Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Phương pháp nghiên cứu khoa hoc (dùng cho sinh viên chuyên ngành chính trị, giáo dục công dân)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.24 KB, 51 trang )

PGS. TS. Trần Xuân Sinh
PGS. TS. Đoàn Minh Duệ

Giáo trình

Phơng pháp luận
nghiên cứu khoa
học
Dùng cho sinh viên các ngành:
Cử nhân s phạm Giáo dục chính trị,
Cử nhân Chính trị- Luật
Cử nhân luật
Và tài liệu tham khảo cho học viên cao học
chuyên ngành LL&PPGD Chính trị

vinh - 2008


Lời nhà xuất bản

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động trí tuệ, là lĩnh vực
lao động phức tạp, có tính sáng tạo cao. Phơng pháp luận
nghiên cứu khoa học là cách thức tiến hành nghiên cứu một đề
tài khoa học. Mỗi nhà khoa học trên cơ sở các phơng pháp và
nguyên tắc chung sẽ có sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của mình để sáng tạo ra các sản phẩm khoa học.
Nhằm giúp các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy đại học
có tài liệu tham khảo khi tiến hành nghiên cứu các đề tài khoa
học; nhằm giúp cho các bạn sinh viên nói chung mà đặc biệt là
sinh viên các chuyên ngành: S phạm Giáo dục Chính trị, Cử
nhân Chính trị- Luật và Cử nhân Luật cũng nh các bạn học


viên Cao học Chuyên nghành Lý luận và Phơng pháp giảng dạy
Chính trị của Trờng Đại học Vinh trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khoá luận, luận văn tốt nghiệp, Nhà
xuất bản Pháp lý đã xuất bản cuốn sách Phơng pháp luận
nghiên cứu khoa học của PGS. TS. Trần Xuân Sinh và PGS. TS.
Đoàn Minh Duệ hiện đang công tác tại Đại học Vinh biên soạn.
Đây là công trình mà 2 tác giả đã biên soạn và giảng dạy
trong nhiều năm ở bậc đại học và sau đại học, tuy vậy chắc
chắn vẫn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi
mong nhận đợc nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tháng 9 năm 2008
Nhà xuất bản Pháp lý

Mục lục

2


Trang
Chơng

1

3
3
niệm

Đại cơng về nghiên cứu khoa học

I.


Khái

3
II. Chức năng cơ bản của nghiên cứu khoa học.7
9
10

III. Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học
IV. sản phẩm của nghiên cứu khoa học

Chơng 2
12
Nội dung cơ bản của nghiên cứu khoa học

12
I.

Định

nghĩa

12
II. Các bớc cơ bản của Nhiên Cứu Khoa Học
III. Về đặt giả thuyết và kiểm định giả thuyết nghiên cứu

13
17

Chơng 3

20
các loại hình của nghiên cứu khoa học
I.

Loại

hình

20
nghiên

cứu

20
II. ý nghĩa của việc nhận dạng loại hình nghiên cứu
III.
Chuyển
giao

23
công

nghệ

25
Chơng

4

26

Phơng

pháp

nghiên

cứu

khoa

học

26
A. Các phơng pháp nghiên cứu khoa học

26
26
27
30

I. Phơng pháp nghiên cứu lý thuyết
II. Phơng pháp nghiên cứu thực nghiệm
III. phơng pháp nghiên cứu phi thực nghiệm
IV. Về việc xử lý số liệu thực nghiệm và phi thực nghiệm

B. Mối quan hệ giữa loại hình nghiên cứu
và phơng pháp
33

3


33
nghiên

cứu


Chơng

5

34
Thực

hiện

đề

tài

nghiên

cứu

34
I.

Khái

niệm


34
II. Các bớc thực hiện đề tài nghiên cứu

Phần

47

Phụ

40

lục

Phụ lục 1. Cấu trúc đề cơng và cách trình bày
Khoá luận tốt nghiệp đại học

Phụ

lục

2.

48

Cấu trúc đề cơng và cách trình bày
Một luận văn tốt nghiệp cao học
Phụ

lục


49
Phụ lục 4. Đề cơng chi tiết của một khoá luận
tốt nghiệp đại học
Tài liệu tham khảo
59

4

3.


Chơng 1
Đại cơng về nghiên cứu khoa học

I. Khái niệm

1. Khoa học là một khái niệm thể hiện tính chặt chẽ, logic,
đúng đắn, đạt đến chân lý. Theo Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2001, thì Khoa học là hệ
thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và đợc thực tiễn
chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới
bên ngoài cũng nh những hoạt động tinh thần của con ngời,
giúp con ngời có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. Theo Điều
2, Luật khoa học - công nghệ, ban hành năm 2000, thì Khoa
học là hệ thống tri thức về các hiện tợng, sự vật, quy luật của
tự nhiên và xã hội. Chúng ta thờng nói: Hội nghị khoa học, Hội
thảo khoa học, Toạ đàm khoa học, Báo cáo khoa học, Làm công
tác khoa học, Thái độ khoa học, Tác phong khoa học, Sắp xếp
khoa học, ...

2. Nghiên cứu khoa học là sự khám phá, phát hiện những
quy luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội (bao gồm cả
con ngời), là sự sáng tạo các giải pháp và sử dụng các giải pháp
khoa học đợc khám phá nhằm phục vụ sự tiến bộ của xã hội loài
ngời. Theo PGS.TS. Trần Khánh Đức (Viện Nghiên cứu và phát
triển giáo dục) thì nghiên cứu khoa học và công nghệ có thể
coi là tập hợp toàn bộ các hệ thống các hoạt động sáng tạo
nhằm phát triển kho tàng kiến thức khoa học và áp dụng chúng
vào thực tiễn. Nh vậy, thực chất của nghiên cứu khoa học là
thu thập và xử lý thông tin trong thế giới tự nhiên và xã hội.
5


Theo Giáo s Vũ Cao Đàm thì thế giới tự nhiên, xã hội, con
ngời gọi chung là sự vật hoặc hiện tợng.
Nh vậy, nghiên cứu khoa học có thể quy về 3 nội dung
chính:
Một là, khám phá, phát hiện những quy luật vận động của
sự vật và hiện tợng.
Hai là, sáng tạo giải pháp khoa học nhằm biến đổi trạng
thái của sự vật và hiện tợng.
Ba là, ứng dụng những giải pháp khoa học nhằm phục vụ
sự tiến bộ của loài ngời.
Ví dụ:
- Bằng lập luận logic chặt chẽ, phát hiện chứng minh đợc
một mệnh đề mới của Toán học. Đó là nghiên cứu khoa học.
- Tìm hiểu về thực trạng của môi trờng tại một khu vực nào
đó, từ đó đa ra các giải pháp, kiến nghị một cách khoa học
nhằm loại bỏ những ảnh hởng xấu của môi trờng sinh thái, đa
lại môi trờng thân thiện trong lành cho con ngời. Đó là nghiên

cứu khoa học.
- Sử dụng tiến bộ khoa học về kỹ thuật vi mạch, xây dựng
mô hình và cho ra sản phẩm máy tính. Đó là nghiên cứu khoa
học.
- Thu thập tình hình, thực trạng giáo dục của một đơn vị,
nghiên cứu những quy luật, quy định về giáo dục, từ đó đa ra
các giải pháp cho quản lý giáo dục ở đơn vị. Đó là nghiên cứu
khoa học.
- Những suy nghĩ, những giải pháp đợc hình thành bằng
sự cảm nhận, cha đợc kiểm chứng khoa học, thì cha đợc coi là
nghiên cứu khoa học.
3. Lý thuyết khoa học. Không có khoa học nào mà không có
lý thuyết. Cũng nh mọi khoa học, nghiên cứu khoa học phải dựa
trên một cơ sở lý thuyết. Và chính nó, nghiên cứu khoa học lại
tạo ra sản phảm lý thuyết.
+ Vậy lý thuyết khoa học là gì?
Cho đến nay, cha có một định nghĩa đầy đủ về lý
thuyết khoa học. Tuy nhiên, ngời ta cũng có thể hình dung đợc
nội dung của nó. Theo Vũ Cao Đàm thì: Lý thuyết khoa học là
một hệ thống luận điểm khoa học về một đối tợng nghiên
6


cứu của khoa học. Lý thuyết cung cấp một quan niệm hoàn
chỉnh về bản chất sự vật, những liên hệ bên trong của sự vật
và mối quan hệ cơ bản giữa sự vật với thế giới bên ngoài. Lý
thuyết khoa học có tính kế thừa và có tính sáng tạo.
Nh vậy, có thể xem lý thuyết khoa học chứa đựng:
a. Một hệ thống luận điểm khoa học về một đối tợng
nghiên cứu của khoa học.

b. Cung cấp một quan niệm hoàn chỉnh về bản chất sự
vật, những liên hệ bên trong của sự vật và mối quan hệ cơ
bản giữa sự vật với thế giới bên ngoài.
c. Đa ra các dự báo về sự phát triển của kinh tế xã hội nói
chung cũng nh về các lĩnh vực khoa học cụ thể.
+ Các bộ phận cấu thành lý thuyết khoa học có thể đợc
thực hiện trong sơ đồ sau đây (theo Vũ Cao Đàm)
Lý thuyết
Kế thừa
Hệ thống
luận
điểm

Sáng tạo
mới

Hệ thống
khái
niệm
Hệ thống
phạm trù
Hệ thống
quy luật

Sơ đồ 1.1
Trong sự kế thừa và sáng tạo của tri thức khoa học chứa
đựng các nội dung về Hệ thống khái niệm, Hệ thống phạm trù
và Hệ thống quy luật.
Sự hình thành và phát triển lý thuyết khoa học tuỳ thuộc
vào mỗi lĩnh vực khoa học khác nhau (lĩnh vực Toán học, lĩnh

vực Vật lý, lĩnh vực Ngôn ngữ, lĩnh vực Chính trị, lĩnh vực
Luật học; có thể nói rộng hơn là lĩnh vực khoa học Tự nhiên
hay khoa học Xã hội và nhân văn và khoa học kỹ thuật công
nghệ...).
4. Tri thức khoa học là những hiểu biết khoa học đợc tích
luỹ trong quá trình sống và quá trình nghiên cứu khoa học. Tri
thức khoa học đợc biểu hiện dới dạng: khái niệm, phạm trù, tiền
đề, quy luật, định lý, mệnh đề, lý thuyết, học thuyết, quan
điểm, hệ t tởng ...
7


Khái niệm là một biểu hiện tri thức khoa học về thuộc tính
bản chất, chủ yếu của sự vật hoặc hiện tợng. Khái niệm giúp
phân biệt sự vật này với sự vật kia, phạm trù này với phạm trù
khác.
Tiên đề là một biểu hiện tri thức khoa học khẳng định
một quy luật bản chất mang tính tất yếu, hiển nhiên đợc thừa
nhận, không đòi hỏi chứng minh bằng các khái niệm đã đợc
hình thành trớc đó. Một hệ tiên đề độc lập, đầy đủ, phi
mâu thuẫn sẽ xây dựng nên một hệ thống lý thuyết của bộ
môn khoa học mới.
Để phân biệt với tri thức khoa học, ngời ta đa ra khái niệm
tri thức thờng nghiệm1. Tri thức thờng nghiệm là tri thức không
có tính sáng tạo, không có chủ kiến giá trị, nó miên man, dàn
trải, xuất phát điểm chủ yếu là những kinh nghiệm, vì vậy
hiệu quả không nhiều, không chứa đựng nhiều giá trị khoa
học.
Chẳng hạn, báo cáo sáng kiến kinh nghiệm thờng nhật, cha
gây đợc những đột biến về giá trị. Đó là tri thức thờng

nghiệm.
5. Luận điểm khoa học. Việc nghiên cứu khoa học đòi hỏi
mỗi cá nhân phải có những ý tởng trong t duy của mình bằng
việc đa ra đợc luận điểm khoa học có bản sắc và lập luận
riêng. Vậy luận điểm khoa học là gì? Làm cách nào để nêu ra
đợc luận điểm khoa học?
Luận điểm khoa học là một phán đoán về bản chất sự vật.
Luận điểm khoa học thờng là kết quả của những suy luận
trực tiếp từ nghiên cứu lý thuyết, quan sát và thực nghiệm.
Bài báo khoa học, Khóa luận, Luận văn khoa học, Báo cáo
khoa học... đều phải là một văn bản trình bày và chứng minh
luận điểm khoa học của tác giả.
Quá trình xây dựng luận điểm khoa học đợc hình thành
theo các bớc sau:

Vũ Cao Đàm. Phơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật, H. 2000. tr. 11.
1

8


+ Bắt đầu, nhà khoa học hay ngời nghiên cứu, hoạt động
phải quan sát, xem xét để nắm bắt sự kiện hoặc vấn đề
khoa học.
+ Phát hiện những mâu thuẫn, vấn đề đặt ra trong sự
kiện khoa học
+ Đặt câu hỏi về nguyên nhân và cách xử lý về mâu
thuẫn đó.
Kết quả của việc thực hiện đặt đợc câu hỏi chính là cho

ta vấn đề nghiên cứu hay vấn đề khoa học.
+ Đa ra câu trả lời sơ bộ.
Kết quả của câu thử trả lời sơ bộ cho ta giả thuyết khoa
học.

II. Chức năng cơ bản của nghiên cứu khoa học.

Từ khái niệm nghiên cứu khoa học đã nêu, ta thấy nghiên cứu
khoa học nhằm hai mục đích cơ bản: mục đích nhận thức và
cải tạo thế giới2. Hai mục đích đó đợc thực hiện thông qua 4
chức năng cụ thể của nghiên cứu khoa học:
- Mô tả
- Giải thích
- Tiên đoán
- Sáng tạo
trên cơ sở tri thức khoa học.
1. Chức năng mô tả. Mục đích của mô tả là đa ra một hệ
thống tri thức về sự vật hoặc hiện tợng. Hệ thống tri thức này
giúp ngời ta có công cụ nhận biết thế giới, phân biệt đợc sự
khác biệt về bản chất giữa sự vật này với sự vật khác. Nội dung
của mô tả bao gồm mô tả cấu trúc, mô tả quan hệ, mô tả
động thái.
Ví dụ:
+ Khi ngời ta nói đến động cơ ô tô là ngời ta phải nói tới
cấu trúc động cơ bốn kỳ của nó. Còn khi nói tới động cơ xe

2

. Sách đã dẫn.


9


máy Honđa là nói tới động cơ hai kỳ. Sự khác biệt cơ bản của
hai loại động cơ này là ở chỗ đó.
+ Khi nói tới một hệ thống theo nghĩa hộp đen, ngời ta
mô tả nó nh là một sơ đồ dạng:
vàoX
Cái




raY
Hệ điều khiển F Cái



Mô tả mối quan hệ giữa cái vào X và cái ra Y, đồng thời
cũng cho thấy kết quả Y phụ thuộc vào X và sự hoạt động
(động thái) của F.
Trong nghiên cứu khoa học việc mô tả phải khách quan,
chân xác, phù hợp với quy luật vận động của nó.
Mô tả phải có các tiêu chí về:
- Định tính
- Định lợng
Kết quả của mô tả phụ thuộc vào: năng lực, góc nhìn và
tầm hiểu biết của ngời mô tả.
2. Chức năng giải thích. Nếu dừng lại ở mô tả thì chỉ mới
đa ra đợc cái mình định nói (dĩ nhiên trong nhiều vấn đề

khoa học, mô tả đợc cái cần quan tâm cũng là thắng lợi quan
trọng). Vấn đề cần có ở khoa học là phải giải thích nguyên
nhân, cội nguyền của sự vật, hiện tợng và dự báo đợc phơng
hớng vận động của sự vật.
Mục đích của giải thích là tìm rõ nguyên nhân để đề ra
các biện pháp tác động vào sự vật, hiện tợng nhằm phục vụ
những lợi ích của con ngời. Kết quả của giải thích phải là sự
trả lời các câu hỏi: Tại sao? Vì sao vậy? Do đâu mà có?...
Nội dung của giải thích gồm:
- Giải thích nguồn gốc;
- Giải thích mối quan hệ, mối liên hệ;
- Giải thích nguyên nhân;
- Giải thích hậu quả, kết quả của nó;
- Giải thích những quy luật chung, có tính khái quát.
3. Dự báo: Dự báo nhằm làm cho con ngời nhìn sự vật và
hiện tợng một cách hoàn chỉnh và chủ động hơn trong tơng
lai. Dự báo bao gồm:
- Dự báo về sự xuất hiện;
- Dự báo về sự tồn tại hoặc huỷ diệt;
10


- Dự báo về sự biến đổi hoặc những định hớng.
Có nhiều phơng pháp dự báo: Phơng pháp chuyên gia, Phơng pháp thống kê, Phơng pháp cảm nhận (linh cảm), Phơng
pháp điều tra xã hội học...
Cần chú ý rằng, dự báo chỉ cho ta những thông tin gần
đúng trên cơ sở cái đã có, dự báo không thể là cái chính xác
hoàn toàn. Bằng lập luận toán học, ngời ta đã chứng minh đợc
rằng, ngời quản lý giỏi phải là ngời biết dự báo đợc nhiều tình
huống, chuẩn bị những giải pháp cho mỗi tình huống một

cách thích hợp và biết chú ý tới mọi tình huống một cách bình
đẳng.
Vì vậy, xét trong mối quan hệ biện chứng, dự báo là
những thông tin quan trọng về định hớng sự vật cũng nh sự
vận động và phát triển của nó trong tơng lai trên cơ sở những
thông tin khoa học hiện tại. Do vậy, dự báo chỉ mang tính gần
đúng. Một nhà khoa học thiên tài hoặc một nhà quản lý xuất
sắc là trên cơ sở những dự báo đó phải tìm ra luận cứ khoa
học hợp lý phục vụ cho công việc hiện tại của mình.
4. Sáng tạo. Sáng tạo đợc coi là chức năng quan trọng nhất
của nghiên cứu khoa học. Nhiệm vụ của sáng tạo là tìm ra cái
mới hữu ích, hiệu quả nhằm phục tốt cho con ngời (bao gồm cả
những ý tởng mới, những giải pháp mới, những kiến tạo mới,
những chính sách mới, những thay đổi mới...).
III. Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học

C. Mác nói: Sản phẩm của lao động khoa học luôn đợc
đánh giá kém xa so với giá trị thực của nó, bởi vì giá trị lao
động sống nhằm tái tạo ra nó không thể nào so sánh đợc với giá
trị lao động quá khứ sáng tạo ra nó lần đầu tiên. Thực tế cho
thấy, sản phẩm khoa học là một quá trình lao động gian lao,
vất vả của nhiều thế hệ, quá trình ấp ủ, hình thành tình
huống có vấn đề tới kết quả là một chặng đờng đầy gian
nan và thử thách. Tuy nhiên, khi đã có kết quả thì nhiều ngời
lại cho đó là công việc bình thờng. Vì vậy, chúng ta có thể
khai thác từ những ý tởng đã nêu của C. Marx để xem xét một
cách đầy đủ những đặc điểm của nghiên cứu khoa học.
Ví dụ:
Phát hiện định luật rơi tự do của Niutơn. Bây giờ ta nghe,
ta biết thông qua câu chuyện của Niutơn khi ngồi dới gốc táo,

11


nhìn táo rơi mà tìm ra định luật. Đơn giản quá. Tuy nhiên, trớc khi phát hiện ra định luật, Niutơn đã phải suy nghĩ, trăn trở
với bao nhiêu giả thiết, bao nhiêu thí nghiệm khác nhau, Ông
âm thầm làm việc, thử nghiệm, ai mà đánh giá đợc.
Ngời ta đã rút ra những đặc điểm chính của nghiên cứu
khoa học là:
1. Tính mới hay tính sáng tạo. Là thuộc tính quan trọng
nhất của nghiên cứu khoa học. Tính mới ở đây phải đợc hiểu
đầy đủ theo quan điểm phi mâu thuẫn trong sự tồn tại của
thế giới khach quan. Mới không có nghĩa là phủ định cái cũ
một cách tuỳ tiện, cứng nhắc.
2. Tính rõ ràng. Tức là kết quả của nghiên cứu khoa hoc
phải có thông tin rõ ràng về vấn đề nêu ra.
3. Tính khách quan.
4. Tính tin cậy.
5. Tính kế thừa.
6. Tính chủ kiến (luận điểm khoa học).
7. Tính mạo hiểm.
8. Tính phi kinh tế.
IV. sản phẩm của nghiên cứu khoa học

Kết quả của mọi hoạt động do con ngời đều đợc thể hiện
trên sản phẩm có đợc của nó. Trong mọi trờng hợp, sản phẩm
của nghiên cứu khoa học chính là thông tin (nghiên cứu khoa
học, suy cho cùng là thu thập và xử lý thông tin). Sản phẩm
thông tin đợc bộc lộ theo nhiều dạng khác nhau.
1. Sản phẩm là các luận điểm của tác giả đã đợc chứng
minh hoặc bác bỏ. Luận điểm khoa học biểu hiện thông qua

những hình thức khác nhau tuỳ thuộc lĩnh vực khoa học. Luận
điểm đó có thể thể hiện qua định lý trong toán học, những
định luật trong vật lý, những quy luật, phạm trù trong các vấn
đề chính trị- xã hội, những nguyên tắc mang tính pháp lý
trong luật học hoặc những nguyên lý trong kỹ thuật (nguyên lý
máy phát điện, nguyên lý động cơ phản lực).
2. Sản phẩm là vật mang thông tin. Vật mang thông tin có
thể bao gồm:
- Vật mang tính định tính: Sách, báo, băng âm, băng
hình, đĩa hình,
12


- Vật mang tính công nghệ: Sản phẩm đợc sản xuất ra quy
trình công nghệ.
- Vật mang tính xã hội: Quan điểm khoa học, trờng phái
khoa học, bí quyết công nghệ, ...
Chú ý: Khi xem xét sản phẩm nghiên cứu khoa học cần chú
ý đến mức độ của giá trị sản phẩm liên quan đến các khái
niệm sau:
a. Phát hiện. Phát hiện là sự nhận ra những vật thể, những
quy luật xã hội đang tồn tại một cách khách quan (phát hiện vi
trùng, phát hiện nguyên tố phóng xạ, phát hiện châu Mỹ, phát
hiện quy luật giá trị thặng d, phát hiện các phép biện chứng
trong lĩnh vực xã hội Phát hiện chỉ mới là sự khám phá các
vật thể hoặc các quy luật, làm thay đổi nhận thức, cha thể áp
dụng trực tiếp, nó chỉ có thể áp dụng khi nghiên cứu tìm ra
các giải pháp.
b. Phát minh. Phát minh là sự phát hiện ra những quy luật,
những tính chất hoặc những hiện tợng của thế gới vật chất

tồn tại một cách khách quan mà trớc đó cha ai biết, nhờ đó làm
thay đổi cơ bản nhận thức của con ngời. Phát minh là khám
phá về quy luật khách quan, cha có ý nghĩa áp dụng trực tiếp
vào sản xuất hoặc đời sống.
c. Sáng chế. Sáng chế là loại sản phẩm trong lĩnh vực khoa
học kỹ thuật và công nghệ (chẳng hạn sáng chế ra máy hơi nớc, công thức chế tạo thuốc nổ TNT, sáng chế ra máy in
lades...). Sáng chế có khả năng áp dụng vào lĩnh vực kinh tế
hoặc vào đời sống xã hội và có ý nghĩa thơng mại, có thể
mua- bán, ký hợp đồng chuyển giao, đợc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp.

13


Chơng 2
Nội dung cơ bản của nghiên cứu khoa học
I. Định nghĩa

Nội hàm của khái niệm là những hiểu biết về toàn thể
thuộc tính bản chất đợc phản ánh trong khái niệm. Nội hàm
của khái niện đợc thể hiện thông qua định nghĩa.
Ngoại diên của khái niệm là toàn thể những cá thể có chứa
các thuộc tính bản chất đợc phản ánh trong khái niệm.
Giữa nội hàm và ngoại diên có quan hệ tỉ lệ nghịch: Khi
mở rộng ngoại diên thì nội hàm bị thu hẹp lại và ngợc lại khi thu
hẹp ngoại diên thì nội hàm đợc mở ra.
Ví dụ: Cối xay là một dụng cụ đợc xoay quanh một điểm cố
định dùng để nghiền những vật nào đó. Nội hàm của khái
niệm là dụng cụ đợc xoay quanh một điểm cố định dùng để
nghiền những vật nào đó. Ngoại diên của khái niệm là cối xay

bột, cối xay lúa, cối xay gió, cối xay cà phê, cối xay thịt... Khi
ngoại diên thu hẹp chỉ cái cối xay gió thì nội hàm cũng đợc
mở rộng là dụng cụ đợc xoay quanh một điểm cố định dùng
để nghiền những vật nào đó nhờ sức gió.
Định nghĩa một sự vật hoặc hiện tợng là sự tách ngoại diên
của sự vật cần định nghĩa ra khỏi sự vật gần nó và chỉ ra nội
hàm của chúng.
14


Trong định nghĩa khái niệm cối xay nh trên thì cụm từ
một dụng cụ nhằm tách các sự vật gần nó có cùng nội hàm là
đợc xoay quanh một điểm cố định dùng để nghiền những
vật nào đó.
II. Các bớc cơ bản của Nhiên Cứu Khoa Học

1. Thiết lập sự kiện. Muốn nghiên cứu khoa học, trớc hết
cần có tình huống có vấn đề, tức là cần phải thiết lập sự
kiện. Sự kiện luôn tồn tại trong tự nhiên và xã hội. Sự phát hiện
sự kiện để nghiên cứu cho ta định hớng ban đầu của quá
trình lao động khoa học.
2. Quan sát sự kiện. Khi đã thiết lập đợc sự kiện nghiên
cứu, chúng ta tiến hành quan sát chúng. Quan sát nhằm nhận
rõ mặt sự kiện, quan sát để phát hiện vấn đề nghiên cứu,
để đặt ra giả thuyết và để kiểm định giả thuyết.
3. Phát hiện vấn đề nghiên cứu (hay là vấn đề khoa
học). Bớc này cần 3 nội dung:
+ Xác định vấn đề nghiên cứu, tức là xác định những
điều cha biết hoặc cha biết rõ về bản chất của sự vật hoặc
hiện tợng, cần đợc làm rõ trong quá trình nghiên cứu.

+ Đặt ra những ý tởng khoa học. ý tởng khoa học đợc hình
thành từ quan sát sự kiện. Nó chỉ mới là những ý tởng phác hoạ
ban đầu, tức là những phán đoán trực cảm. Nội dung của ý tởng khoa học bao gồm:
- ý tởng về quy luật hình thành, tồn tại và vận động phát
triển của sự vật hoặc hiện tợng. Chính những ý tởng về quy
luật này mà tạo ra những tiền đề ban đầu cho những phát
minh có tính trừu tợng cao.
- ý tởng về giải pháp (chẳng hạn Niutơn có ý tởng bẩy đợc
quả đất).
- ý tởng về hình mẫu, tức là xây dựng, thiết kế, mô phỏng
nên những hình mẫu phù hợp những ý tởng về giải pháp đã
nêu.
Để hình thành ý tởng khoa học có thể có nhiều con đờng
khác nhau.
15


+ Vấn đề và giả vấn đề. Nh đã nêu trên thiết lập sự kiện
tức là tìm ra tình huống có vấn đề. Tuy nhiên, ngời nghiên
cứu cần nhận rõ vấn đề đợc thiết lập thực sự có vấn đề hay
không. Trong thực tế có nhiều sự hiện xảy ra nhng đó chỉ là
những giả vấn đề, tức là nó không tồn tại thực sự cần phải
giải quyết.
4. Xây dựng khái niệm. Khái niệm ở đây hiểu đầy đủ
theo nghĩa vấn đề cần đợc nghiên cứu.
Ví dụ: Nếu chúng ta nói: Quản lý tình huống là khác với nói
Tình huống quản lý. Đó là 2 khái niệm khác nhau, nên nội dung
nghiên cứu cũng sẽ khác nhau. Do vậy chuẩn hoá, thống nhất
khái niệm, sáng tạo khái niệm mới phù hợp với những khái niệm
đã có là việc làm cần thiết.

Khái niệm phản ánh những thuộc tính chung, chủ yếu có
tính bản chất của sự vật hoặc hiện tợng. Nhờ khái niệm mà
ngời ta phân biệt đợc sự vật hoặc hiện tợng. Trên cơ sở đó
mà phân tích, đánh giá, so sánh, phát hiện, trựu tờng hoá,
khái quát hoá. Khái niệm phải làm rõ đợc nội hàm và ngoại diên
của nó (cái định nói và cái mô hình của nó). Tức là chúng ta
cần tách đợc ngoại diên của sự vật hoặc hiện tợng cần định
nghĩa ra khỏi cái gần nó và chỉ rõ nội hàm.
Các thao tác cần chú ý khi hình thành khái niệm:
+ Thu hẹp khái niệm, tức là chuyển từ khái niệm có ngoại
diên rộng sang khái niệm có ngoại diên hẹp. Chẳng hạn khái
niệm Cối xay là một dụng cụ đợc xoay quanh một điểm cố
định dùng để nghiền những vật nào đó. Cối xay là một dụng
cụ đợc xoay quanh một điểm cố định dùng để xay lúa. Cối
xay là một dụng cụ đợc xoay quanh một điểm cố định dùng
để xay cà phê
+ Mở rộng khái niệm, tức là chuyển một khái niệm từ ngoại
diên hẹp sang khái niệm có ngoại diên rộng bằng cách loại bỏ bớt
những thuộc tính phổ bién trong nội hàm của khái niệm xuất
phát. Chẳng hạn khái niệm: Nghiên cứu khoa học là sự khám
phá, phát hiện những quy luật vận động của thế giới tự nhiên
và xã hội (bao gồm cả con ngời), là sự sáng tạo các giải pháp và
sử dụng các giải pháp khoa học đợc khám phá nhằm phục vụ sự
16


tiến bộ của xã hội loài ngời. Nếu chúng ta thu bớt nội hàm sáng
tạo các giải pháp và sử dụng các giải pháp khoa học đợc khám
phá nhằm phục vụ sự tiến bộ của xã hội loài ngời, thì nghiên
cứu khoa học sẽ đợc mở rộng hơn, không còn bị ràng buộc bởi

điều kiện phục vụ sự tiến bộ của xã hội loài ngời.
+ Phân chia khái niệm: Phân chia khái niệm nhằm mục
đích vạch rõ sự phân lớp ngoại diên của khái niệm đó. Do vậy,
việc phân chia khái niệm cần chú ý phân chia theo một tiêu
chí nhất định, các lớp ngoại diên là riêng biệt, không giao nhau
(việc phân chia nh vậy thờng gọi là phân chia triệt để).
Chẳng hạn: khái niệm Tam giác đợc phân chia thành: tam giác
thờng, tam giác vuông, (theo tiêu chí 3 góc); hay tam giác thờng, tam giác cân, tam giác đều (theo tiêu chí 3 cạnh). Ngời ta
có thể phân chia theo loại (xếp theo loại) hoặc phân chia đôi
(từng đôi có tính đối lập nhau - phân biệt khái niệm kinh tế
kế hoạch và kinh tế thị trờng).
Chú ý rằng, trong một số trờng hợp việc phân chia khái
niệm, vì những lý do khác nhau, có thể phân chia không triệt
để (phân lớp ngoại còn có sự giao nhau). Chẳng hạn: khái
niệm loại hình nghiên cứu khoa học (phân chia theo kết quả
sản phẩm), đợc chia thành nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và nghiên cứu triển khai (xem chơng 3).
5. Đặt giả thuyết nghiên cứu (hay là giả thuyết khoa
học).
5.1. Giả thuyết nghiên cứu là những ý tởng về những kết
quả có thể thu đợc trong quá trình nghiên cứu. Claude Barnard
cho rằng: Giả thuyết là khởi đầu cho mọi nghiên cứu khoa học,
không có khoa học nào mà lại không có giả thuyết. Ví dụ: Khi
nghiên cứu về mối quan hệ giữa trái đất và mặt trời, ngời ta
đặt giả thuyết: Quả đất là một vật thể tròn, quay xung
quanh mặt trời. Từ giả thuyết đã nêu ngời ta phải sử dụng mọi
phơng pháp để chứng minh cho giả thuyết đó. Một giả thuyết
nghiên cứu có thể đúng, có thể sai. Tuy nhiên, quá trình chứng
minh hay bác bỏ giả thuyết đều cho ta những kết quả khoa
học giá trị. Mendeleev đã nói: Một giả thuyết sai, vẫn còn hơn

không có một giả thuyết nào.
17


5.2. Chú ý: Vấn đề khoa học có ảnh hởng trực tiếp đến
giả thuyết khoa học. Chúng ta có thể mô tả ảnh hởng này theo
sơ đồ
Vấn đề
ý tởng
Giả thuyết
khoa học
khoa học
khoa học
(câu hỏi)

(hớng trả lời)

(câu

trả lời sơ bộ)
5.3. Giả thuyết khoa học có những thuộc tính cơ bản:
- Tính giả định. Giả thiết đợc đặt ra là để chứng minh.
Giả thiết chỉ mới là một nhận định, cha đợc kiểm chứng.
- Tính đa phơng án. Trớc một vấn đề nghiên cứu không bao
giờ chỉ tồn tại một câu trả lời duy nhất.
- Tính dị biến. Do sự phát triển của nhận thức, một giả
thuyết có thể sớm bị xem xét lại ngay sau khi vừa mới đợc đặt
ra. Ngời ta gọi đó là tính dị biến của giả thuyết (dị là dễ,
biến là biến đổi).
5.4. Tiêu chí để xem xét một giả thuyết

+ Giả thuyết phải dựa trên cơ sở quan sát, dựa trên kết quả
sơ bộ của việc tìm câu trả lời cho câu hỏi đặt ra sau khảo
sát.
+ Giả thuyết không đợc trái với lý thuyết. Khi xem xét tiêu
chuẩn này cần lu ý rằng lý thuyết phải đã đợc xác nhận là
đúng đắn khoa học. Và ngay cả lý thuyết đợc xem là đúng
đắn theo nghĩa phát triển của quá trình nhận thức thì lý
thuyết ấy vẫn có thể đợc bổ sung. Cũng cần chú ý thêm rằng
lý thuyết mà chúng ta nói ở đây là trong phạm vi tơng đối
nào, tính khái quát với mức độ ra sao?
+ Giả thuyết phải đợc kiểm chứng.
6. Kiểm chứng giả thuyết. Kiểm chứng giả thuyết đã nêu
là nhiệm vụ suốt quá trình nghiên cứu khoa học của nhà khoa
học. Việc kiểm chứng có thể dẫn đến một trong hai kết cục:
Hoặc giả chứng minh đợc giả thuyết là đúng, hoặc chỉ ra
rằng giả thuyết đã nêu là sai (bác bỏ giả thuyết).
18


III. đặt giả thuyết và kiểm định giả thuyết nghiên cứu

1. Đặt giả thuyết nghiên cứu (giả thuyết khoa học)
Để xây dựng giả thuyết nghiên cứu, ngời ta cần chú ý:
Một là giả thuyết nghiên cứu chỉ mới là một phán đoán
logic.
Hai là giả thuyết nghiên cứu chỉ mới là một kết luận giả
định.
Ba là giả thuyết nghiên cứu có quan hệ với loại hình nghiên
cứu (xem chơng 3).
- Với loại hình nghiên cứu cơ bản, cần đa ra giả thuyết về

quy luật của sự vật hoặc hiện tợng.
- Với loại hình nghiên cứu ứng dụng, cần đa ra giả thuyết
về giải pháp thực hiện.
- Với loại hình nghiên cứu triển khai, cần đa ra giả thuyết
về hình mẫu.
Giả thiết nghiên cứu có thể chia theo quan điểm logic học
hoặc theo quan điểm loại hình nghiên cứu. Tất nhiên sự phân
chia ở đây cũng chỉ có tính chất tơng đối, không có sự cách
biệt trong phân lớp.
Chẳng hạn, trong quan điểm logíc, ngời ta phân ra giả
thuyết chung và giả thuyết riêng.
Trong phân chia loại hình nghiên cứu ngời ta phân ra giả
thuyết quy luật, giả thuyết về giải pháp và giả thuyết về
hình mẫu.
Để xem xét một giả thuyết khoa học, chúng ta cần quan
tâm:
+ Giả thuyết khoa học phải dựa trên cơ sở quan sát
+ Giả thuyết khoa học không đợc trái với lý thuyết khoa học
Chý ý rằng lý thuyết khoa học ở đây là đã đợc xác định
và bổ sung hoàn chỉnh. Tránh nhầm lẫn với lý thuyết đã cũ
không còn giá trị, ngộ nhận, hoặc thiếu sót.
+ Giả thuyết khoa học phải đợc kiểm chứng (kiểm định)
2. Kiểm định giả thuyết
Kết quả của kiểm chứng phải đạt tới:
Hoặc là chứng minh giả thuyết đúng
19


Hoặc là bác bỏ giả thuyết.
Phơng pháp kiểm chứng đợc thực hiện nhờ suy luận. Có 3

hình thức suy luận:
Suy luận diễn dịch. Suy luận diễn dịch là loại suy luận từ
cái chung, suy ra cái riêng.
+ Suy luận trực tiếp. Suy luận trực tiếp là phơng pháp suy
luận gồm 1 tiền đề và một kết đề (suy ra trực tiếp). Sơ đồ
của suy luận là A B. Chẳng hạn:
- Hôm qua anh không đi làm việc
- Anh đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
+ Suy luận gián tiếp. Suy luận gián tiếp là loại suy luận gồm
nhiều tiền đề và 1 kết đề. Sơ đồ là: A, B, C ... Z. Chẳng
hạn:
- Nghỉ việc không có lý do, Công việc hoàn thành chất lợng kém, Vi phạm nếp sống văn hoá thì không đợc tăng lơng.
- Anh A đã nghỉ việc không lý do, Anh A công việc hoàn
thành kém, Anh A đã vi phạm nếp sống văn hoá. Vậy anh
A không đợc tăng lơng.
Trong suy luận gián tiếp, rất đáng chú ý là tam đoạn luận là
loại suy luận thông dụng gồm 2 tiền đề và 1 kết đề. Chẳng
hạn:
- Tất cả các số chẵn đều chia hết cho 2
- 4 là số chẵn
- Vậy 4 chia hết cho 2.
Cần chú ý suy luận sai. Suy luận sai thông thờng do hoặc là
thiếu tiền đề hoặc là đánh tráo tiền đề, suy luận không
đúng logic.
a) Suy luận quy nạp.
+ Quy nạp không hoàn toàn là loại quy nạp đi từ một số cái
riêng đi đến cái chung. Ví dụ: Các số 2, 4, 6 ... là số chẵn có
dạng: 2.1, 2.2, 2.3, ... vậy số chẵn có dạng 2.n, trong đó n là số
tự nhiên.
Trong thực tế của những quan sát thí nghiệm, thông thờng

chúng ta thực hiện theo quy nạp không hoàn toàn.
20


+ Quy nạp hoàn toàn là loại quy nạp đi từ tất cả cái riêng đi
đến cái chung. Ví dụ: Các số 2, 4, 6 ... là số chẵn có dạng: 2.1,
2.2, 2.3, ... Giả sử n số chẵn có dạng 2.n là đúng. Khi đó số
chẵn thứ (n + 1)sẽ là (2.n + 2). Rõ ràng 2.n + 2 = 2(n+1). Ta
kết luận: tất cả số chẵn có dạng 2.n, trong đó n là số tự nhiên.
c) Loại suy
Loại suy là hình thức suy luận đi từ cái riêng đến cái riêng.
Chẳng hạn: Khi định ra chế độ chính sách đãi ngộ cán bộ
của cơ quan, các chuyên viên thờng đi tham quan, xem xét ở
các cơ quan bạn, từ đó áp dụng cho cơ quan mình (tạm xem
nh các cơ quan bạn đã làm đúng chủ trơng chính sách và
đặc điểm giống cơ quan mình).

Chơng 3
các loại hình nghiên cứu khoa học
I. Loại hình nghiên cứu

Việc phân loại loại hình nghiên cứu giúp ta có định hớng
xác định trong mục tiêu, phơng pháp và tạo sản phẩm tơng
ứng. Về mặt quản lý, việc phân loại loại hình nghiên cứu khoa
học có ý nghĩa quan trọng. Dựa trên việc phân loại, ta quản lý
đợc từng đề tài mà cơ quan quản lý đang thực hiện. Cũng

21



trên cơ sở phân loại mà đặt chỉ tiêu, kế hoạch, kinh phí, yêu
cầu sản phẩm cần có cho mỗi loại.
Ví dụ: Trong Quy định số 1441/NCKH của Hiệu trởng
Đại học Vinh Về việc triển khai và nghiệm thu các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Trờng và cấp Bộ nêu rõ: Các đề tài
khoa học cơ bản cấp Bộ phải có ít nhất 3 bài báo đăng trên
Tạp chí chuyên ngành cấp quốc gia, Tạp chí các trờng đại học;
các đề tài cấp Trờng ít nhất phải có một bài báo đăng trên tạp
chí Trờng Đại học Vinh; các đề tài thuộc khoa học giáo dục phải
có kết quả thực nghiệm và ứng dụng tại một địa chỉ cụ thể;
các đề tài thuộc khoa học ứng dụng triển khai phải có sản
phẩm ứng dụng tại một địa chỉ cụ thể đợc xác nhận; các đề
tài khoa học thực nghiệm phải có đợc những số liệu thực
nghiệm tin cậy, mới mẻ và có thể công bố đợc trên các Tạp chí
trung ơng và các trờng đại học.
Việc phân loại nghiên cứu khoa học có nhiều cách khác
nhau:
I. Phân loại theo mức độ và tính chất của sản phẩm
khoa học
Theo cách phân loại này, ta có thể phân loại hình nghiên
cứu khoa học thành các lớp nh sau:
1. Nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là loại hình
nghiên cứu nhằm phát hiện về bản chất và quy luật của sự vật
hay hiện tợng trong tự nhiên, xã hội và con ngời. Nghiên cứu cơ
bản có thể tiến hành nhờ những suy luận lý thuyết hoặc nhờ
thực nghiệm. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản là những quy
luật, định lý, những giải pháp, những phát hiện, phát kiến trên
cơ sở đó xây dựng đợc những cơ sở lý thuyết có giá trị trên
các mặt hoạt động tơng ứng. Nghiên cứu cơ bản có hai loại:
+ Nghiên cứu cơ bản thuần tuý.

+ Nghiên cứu cơ bản có định hớng (hay nghiên cứu thăm
dò). Trong nghiên cứu cơ bản định hớng, theo UNESCO, đợc
phân chia thành 2 lĩnh vực: nghiên cứu nền tảng và nghiên
cứu chuyên đề.
Nghiên cứu nền tảng là loại hình nghiên cứu có tính chất
tìm hiểu, khám phá bằng việc quan sát, đo đạc, thu thập số
22


liệu những vấn đề có tính chất cơ sở làm nền tảng cho một
luận thuyết nào đó.
Nghiên cứu chuyên đề là loại hình nghiên cứu có tính chất
chuyên đề cụ thể nào đó.
2. Nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu ứng dụng là loại
hình nghiên cứu mang đặc trng ứng dụng những kết quả của
nghiên cứu cơ bản nhằm đa ra những giải pháp thuộc một một
lĩnh vực nào đó của tự nhiên, xã hội và con ngời.
Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là những giải
pháp, những kiến nghị, những quy trình, những thuật toán
hoặc công thức cho sản phẩm mới ... Chú ý rằng nghiên cứu
ứng dụng chỉ mới dừng lại ở kết quả có tính chất nghiên cứu
mà cha cần thiết phải có ứng dụng cụ thể.
3. Nghiên cứu triển khai. Nghiên cứu triển khai là loại
hình nghiên cứu có tính kỹ thuật, đợc sử dụng các kết quả
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Sản phẩm của nghiên cứu triển khai phải là các sản phẩm cụ
thể có tính hình mẫu mang tính khoa học. Nh vậy nghiên cứu
triển khai cũng có thể cha đòi hỏi sản phẩm có địa chỉ tung
ra thị trờng. Cần chú ý rằng để có đợc sản phẩm có địa chỉ
và tung ra thị trờng còn phụ thuộc nhiều yếu tố phi khoa học

khác nh: tài chính, môi trờng, năng lực quản lý, tâm lý tiêu
dùng... khác.
Hoạt động triển khai đợc phân chia thành các loại hình
sau:
+ Triển khai trong phòng thí nghiệm. Loại hình này nhằm
khẳng định kết quả mà cha quan tâm đến quy mô áp dụng
(chẳng hạn các phơng pháp nhân bản).
+ Triển khai bán đại trà. Loại hình này nhằm kiểm chứng
giả thuyết với quy mô áp dụng vừa phải.
+ Triển khai đại trà. Kết quả đã đợc khẳng định. Chẳng
hạn nhân diện rộng giống lúa mới.
Để phân biệt 3 loại hình đã nêu, chúng ta hãy thử xếp các
sản phẩm khoa học sau đây thuộc loại hình nghiên cứu nào?
+ Từ phát hiện sức đẩy của hơi nớc đến tàu hoả chạy bằng
đầu máy hơi nớc.
23


+ Từ phát hiện chất bán dẫn đến bóng bán dẫn đến lý
thuyết vô tuyến điện và sản phẩm thu-phát thanh.
+ Đổi mới phơng pháp giảng dạy.
+ Viết giáo trình giảng dạy.
+ Ô nhiễm môi trờng - thực trạng và giải pháp.
+ Thí điểm cải tiến phân cấp quản lý giáo dục.
I . Phân loại theo chức năng nghiên cứu
Theo cách phân loại này, ngời ta chia ra các loại hình
nghiên cứu:
1. Nghiên cứu mô tả. Nghiên cứu mô tả là nghiên cứu
nhằm đa ra một hệ thống tri thức nhằm nhận dạng sự vật, giúp
phân biệt đợc sự khác nhau về bản chất giữa sự vật này với ự

vật khác. Nội dung mô tả bao gồm: mô tả hình thái, động thái,
tơng tác; mô tả định tính, tức là mô tả các đặc trng bản chất
của sự vật; mô tả định lợng nhằm chỉ ra các các đặc trng về
lợng của sự vật.
2. Nghiên cứu giải thích. Nghiên cứu giải thích là nghiên
cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành hay
huỷ diệt và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật.
Nội dung của nghiên cứu giải thích có thể bao gồm giải thích
nguồn gốc, động thái, cấu trúc, tơng tác, hậu quả, quy luật
chung chi phối quá trình vận động của sự vật.
3. Nghiên cứu giải pháp. Nghiên cứu giải pháp là loại
nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới cha từng tồn tại.
4. Nghiên cứu dự báo. Nghiên cứu dự báo là những nghiên
cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật hay hiện tợng trong tơng lai.
Chú ý:
- Trên đây là phân loại trên bình diện chung, ở mỗi ngành,
mỗi cấp có thể phân loại hình nghiên cứu theo những góc độ
khác nhau và chia nhỏ các loại hình nghiên cứu.
- Tuỳ thuộc vào loại đề tài nghiên cứu mà phân loại, có thể
có loại đề tài thuộc cả 3 loại hình nêu trên...
II. ý nghĩa của việc nhận dạng loại hình nghiên cứu

24


Việc phân loại loại hình nghiên cứu không chỉ có ích cho
ngời ngời nghiên cứu, mà còn có tác dụng tích cực cho ngời
quản lý. Nó giúp cho ngời quản lý (cơ quan quản lý) và ngời
nghiên cứu có đợc các định hớng sau đây:
1. Cần hiểu rõ giả thuyết nghiên cứu.

Bất kỳ vấn đề tài nghiên cứu nào cũng có giả thuyết nghiên
cứu.
- Với khoa học cơ bản, giả thuyết nghiên cứu thờng là các
giả thuyết về quy luật của sự vật hay hiện tợng. Những quy
luật này sẽ cần đợc chứng minh hay bác bỏ.
- Nghiên cứu ứng dụng, thờng là giả thuyết về giải pháp. Các
giải pháp nêu ra cũng có thể đợc chứng minh, kiểm nghiệm và
khẳng định, cũng có thể bị bác bỏ.
- Các giải pháp loại hình triển khai thờng là giả thuyết về
hình mẫu. Các hình mẫu đợc đa ra có thể đợc hoàn thiện, có
thể bị loại bỏ.
2. Dự kiến kế hoạch và kết quả nghiên cứu.
Căn cứ vào loại hình nghiên cứu và nhà nghiên cứu cũng nh
ngời quản lý (cơ quan quản lý) có đợc định hớng kế hoạch,
hình dung đợc khả năng của sản phẩm nghiên cứu. Từ kê hoạch
nghiên cứu sẽ đi kèm kế hoạch tài chính, khả năng áp dụng và
triển khai về sau.
Trên cơ sở phân loại loại hình nghiên cứu mà chúng ta
định hớng đánh giá, định lợng đợc kết quả nghiên cứu (tức là
xây dựng chỉ tiêu đánh giá).
Chẳng hạn, với các đề tài khoa học cơ bản, chúng ta cần
các định kết quả của sản phẩm khoa học là các quy tắc, quy
luật đợc phát hiện (mới về nội dung, chính xác về lý luận, ý
nghĩa về khoa học ...). Với các đề tài ứng dụng thì sản phẩm
khoa học là các giải pháp đợc chứng minh, đợc thể nghiệm
dạng hình mẫu. Sản phẩm của nghiên cứu triển khai là các
hình mẫu có địa chỉ.
Nh đã nêu trong chơng 2, giả thuyết nghiên cứu là công
việc không thể thiếu của một công trình nghiên cứu. Từ đây
chúng ta có thể hình dung đợc giả thuyết nghiên cứu đợc thực

hiện trên từng loại hình nghiên cứu nh thế nào.
25


×