm bảo số lượng biên chế
giáo viên cho từng môn học để giáo viên được đào tạo chuyên
ngành nào thì giảng dạy đúng chuyên ngành ấy nhằm khắc phục
tình trạng giáo viên phải dạy nhiều môn.
Ngoài ra, ngành giáo dục cần chú ý nghiên cứu việc bồi dưỡng
cho đội ngũ giáo viên về trình độ chuyên môn, khả năng sử dụng
phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy đạt chuẩn.
Đồng thời tiếp tục tổ chức bồi dưỡng theo định kỳ cho giáo viên về
chuyên môn đặc biệt là những vấn đề lý luận mới đang đặt ra. Bởi
trong thế kỷ XXI, thế kỷ của tri thức với sự phát triển nhanh chóng,
tri thức của loài người ngày càng tăng lên, đặt ra những vấn đề lý
luận và thực tiễn mới cần giải quyết.
Hiệu trưởng các trường cần tạo điều kiện tổ chức cho giáo
viên đi thực tế trong mỗi năm học. Đây là một yêu cầu cần thiết để
đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn mà mỗi
một giáo viên GDCD cần có. Thông qua đi thực tế sẽ cung cấp rất
nhiều những tri thức thực tế để họ có điều kiện vận dụng những tri
thức lý luận trong nhà trường luận chứng những vấn đề của thực
tiễn từ đó trong quá trình giảng dạy giảm bớt sự khô cứng, kích
thích sự hứng thú của người học, đem lại hiệu quả cao hơn trong
việc giáo dục TGQDVBC.


Để góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạyTGQDVBC cho HS

THPT hiện nay, trước mắt các trường cần đảm bảo các điều kiện vật
chất cơ bản như: tăng cường sách và tài liệu cần thiết cho thầy và
trò cụ thể là sách giáo khoa phải được đảm bảo đầy đủ; các tạp chí
lý luận và các báo chính phải đảm bảo cho mỗi giáo viên. Để đảm
bảo được những điều kiện vật chất này ở mỗi trường cần phải trang
bị tốt hệ thống thư viện.
Thường xuyên họp tổ chuyên môn về đổi mới phương pháp
giảng dạy môn GDCD. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các
trường THPT đã có nhiều sáng kiến, có nhiều đề tài nghiên cứu
khoa học về chủ đề này nhưng rất hình thức, làm chiếu lệ, không có
một đề tài nào được áp dụng hoặc áp dụng rất hạn chế.
Một trong những giải pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho giáo viên đó là việc nâng cao khả năng vận
dụng, quán triệt những quan điểm của Đảng trong giảng dạy. Muốn
vận dụng, quán triệt được nhất thiết phải nghiên cứu kỹ những văn
kiện của Đảng, hiểu rõ nội dung các quan điểm của Đảng được trình
bày trong các văn kiện đó, trên thực tế điều này không phải ai cũng
thực hiện được. Một số giáo viên giảng dạy, nhất là những giáo viên
trẻ, vẫn còn quan niệm sai lầm khi cho rằng không cần phải nghiên
cứu nghị quyết của Đảng, hoặc xem việc nghiên cứu chỉ qua loa,


đại khái, làm cho có, hoặc xem việc nghiên cứu này chỉ là công việc
của những đảng viên không liên quan đến mình, chỉ nhằm mục đích
tuyên truyền vận động, không liên quan đến nội dung giảng dạy của
mình, tách rời hoàn toàn với lý luận. Do không được nghiên cứu kĩ
lưỡng, thậm chí không đọc văn kiện, nghị quyết của Đảng, nên một
số giáo viên không nắm được thực chất các quan điểm của Đảng, vì
vậy khi giảng dạy không thể lồng ghép những quan điểm của Đảng
vào bài giảng của mình để bài giảng thêm phần thực tiễn được, nếu

có thì cũng chỉ là hình thức, nhắc lại một cách chiếu lệ, gượng ép,
khiên cưỡng. Do vậy, việc giảng dạy chưa đạt được tính thuyết phục
cao, còn xa rời với thực tiễn cuộc sống của đất nước và những diễn
biến của địa phương.
Trong quá trình vận dụng, quán triệt những quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, trong giảng dạy
TGQDVBC không nên đưa ra nhiều các quan điểm của Đảng mà
không đi phân tích sâu những cơ sở lý luận của một quan điểm nào.
Điều đó sẽ làm mờ nhạt tính khoa học trong các quan điểm của
Đảng, tránh chỉ nêu quan điểm nhưng không đi sâu phân tích cho
HS hiểu được bản chất. Muốn làm được như vậy, người giáo viên
giảng dạy phải thường xuyên học hỏi, trau dồi kiến thức, đúc rút
kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy của bản thân. Điều này


suy đến cùng phụ thuộc vào năng lực, trình độ chuyên môn và thực
tiễn của người giáo viên giảng dạy.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy môn giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông
Chương trình học môn GDCD ở cả ba khối đều mang tính trừu
tượng, khó hiểu cùng với khối lượng kiến thức khổng lồ chưa kể
những nội dung tích hợp. Do vậy cần phảiđổi mới nội dung. Bên
cạnh đó, đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD là khâu cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả trong giảng dạy, phát huy
vai trò giảng dạy môn GDCD trong việc giáo dục TGQDVBC cho
HS.
Phương pháp giảng dạy môn GDCD tất yếu phải tuân thủ
những yêu cầu của phương pháp sư phạm. Đồng thời, với tính cách
là phương pháp giảng dạy bộ môn, nó có những đặc trưng riêng phụ
thuộc vào đối tượng dạy học, mục đích, yêu cầu của môn học.

Đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường là đòi hỏi
tất yếu khách quan, xuất phát từ sự gia tăng nhanh chóng khối lượng
tri thức khoa học, sự xuất hiện nhiều lĩnh vực tri thức khoa học mới.
Những biến đổi sâu sắc về khoa học kỹ thuật đã tác động đến hoạt
động giảng dạy, đòi hỏi thay đổi cách dạy của giáo viên đối với HS
THPT.


Hiện nay, để đổi mới phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao,
theo tôi cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, đổi mới phương pháp giảng dạy. Khi giáo viên đổi mới
phương pháp giảng dạy tất yếu phải quán triệt yêu cầu phát huy
được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, là tạo mọi điều
kiện để cho người học phát triển trí tuệ, trí thông minh của mình.
Muốn vậy cần chuyển giảng dạy theo hướng lấy người học là trung
tâm, còn giáo viên luôn đóng vai trò là người tổ chức quá trình dạy
học. Đặt người học ở trung tâm của hệ thống giáo dục là làm cho
người học tự hiểu mình hơn, hiểu môi trường giáo dục và môi
trường lao động và có khả năng tự lựa chọn. Dạy học lấy người học
làm trung tâm nhằm mục đích tích cực hoá quá trình dạy học. Phát
huy cao độ sự tích cực, tính độc lập và sáng tạo của người học,
nhằm mục đích bồi dưỡng năng lực tự lực, năng lực tư duy sáng tạo,
năng lực biết đặt và giải quyết vấn đề, có tác dụng khơi dậy, phát
huy tiềm năng trí tuệ của con người nói chung, tiềm năng HS nói
riêng là vô cùng, vô tận và hết sức đa dạng, phong phú. Vì thế, cần
biết cách khai thác, bồi dưỡng, rèn luyện, phát triển nó. Để phát huy
những đặc tính này của người học, giáo viên phải chịu khó tìm tòi
suy nghĩ, biết đặt ra những câu hỏi hấp dẫn, tạo ra những tình huống
có vấn đề và một không khí học tập sôi nổi, cuốn hút, thoải mái.
Giáo viên GDCD cần tạo dựng cho HS sự say mê, lòng ham học và



phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Cần dạy cho HS không chỉ hiểu
kiến thức mới mà cả phương pháp học tập mà trong đó cốt lõi là tự
học. Mục đích dạy học không chỉ là truyền thụ kiến thức mà điều
quan trọng hơn là rèn luyện cho người học cách học, cách tổ chức
và thực hiện quá trình học tập một cách đạt hiệu quả nhất. Nhằm
giáo dục, BDTGQDVBC cho HS THPT, trong quá trình giảng dạy
môn GDCD, giáo viên nhất thiết phải rèn luyện cho họ năng lực vận
dụng phương pháp luận. Ở đây, cách thức hoạt động của giáo viên
không những nhằm truyền thụ kiến thức cơ bản cho HS, mà còn
phải làm cho người học có thể vận dụng được những kiến thức đó
vào quá trình học tập và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Muốn
vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần linh hoạtvận dụng sáng
tạo các phương pháp dạy học như: thuyết trình, nêu vấn đề, giảng
giải, lấy ví dụ chứng minh, thảo luận nhóm... kết hợp với sử dụng
các phương tiện hiện đại hỗ trợ dạy học để tạo hứng thú, hấp dẫn
HS.
Hai là, đổi mới phương pháp thảo luận. Thảo luận là hình thức
cơ bản, hết sức thiết thực đối với HS và nếu giáo viên áp dụng được
phương pháp tốt sẽ phát huy được hiệu quả trong việc giáo dục
TGQDVBC cho HS. Trong quá trình đổi mới giảng dạy GDCD ở
THPT hoạt động tự học và thảo luận rất được coi trọng. Giáo viên
cần chú trọng đổi mới nội dung, cũng như cách thức thảo luận. Để


làm tốt khâu này, trước hết phải làm tốt việc tổ chức lớp học, chia
thành các nhóm nhỏ và cử ra một nhóm trưởng để duy trì thảo luận,
đồng thời ghi lại, tổng hợp lại những ý kiến của các thành viên trong
nhóm.Trong thảo luận, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, còn

HS là người trình bày, tranh luận vấn đề. Người giáo viên giỏi là
phải biết đặt ra những câu hỏi, tạo ra những tình huống buộc mọi
người phải tham gia, phải suy nghĩ, tìm tòi. Trong quá trình thảo
luận, giáo viên phải theo dõi các ý kiến của HS để nắm được quan
niệm đúng, sai của HS và để tránh tình trạng đi xa, chệch các vấn đề
cần thảo luận. Cần phát hiện và uốn nắn kịp thời cách tiếp cận vấn
đề mang tính máy móc, phiến diện, giáo điều của HS.Kết thúc buổi
thảo luận, ngoài việc tổng kết những ý kiến xung quanh chủ đề thảo
luận, giáo viên còn phải giải đáp những khúc mắc của HS, đồng thời
gợi mở vấn đề để HS có thể hiểu thêm trong những bài học khác.Để
có được những buổi thảo luận thực sự có hiệu quả, đòi hỏi thầy và
trò phải nỗ lực cao, phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Người
thầy phải thật sự tâm huyết với nghề, thường xuyên học hỏi kinh
nghiệm, làm chủ kiến thức và có phương pháp sư phạm tốt.
Ba là, đánh giá kết quả học tập của HS theo cách thức mới.
Đánh giá kết quả học tập là khâu quan trọng trong hoạt động giảng
dạy, ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ và phương pháp học tập của HS,
từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu giảng dạy. Đổi


mới cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh cần hướng tới
phát huy sự tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Phương thức
đánh giá kết quả nhằm thực hiện yêu cầu: giúp người học vừa củng
cố, vừa mở rộng kiến thức; điều chỉnh kịp thời những nhận thức sai
lầm, đặc biệt là cách tư duy máy móc, rập khuôn, phiến diện. Thông
qua đánh giá kết quả học tập của HS, rèn cho HS năng lực vận dụng
lý luận, phương pháp luận biện chứng duy vật để học tập và phân
tích các vấn đề thực tiễn.
- Giải pháp đối với học sinh
Giáo dục là hai mặt thống nhất biện chứng trong một quá

trình, một mặt là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng được giáo
dục, mặt khác là thông qua sự tác động này đối tượng tự biến đổi
bản thân, tự hoàn thiện nâng cao mình lên qua giáo dục HS với tư
cách là chủ thể của quá trình nhận thức được giáo dục sẽ lĩnh hội
những giá trị trong nội dung giáo dục, biến nó thành những nguyên
tắc định hướng chi phối suy nghĩ và hành vi của chính mình để tự
hoàn thiện nhân cách của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của
cuộc sống. Tự giáo dục hay nói cách khác là việc biến “quá trình
giáo dục thành quá trình tự giáo dục” là khâu quan trọng có tính
quyết định đến hiệu quả của quá trình giáo dục nói chung, giáo dục
TGQDVBC nói riêng. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng


yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội đòi hỏi mỗi HS
phải biết tự nỗ lực phát huy cao độ tính tích cực, chủ động trong tự
giáo dục, tự nghiên cứu trong học tập.Trong giờ học tích cực phát
biểu ý kiến xây dựng bài, tích cực tham gia các hoạt động học. Phát
huy khả năng tư duy, sáng tạo của bản thân. Nâng cao khả năng tự
giáo dục TGQDVBC cho HS chính là tạo ra những điều kiện tinh
thần tốt nhất để nhân cách HS có thể chống lại được những tác động
mặt trái của xã hội và những âm mưu diễn biến hoà bình của các thế
lực thù địch, những kích động hàng ngày hàng giờ đến HS, thanh
thiếu niên, nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,
phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Để HS có một TGQ khoa học, một lý tưởng sống cao đẹp, thì
vấn đề cơ bản, quyết định nhất là quá trình tự trau dồi, rèn luyện của
chính bản thân HS. Không ai có thể làm thay, nghĩ thay cho HS
được.
Để biến lý tưởng và hoài bão thành hiện thực, HS hôm nay trí thức của ngày mai cần hiểu rõ tình hình đất nước và nhiệm vụ
cách mạng, xây dựng niềm tin, xác định trách nhiệm gắn học với

hành, gắn lý thuyết với thực tế, trau dồi bản lĩnh đạo đức, tu dưỡng
lập thân, gắn lợi ích của mình với lợi ích và tương lai của dân tộc,


tham gia vào hoạt động xã hội, hoà mình vào cuộc sống của nhân
dân, trở thành tri thức của chế độ mới.
Tự giáo dục ở đây không chỉ đòi hỏi HS một thái độ tự học
nghiêm túc, tích cực mà còn phải có mục đích học tập, rèn luyện
đúng đắn để hoàn thiện chính mình. Tự giáo dục đòi hỏi HS phải có
thái độ nghiêm túc đối với bản thân trong việc đánh giá, nhận xét về
mọi hành vi của mình và tự chịu trách nhiệm trước những kết quả
của những hành vi đó.
TGQDVBC không phải là cái sẵn có ở mỗi con người, mà nó
chỉ thể được hình thành, hoàn thiện thông qua quá trình giáo dục, sự
đấu tranh rèn luyện trong tự giáo dục hàng ngày của mỗi HS. Để
củng cố và khẳng định mình có một TGQDVBC thì không chỉ dừng
lại ở việc nhận thức chung chung, cảm tính mà mỗi HS phải từng
bước hiện thực hoá nó trong cuộc sống và thông qua những hoạt
động thực tiễn chính trị - xã hội của mình.
Chính vì vậy, tính tự giáo dục của HS còn được thể hiện rõ
trong việc tích cực tham gia mọi hoạt động phong trào của Đoàn và
của các tổ chức khác phát động. Thông qua những hoạt động thực
tiễn này HS sẽ được rèn luyện và trưởng thành hơn rất nhiều qua đó
củng cố được niềm tin vào chính bản thân và có một bản lĩnh chính
trị vững vàng trước mọi thử thách và khó khăn của cuộc sống, trước


những kích động lôi kéo của các thế lực xấu, có khả năng chống lại
những luận điểm sai trái.Tính tự giác, chủ động tự giáo dục tự rèn
luyện của HS chính là con đường ngắn nhất để hình thành ở họ một

TGQ khoa học –TGQDVBC.
- Giải pháp đối với chính quyền địa phương, gia đình và xã
hội
Muốn giáo dục TGQDVBC cho HS đạt hiệu quả cao nhất, vấn
đề hết sức quan trọng là phải tạo lập một môi trường kinh tế, xã hội
lành mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho HS. Môi
trường được coi là lành mạnh, trong sạch khi ở đó sự phát triển của
kinh tế không kìm hãm sự phát triển các mặt của đời sống xã hội,
không triệt tiêu và phủ định lẫn nhau. Phát triển kinh tế phải gắn
liền với công bằng và tiến bộ xã hội. Trong chính sách kinh tế và
chính sách xã hội phải thống nhất với nhau, sự phát triển của kinh tế
phải là tiền đề vật chất cho sự phát triển con người, phát triển xã
hội. Bởi vì môi trường sống, điều kiện kinh tế, xã hội có ảnh hưởng
rất lớn tới nhận thức, lối sống, tình cảm và sự hình thành nhân cách
của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì
hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” [35, tr.55].Thành phố
Long Xuyên đang đối mặt với một số khó khăn là tồn tại những tệ


×